Phát triển lực lượng lao động công nghiệp tỉnh Đồng Nai trong hội nhập quốc tế
Trong bài viết này, tác giả khảo sát 309 công nhân lao động trực tiếp và lao động văn phòng đang làm việc trong các khu công nghiệp và cụm công nghiệp tỉnh Đồng Nai nhằm đánh giá thực trạng chất lượng của lực lượng lao động công nghiệp từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của lực lượng lao động công nghiệp tỉnh Đồng Nai đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Bạn đang xem tài liệu "Phát triển lực lượng lao động công nghiệp tỉnh Đồng Nai trong hội nhập quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển lực lượng lao động công nghiệp tỉnh Đồng Nai trong hội nhập quốc tế
101 Phát triển lực lượng . . . PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG CÔNG NGHIỆP TỈNH ĐỒNG NAI TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ Cảnh Chí Hoàng* TÓM TẮT Trong bài viết này, tác giả khảo sát 309 công nhân lao động trực tiếp và lao động văn phòng đang làm việc trong các khu công nghiệp và cụm công nghiệp tỉnh Đồng Nai nhằm đánh giá thực trạng chất lượng của lực lượng lao động công nghiệp từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của lực lượng lao động công nghiệp tỉnh Đồng Nai đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế. Từ khóa: lao động công nghiệp, lực lượng lao động công nghiệp, Đồng Nai LABOUR FORCE DEVELOPMENT INDUSTRIAL DONG NAI INTEGRATION IN INTERNATIONAL ABSTRACT In this essay, the authors surveyed 309 manual workers and office employees who are working in industrial zones and industrial parks in Dong Nai province in order to evaluate the industrial workforce’s actual quality and then propose some feasible remedies to enhance such quality in Dong Nai in accordance with the requirements of international integration. Keywords: industrial labor, industrial workforce, Dong Nai. Chính trị - Xã hội * Giảng viên khoa QTKD, trường Đại học Tài chính – Marketing TP. HCM - Email: canhchihoang@gmail.com . Điện thoại: 0908807899 102 Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Sản xuất vật chất là cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội loài người, làm nên các thời đại kinh tế khác nhau của lịch sử nhân loại như V.I.Lênin đã nói “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, người lao động”1. Đồng Nai là một trung tâm kinh tế công nghiệp lớn của cả nước; nơi mà các khu công nghiệp (KCN), cụm công nghiệp (CCN) xuất hiện ngày càng nhiều với quy mô và tốc độ lớn, đang rất cần một lực lượng lao động công nghiệp (LLLĐCN) với số lượng ngày càng tăng, chất lượng ngày càng cao với cơ cấu hợp lý. Đồng Nai hiện có 554.038 người làm việc trong ngành công nghiệp, GDP công nghiệp ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế, GDP công nghiệp chiếm 57% trong cơ cấu GDP toàn tỉnh. Tuy nhiên, tay nghề của LLLĐCN không cao, vừa yếu và vừa thiếu. Đánh giá đúng chất lượng của LLLĐCN, xu thế phát triển và yêu cầu một LLLĐCN đủ về số lượng, mạnh về chất lượng và phù hợp về cơ cấu cho phát triển công nghiệp của tỉnh trong giai đoạn tới, sẽ giúp các nhà lãnh đạo tỉnh Đồng Nai xác định rõ những điểm mạnh và điểm yếu về vốn nhân lực của mình để từ đó đưa ra những biện pháp điều chỉnh kịp thời nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh trong giai đoạn hội nhập. 2. Thực trạng phát triển lực lượng lao động công nghiệp tỉnh Đồng Nai Đồng Nai hiện có 30 KCN, 904 doanh nghiệp hoạt động với 430.061 lao động, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) chiếm 92%, cơ cấu ngành nghề chủ yếu là các ngành thâm dụng lao động như dệt may 73.257 lao động (chiếm 17,03 %); cơ khí 43.501 lao động (chiếm 10,12%); da giầy 156.262 lao động (chiếm 36,33%). Quy mô lực lượng lao động công nghiệp tỉnh Đồng Nai biểu hiện qua số lượng lao động đang làm việc trong ngành công nghiệp của tỉnh biểu hiện qua bảng sau: Bảng 1. Quy mô lao động trong ngành công nghiệp Đơn vị: người Năm Dân số LĐ đang làm việc LĐ công nghiệp Tỷ trọng trong công nghiệp (%) Dân số LĐ đang làm việc 2002 2.113.937 989.199 192.035 9,08 19,4 2003 2.149.614 1.029.150 232.339 10,8 22,6 2004 2.185.694 1.084.150 296.162 13,6 27,3 2005 2.214.380 1.149.772 316.546 14,3 27,5 2006 2.263.787 1.181.993 363.644 16,1 30,8 2007 2.372.648 1.221.020 408.120 17,2 34,4 2008 2.432.745 1.263.639 444.034 18,3 35,1 2009 2.499.656 1.337.670 449.074 18,0 33,6 2010 2.575.063 1.435.520 463.607 18,0 32,3 2011 2.658.030 1.532.390 520.728 19,6 34,0 2012 2.720.820 1.593.030 554.038 20,4 34,8 Nguồn: Niên giám thống kê Đồng Nai 1. V.I.Lênin Toàn tập (1977), (38), Nxb Tiến bộ, Matxcova, tr.430. 103 Phát triển lực lượng . . . Như vậy, LLLĐCN ở Đồng Nai trong những năm qua tăng một cách đáng kể, nếu như năm 2002 có 192.035 người làm việc trong ngành công nghiệp của tỉnh chiếm 9,08% dân số và 19,4% số lao động đang làm việc trên địa bàn thì đến năm 2008, số người lao động trong ngành công nghiệp của tỉnh là 444.034 người chiếm 18,3% dân số và 35,1% lao động đang làm việc, đây là giai đoạn lao động làm việc trong ngành công nghiệp chiếm tỷ lệ cao nhất. Từ năm 2009 đến nay, do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu, số lượng lao động trong ngành công nghiệp giảm dần nhưng vẫn duy trì khoảng 33% trong tổng số lao động đang làm việc. Quy mô của LLLĐCN tỉnh Đồng Nai tăng lên không ngừng chứng tỏ các ngành công nghiệp ngày càng mở rộng và thu hút ngày càng nhiều lao động vào làm việc. Xu hướng trên là vấn đề cần quan tâm của các cấp quản lý, của nhà nước trong việc xây dựng chính sách phát triển LLLĐCN cho phát t ... động xuất thân từ nông nghiệp, nông thôn còn mang nặng tác phong sản xuất của một nền kinh tế tiểu nông, tùy tiện về giờ giấc và hành vi. Người lao động hầu như chưa được trang bị các kiến thức và kỹ năng làm việc theo nhóm, không có khả năng hợp tác và gánh chịu rủi ro, ngại phát huy sáng kiến và chