Phát triển nguồn lực trí thức nữ trong bối cảnh công nghiệp 4.0 tại Việt Nam

Phụ nữ Việt Nam chiếm hơn 48% lực lượng lao động xã hội, có

mặt trong mọi lĩnh vực, trên mọi địa bàn, chủ động tham gia các hoạt

động của đời sống xã hội, thực hiện tốt chủ trương, đường lối của

Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tích cực hưởng ứng các

phong trào thi đua yêu nước, đạt nhiều thành tích xuất sắc. Ðồng

thời, phụ nữ làm tốt vai trò người vợ, người mẹ, giữ thiên chức làm

mẹ, sinh con, duy trì nòi giống, là điểm tựa tinh thần vững chắc, gắn

kết các thành viên trong gia đình, cùng chăm lo xây dựng gia đình

hạnh phúc. Do vậy, lực lượng lao động nữ chính là nguồn nhân lực

có vai trò đặc biệt.

Phát triển nguồn lực trí thức nữ trong bối cảnh công nghiệp 4.0 tại Việt Nam trang 1

Trang 1

Phát triển nguồn lực trí thức nữ trong bối cảnh công nghiệp 4.0 tại Việt Nam trang 2

Trang 2

Phát triển nguồn lực trí thức nữ trong bối cảnh công nghiệp 4.0 tại Việt Nam trang 3

Trang 3

Phát triển nguồn lực trí thức nữ trong bối cảnh công nghiệp 4.0 tại Việt Nam trang 4

Trang 4

Phát triển nguồn lực trí thức nữ trong bối cảnh công nghiệp 4.0 tại Việt Nam trang 5

Trang 5

Phát triển nguồn lực trí thức nữ trong bối cảnh công nghiệp 4.0 tại Việt Nam trang 6

Trang 6

Phát triển nguồn lực trí thức nữ trong bối cảnh công nghiệp 4.0 tại Việt Nam trang 7

Trang 7

Phát triển nguồn lực trí thức nữ trong bối cảnh công nghiệp 4.0 tại Việt Nam trang 8

Trang 8

Phát triển nguồn lực trí thức nữ trong bối cảnh công nghiệp 4.0 tại Việt Nam trang 9

Trang 9

Phát triển nguồn lực trí thức nữ trong bối cảnh công nghiệp 4.0 tại Việt Nam trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 13 trang baonam 8800
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Phát triển nguồn lực trí thức nữ trong bối cảnh công nghiệp 4.0 tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển nguồn lực trí thức nữ trong bối cảnh công nghiệp 4.0 tại Việt Nam

Phát triển nguồn lực trí thức nữ trong bối cảnh công nghiệp 4.0 tại Việt Nam
PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC TRÍ THỨC NỮ TRONG BỐI CẢNH 
CÔNG NGHIỆP 4.0 TẠI VIỆT NAM
Hà Diệu Linh1* - Trần Thị Thanh Nga2** - Nguyễn Thị Hiền3***
Tóm tắt: Nguồn lực trí thức nói chung và nguồn lực trí thức nữ nói 
riêng là nguồn nhân lực có đóng góp quan trọng vào công cuộc 
xây dựng và phát triển đất nước. Trong bối cảnh công nghiệp 4.0, 
nguồn lực trí thức nữ có vị trí quan trọng trong đội ngũ trí thức 
nói chung không chỉ vì về mặt số lượng, mà còn do những đặc 
điểm về sinh lý, tâm lý. Bài viết này nghiên cứu làm rõ đặc điểm, 
vai trò của nguồn lực trí thức nữ và kiến nghị các giải pháp phát 
triển nguồn lực trí thức nữ trong bối cảnh công nghiệp 4.0. 
Từ khoá: Nguồn lực; Trí thức nữ; Công nghiệp 4.0.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Phụ nữ Việt Nam chiếm hơn 48% lực lượng lao động xã hội, có 
mặt trong mọi lĩnh vực, trên mọi địa bàn, chủ động tham gia các hoạt 
động của đời sống xã hội, thực hiện tốt chủ trương, đường lối của 
Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tích cực hưởng ứng các 
phong trào thi đua yêu nước, đạt nhiều thành tích xuất sắc. Ðồng 
thời, phụ nữ làm tốt vai trò người vợ, người mẹ, giữ thiên chức làm 
mẹ, sinh con, duy trì nòi giống, là điểm tựa tinh thần vững chắc, gắn 
kết các thành viên trong gia đình, cùng chăm lo xây dựng gia đình 
hạnh phúc. Do vậy, lực lượng lao động nữ chính là nguồn nhân lực 
có vai trò đặc biệt.
* Nghiên cứu sinh, Bộ Giáo dục và Đào tạo.
** Trung tâm Thông tin - Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội.
*** Thạc sĩ, Trường Đại học Y dược, Đại học Quốc gia Hà Nội.
297
PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC TRÍ THỨC NỮ TRONG BỐI CẢNH CÔNG NGHIỆP 4.0 TẠI VIỆT NAM 
Ở Việt Nam, nguồn lực trí thức nói chung và nguồn lực trí thức 
nữ nói riêng là nguồn nhân lực có đóng góp quan trọng vào công 
cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Kinh nghiệm và thực tiễn các 
nước có nền kinh tế phát triển cao cho thấy quá trình phát triển kinh 
tế số đòi hỏi phải có một đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ 
thuật cao, sức sáng tạo lớn, trong đó nguồn lực trí thức nữ đóng vai 
trò không nhỏ. Do đó, việc phát triển và phát huy năng lực sáng tạo 
mọi lực lượng lao động trong xã hội, trong đó có trí thức nữ là một 
nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định.
Trong bối cảnh công nghiệp 4.0 sẽ tạo ra những bước nhảy vọt về 
năng suất lao động trong các ngành nghề nhưng đồng thời cũng đặt 
ra các thách thức đối với lực lượng lao động khi máy móc sẽ dần thay 
thế lao động chân tay và dần thay thế cả những lao động có kỹ thuật 
và nhân viên văn phòng (Đỗ Anh Đức, 2020), nguồn lực trí thức nữ có 
vị trí quan trọng trong đội ngũ trí thức nói chung không chỉ vì về mặt 
số lượng, mà còn do những đặc điểm về sinh lý, tâm lý. Chính những 
đặc điểm tâm - sinh lý này là những lợi thế hoặc yếu thế của nữ giới so 
với nam giới trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực hoạt động. Vì vậy, bên 
cạnh những chính sách chung, cần thiết phải đi sâu nghiên cứu đối 
tượng trí thức nữ để đề xuất những giải pháp, chính sách riêng hoặc 
trong chính sách chung có chú ý đến đặc điểm và điều kiện của trí thức 
nữ. Có vậy, đội ngũ trí thức nói chung, trí thức nữ nói riêng mới có thể 
phát triển mạnh về số lượng, nâng cao về chất lượng và phát huy được 
tiềm năng của mình trong sự nghiệp đổi mới.
2. NGUỒN LỰC TRÍ THỨC NỮ
2.1. Nguồn lực trí thức
Ở nước ta, khái niệm trí thức cũng được nhiều người, nhất là các 
nhà khoa học, các nhà nghiên cứu quan tâm. Đã có nhiều cách tiếp cận 
và lý giải khác nhau, song tất cả đều thống nhất ở một số đặc trưng: 
Người trí thức là khái niệm dùng để chỉ tất cả những người lao động 
trí óc, có trình độ học vấn, có khả năng sáng tạo và phẩm chất đạo đức 
cá nhân.
298
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
Theo Hồ Chí Minh, người tốt nghiệp Đại học, nhưng nếu chỉ 
thuộc kiến thức sách vở, không biết vận dụng vào thực tế, thì đó chỉ 
là “trí thức học sách”, “trí thức một nửa”, “chưa phải là trí thức hoàn 
toàn”. Như vậy, theo Hồ Chí Minh, ở người trí thức không chỉ cần có 
kiến thức chuyên môn, mà một dấu hiệu cơ bản khác phải có là biết 
vận dụng sáng tạo những kiến thức đó vào thực tế cuộc sống. Trên cơ 
sở quan điểm của một số nhà nghiên cứu ở nước ta về trí thức, có thể 
đi tới một quan niệm chung về trí thức như sau: Trí thức là một tầng 
lớp xã hội đặc biệt, có trình độ học vấn cao; trình độ chuyên môn sâu, 
có phẩm chất; lương tri; lao động trí óc phức tạp; sáng tạo, phổ biến 
và nghiên cứu ứng dụng tri thức khoa học trong hoạt động thực tiễn, 
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Với khái niệm trí thức 
này chúng ta có thể nhận biết trí thức trên một số đặc điểm cơ bản sau:
Một là, trí thức không phải là một giai cấp mà là một tầng lớp xã 
hội. Khi xã hội phân chia thành giai cấp, cái quyết định cho tính chất 
giai cấp của các lực lượng xã hội là quan hệ sở hữu. Trong xã hội đó, trí 
thức không có quan hệ riêng và trực tiếp với sở hữu về tư liệu sản xuất, 
trí thức không hợp thành một giai cấp độc lập về kinh tế mà là tần ... ều đó chứng tỏ trong lĩnh vực rất mới, phụ nữ đã tỏ rõ khả năng, 
sự thông minh, nhạy bén của mình góp phần to lớn vào sự nghiệp phát 
triển đất nước.
Trong lĩnh vực Giáo dục và Đào tạo: Hội nghị Ban chấp hành 
Trung ương lần thứ hai (khoá VIII), Đảng ta đã khẳng định giáo dục 
và đào tạo (GD&ĐT), khoa học và công nghệ (KH&CN) là quốc sách 
hàng đầu, lấy phát triển GD&ĐT và KH&CN làm yếu tố cơ bản, coi đó 
là khâu đột phá trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Sở dĩ như vậy là 
bởi vì GD& ĐT, KH&CN có vai trò hết sức quan trọng. Trong bối cảnh 
công nghiệp 4.0, đội ngũ trí thức Việt Nam có trách nhiệm lớn trong 
303
PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC TRÍ THỨC NỮ TRONG BỐI CẢNH CÔNG NGHIỆP 4.0 TẠI VIỆT NAM 
việc nâng cao dân trí, tạo ra mặt bằng trí tuệ cho dân tộc ngang tầm với 
các quốc gia trên thế giới, trước hết trong lĩnh vực GD&ĐT. Cùng với 
một số lĩnh vực quan trọng nói trên, đội ngũ trí thức nói chung cũng 
như nguồn lực trí thức nữ nói riêng còn có vai trò lớn trong các lĩnh 
vực khác như sáng tạo văn học, nghệ thuật, làm phong phú thêm đời 
sống vật chất, tinh thần, góp phần vào sự nghiệp giáo dục, định hướng 
cho thế hệ trẻ và nhân cách con người Việt Nam, nâng cao chất lượng 
nguồn nhân lực Việt Nam.
Cuối cùng, nguồn lực trí thức nữ có vai trò đặc biệt quan trọng 
trong tái sản xuất sức lao động có chất lượng cao cho xã hội. Phụ nữ 
chiếm gần một nửa dân số, có tiềm năng trí tuệ to lớn, thực sự trở thành 
động lực mạnh mẽ đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Hơn thế nữa, 
trước khi trở thành một nhà khoa học, một nhà quản lý hay doanh nhân, 
họ là một phụ nữ, một người vợ, người mẹ. Ở cương vị này, họ giữ vai 
trò đặc biệt trên lĩnh vực tái sản xuất và giáo dục những con người hữu 
ích cho xã hội, trong việc chăm sóc và bồi dưỡng từ ban đầu những đứa 
con - nguồn lực tương lai quý báu nhất của dân tộc. Nếu những người 
mẹ có sự hiểu biết đầy đủ về chăm sóc, giáo dục con cái, về văn hoá, xã 
hội,... sẽ là cái nôi của lớp người tài năng trong tương lai.
4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC TRÍ THỨC NỮ TRONG BỐI CẢNH 
CÔNG NGHIỆP 4.0
Thứ nhất, tăng cường công tác tuyên truyền trong xã hội về bình 
đẳng nam nữ. Tuyên truyền, giáo dục trong xã hội những vấn đề về giới 
bằng các phương tiện khác nhau nhằm thay đổi quan niệm cũ, hình 
thành và phát triển quan niệm mới về bình đẳng nam nữ trong xã hội 
là công việc cần được làm liên tục, ở mọi cấp, mọi môi trường. Nội dung 
công tác tuyên truyền không những chỉ là nội dung của quan niệm về 
sự bình đẳng nam nữ, mà còn là các văn bản, chính sách của Đảng, Nhà 
nước có liên quan; các biểu hiện cụ thể về sự bình đẳng và bất bình đẳng 
đang diễn ra trên thực tế,... Đối tượng công tác tuyên truyền không chỉ là 
phụ nữ, mà là cả nam và nữ, từ lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước, 
đến người dân. Cần thông qua các phương tiện truyền thông khác nhau, 
304
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
trước hết là các phương tiện thông tin đại chúng. Công tác tuyên truyền 
cũng cần được thực hiện ngay tại các diễn đàn của Đảng, Nhà nước, các 
đoàn thể quần chúng. Kết quả công tác tuyên truyền không chỉ được 
đánh giá bởi các cam kết mang tính tuyên bố, mà cần được đánh giá bởi 
kết quả của việc lồng ghép quan điểm giới vào các kế hoạch phát triển 
các lĩnh vực khác nhau như giáo dục và đào tạo, lao động, xoá đói giảm 
nghèo, vay vốn,...
Thứ hai, phát triển giáo dục, đào tạo, nâng cao dân trí cho phụ nữ. 
Ngày nay, nhiều nước trên thế giới tập trung vào việc hoạch định và 
hiện thực hoá chiến lược con người, xem đó như một chiến lược bao 
trùm, chiến lược của mọi chiến lược (Brody và các cộng sự, 2017). Nét 
đặc trưng nổi bật của chiến lược con người trong giai đoạn văn minh 
trí tuệ là xác định vai trò quan trọng hàng đầu của GD&ĐT, coi GD&ĐT 
là phương tiện chủ yếu quyết định chất lượng nguồn lực con người. 
Để đáp ứng yêu cầu ở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo, 
cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho thị trường lao động trong 
bối cảnh toàn cầu hoá thì đội ngũ giảng viên đủ năng lực, trình độ và 
nhiệt huyết đóng vai trò hết sức quan trọng (Đỗ Anh Đức và Nguyễn 
Ngọc Quỳnh, 2020). Ngoài ra, các giá trị tri thức mới được tạo ra trong 
các trường đại học thông qua quá trình trình giảng dạy và nghiên cứu 
cũng cần được quan tâm đưa vào đời sống xã hội, vào sản xuất và kinh 
doanh (Đỗ Anh Đức và Trương Thị Huệ, 2018). Vì vậy, nhiều nước trên 
thế giới coi việc phát triển GD&ĐT là quốc sách hàng đầu.
Thứ ba, có chính sách hợp lý trong đào tạo, bồi dưỡng nâng cao 
trình độ đội ngũ trí thức nữ để đảm bảo đào tạo ra một lớp trí thức nữ 
trẻ có chất lượng cao, số lượng và cơ cấu đảm bảo đáp ứng đòi hỏi của 
công nghiệp 4.0. thông qua các biện pháp cụ thể sau: (1) Khuyến khích 
các nữ sinh thi vào các trường đại học, có chính sách ưu tiên cho nữ 
sinh ở các vùng nông thôn, đồng bào dân tộc thiểu số trong việc tuyển 
sinh; cấp học bổng, hỗ trợ cho nữ sinh học giỏi nhằm đào tạo ra một 
đội ngũ trí thức nữ có chất lượng; tăng cường hơn việc đào tạo trí thức 
nữ cho các vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc để khắc phục tình 
trạng thiếu hụt trí thức nữ ở nhiều vùng quan trọng như hiện nay. 
(2) Khuyến khích nữ sinh thi vào các trường đại học thuộc các lĩnh vực 
305
PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC TRÍ THỨC NỮ TRONG BỐI CẢNH CÔNG NGHIỆP 4.0 TẠI VIỆT NAM 
hợp với sở trường của nữ như Sư phạm, Y, Dược,... Mặt khác, khích lệ, 
động viên nữ sinh thi vào các lĩnh vực khoa học mới, khoa học ứng 
dụng, khoa học đòi hỏi tư duy trừu tượng nhằm phát huy khả năng 
của phụ nữ ở các lĩnh vực đó. Từ đó tạo điều kiện mở rộng lĩnh vực việc 
làm cho nữ sinh viên sau khi tốt nghiệp. Đồng thời phải trang bị cho 
sinh viên nói chung, nữ sinh viên nói riêng những kiến thức về các mặt 
để có đủ phẩm chất, năng lực, lòng tự tin bước vào cuộc sống, tham gia 
vào các lĩnh vực chính trị, quản lý, kinh doanh,... (3) Thành lập các quỹ 
hỗ trợ tài năng trẻ cho nữ sinh viên là việc làm cần được khuyến khích 
mở rộng nhằm thu hút sự tài trợ, đóng góp của các tổ chức, cá nhân vì 
hiền tài của đất nước và vì sự phát triển của phụ nữ. Đồng thời, việc 
làm này tạo ra động lực thúc đẩy, giúp đỡ nữ sinh viên có ý chí vươn 
lên trong học tập, nhất là nữ sinh viên thuộc diện có hoàn cảnh khó 
khăn, có tinh thần vượt khó. (4) Đa dạng hoá các hình thức học tập và 
các loại hình trường đại học, cũng tạo điều kiện để phụ nữ tham gia 
học tập liên tục, nâng cao không ngừng trình độ của mình. Việc mở các 
nhánh về các tỉnh hay khu vực để giảm bớt khó khăn đi lại và chi phí 
tốn kém trong thời gian học cho người học cũng sẽ thu hút và tạo thêm 
điều kiện cho nữ sinh hay phụ nữ ở các vùng nông thôn, vùng xa có 
cơ hội được đi học.
Thứ tư, tạo lập chính sách phù hợp trong sử dụng nữ trí thức 
thông qua các các giải pháp cụ thể sau: (1) Cần bố trí những công việc 
phù hợp với nữ trí thức. Đối với ngành kỹ thuật - tự nhiên, công việc 
phù hợp với nữ là giảng dạy, thí nghiệm, nghiên cứu, phân tích, thiết 
kế, đồ hoạ, thống kê về kỹ thuật, kiểm tra,... Các công việc này đòi hỏi 
tính tỉ mỉ, kiên nhẫn, khéo tay, chính xác, thận trọng nhưng vẫn phải 
sáng tạo. Với công tác nghiên cứu, nữ thiên về nghiên cứu tại bàn, ít 
đi xa, ít đến công trường,... Những công việc không phù hợp với nữ là 
công việc mua bán trang thiết bị công nghiệp, tham gia các dự án/ hợp 
đồng sản xuất, trực tiếp sản xuất chế tạo, thi công, lắp đặt, sửa chữa 
bảo trì, khảo sát thực địa, chào hàng sản phẩm công nghiệp,... Đối với 
nhóm ngành kinh tế - xã hội - nhân văn, hầu hết các công việc đều phù 
hợp với nữ, như giảng dạy, nghiên cứu, văn phòng, tài chính, kế toán, 
dịch thuật, hướng dẫn du lịch, tiếp thị, bán hàng, thống kê,... (2) Trong 
306
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
trường hợp nữ trí thức đang nuôi con nhỏ, có thể làm việc theo cách 
khoán công việc, không nên theo giờ hành chính. Hiện nay nhiều cơ 
quan nghiên cứu khoa học, trường đại học đã áp dụng phương thức 
quản lý cán bộ theo cách này. Với các cơ quan, doanh nghiệp khác, 
nếu có thể, nhất là với các công việc nghiệp vụ, ít tiếp xúc với khách 
hàng, nên bố trí công việc và thực hiện khoán theo số lượng và chất 
lượng công việc. Trong điều kiện thông tin hiện đại như hiện nay (qua 
e-mail, điện thoại,...) phương thức làm việc này là hoàn toàn khả thi. 
Với phương thức này, người nữ trí thức có thể vừa làm việc, vừa chăm 
con của mình. (3) Cần tạo được môi trường làm việc thuận lợi cho trí 
thức nữ để các nhà khoa học, công nghệ, tích cực trong sáng tạo, cống 
hiến; cần tạo điều kiện làm việc cần thiết cho các nhà trí thức nữ như 
cung cấp thông tin, trang bị phương tiện thí nghiệm, các cơ sở triển 
khai. Tạo cơ chế thuận lợi cho việc ứng dụng nhanh các kết quả nghiên 
cứu vào thực tiễn. Mặt khác, cần giải quyết thoả đáng lợi ích vật chất 
và lợi ích tinh thần, lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị - xã hội cho các 
nhà nghiên cứu, sáng chế, phát minh, ứng dụng có hiệu quả khoa học, 
công nghệ. Phải coi lao động của trí thức là lao động trí óc, sáng tạo. Do 
vậy, sản phẩm trí tuệ trước hết phải là sở hữu của người tạo ra chúng, 
được coi như hàng hoá đặc biệt, cần tạo lập thị trường để sản phẩm 
đó được lưu thông và được trả giá tương xứng với giá trị của chúng. 
Nhà nước có trách nhiệm tổ chức, quản lý, tạo điều kiện thuận lợi cho 
các hoạt động sáng tạo của trí thức nói chung, trí thức nữ nói riêng và 
bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của họ, tạo ra bầu không khí dân chủ, tự 
do trong hoạt động, sáng tạo... Chỉ có như vậy mới toàn dụng và khai 
thác có hiệu quả lao động trí tuệ của đội ngũ trí thức nữ. (4) Chú ý bồi 
dưỡng nữ trí thức đưa vào vị trí quản lý, lãnh đạo. Xét dưới góc độ 
Giới, phụ nữ và nam giới đều có khả năng trở thành người quản lý, 
lãnh đạo. Song trên thực tế, do nhiều nguyên nhân, ở công tác này phụ 
nữ chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ (Kompa và Witkowska, 2018). Bởi vậy, để phụ 
nữ tham gia vào công tác quản lý thì vấn đề quan trọng nhất là phải 
phát triển toàn diện người phụ nữ, chú ý bồi dưỡng năng lực và phát 
triển nhân cách cá nhân người phụ nữ, đồng thời công tác quản lý cần 
được tổ chức một cách khoa học để phụ nữ vừa tham gia quản lý, vừa 
chăm lo được gia đình, nuôi dạy con cái.
307
PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC TRÍ THỨC NỮ TRONG BỐI CẢNH CÔNG NGHIỆP 4.0 TẠI VIỆT NAM 
Thứ năm, cần cải tiến chính sách lương đối với trí thức. Về chính 
sách đãi ngộ đối với trí thức nữ nói riêng và trí thức nói chung của Đảng 
và Nhà nước hiện nay còn nhiều điều chưa hợp lý, chưa thoả đáng. 
Curkrowska (2014) chỉ ra rằng, phân phối trong thu nhập của xã hội 
chưa phù hợp với yêu cầu của quy luật phân phối theo lao động. Mức 
độ thu nhập của nhiều người trong xã hội hiện nay, nhiều khi và không 
phải lúc nào cũng bắt nguồn từ nhân tố tài năng, sự cống hiến, mà là do 
những nhân tố khác. Hiện tượng một trí thức nữ được đào tạo rất tốn 
kém, ra trường làm công tác nghiên cứu, giảng dạy có mức lương thu 
nhập thấp hơn một nữ công nhân hay một lao động giản đơn không cần 
qua đào tạo hay đào tạo qua loa; lương của một giáo sư, tiến sĩ còn thấp 
hơn rất nhiều lần so với một giám đốc doanh nghiệp hay công ty trách 
nhiệm hữu hạn mới tốt nghiệp cử nhân (thậm chí chưa có bằng cấp gì)... 
còn đang rất phổ biến trong xã hội ta. Điều đó làm giảm sút nhiệt tình, 
lòng quyết tâm vươn lên của bản thân trí thức nữ, gây ra tâm trạng thiếu 
tin tưởng vào chế độ ưu đãi hiền tài của Đảng và Nhà nước.
Thứ sáu, tăng cường các chính sách xã hội đối với gia đình. Dù ở 
bất kỳ cương vị nào, phụ nữ đều phải dành thời gian và có trách nhiệm 
đối với gia đình. Một đặc điểm đáng lưu ý ở nước ta, phần lớn phụ nữ 
thành đạt trong khoa học, quản lý thường là những phụ nữ có gia đình 
ổn định, được chồng con giúp đỡ về cả vật chất, tinh thần. Hoàn cảnh 
này không phải ở đâu cũng có. Điều đó cho thấy, yếu tố gia đình rất 
quan trọng đối với phụ nữ Việt Nam nói chung và đối với trí thức nữ 
nói riêng, đòi hỏi các nhà làm chính sách quan tâm đặc biệt đến yếu tố 
này. Do bị chi phối bởi công việc gia đình, chị em chịu thiệt thòi hơn 
nam giới trong việc học tập và nâng cao trình độ, nắm bắt thông tin và 
tham gia các hoạt động xã hội. Vì vậy, chính sách xã hội phải tập trung 
giảm nhẹ công việc gia đình cho phụ nữ. Ngoài các chính sách về tạo 
việc làm, tăng thu nhập cho trí thức nữ... đã nêu ở trên, Nhà nước cần 
quan tâm tăng cường các hệ thống dịch vụ gia đình nhằm giảm nhẹ 
công việc nội trợ cho phụ nữ, như: “công nghệ hoá” việc sản xuất các 
phương tiện, dụng cụ bếp núc nội trợ gia đình; Mở rộng và nâng cao 
chất lượng hệ thống nhà trẻ, mẫu giáo, cơ sở y tế, chăm sóc sức khoẻ bà 
308
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
mẹ trẻ em; Cải tiến chế độ bảo hiểm xã hội, xây dựng và ban hành chế 
độ cân bằng trách nhiệm của nam giới trong việc cùng chăm sóc con cái 
và các thành viên trong gia đình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Brody, C., Hoop, T. D., Vojtkova, M., Warnock, R., Dunbar, M., Murthy, P., & 
Dworkin, S. L. (2017), Can self-help group programs improve women’s em-
powerment? A systematic review, Journal of Development Effectiveness, 9(1), 15-40.
2. Clarke, L., Gleeson, C., & Wall, C. (2017), Women and low energy construc-
tion in Europe, New York: Routledge
3. Das, S., Carranza, E., & Kotikula, A. (2018), Addressing Gender-Based Em-
ployment Segregation. Jobs Group, World Bank.
4. Đỗ Anh Đức (2020), Đổi mới sáng tạo tại Việt Nam trong bối cảnh công 
nghiệp 4.0, Tạp chí Kinh tế và Quản lý, số 33, 57-60.
5. Đỗ Anh Đức, Nguyễn Ngọc Quỳnh (2020), "Quản lý đội ngũ giảng viên 
Trường Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn: Thực trạng và giải pháp", 
Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 296, 105-108.
6. Đỗ Anh Đức, Trương Thị Huệ (2018), "Xây dựng mô hình đại học định 
hướng đổi mới sáng tạo trong bối cảnh cách mạng công nghệ 4.0", Tạp 
chí Kinh tế châu Á Thái Bình Dương, số 512, 25-27.
7. Heintz, J., Kabeer, N., & Mahmud, S. (2018), Cultural norms, economic in-
centives and women’s labour market behaviour: empirical insights from 
Bangladesh. Oxford Development Studies, 46(2), 266-289.
8. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
9. Jagannathan, S., Ra, S., & Maclean, R. (2019), Dominant recent trends 
impacting on jobs and labor markets-An Overview. International Journal 
of Training Research, 17(sup1), 1-11.
10. Keinänen, M., & Beck, E. E. (2017), Wandering intellectuals: establishing 
a research agenda on gender, walking, and thinking, Gender, Place & Cul-
ture, 24(4), 515-533.
11. Kompa, K., & Witkowska, D. (2018), Factors affecting men’s and women’s 
earnings in Poland. Economic research-Ekonomska istraživanja, 31(1), 252-269. 
12. Rahman, R. I., & Islam, R. (2013), Female labour force participation in Bangla-
desh: trends, drivers and barriers, International Labour Organization, DWT 
for South Asia and Country Office for India.

File đính kèm:

  • pdfphat_trien_nguon_luc_tri_thuc_nu_trong_boi_canh_cong_nghiep.pdf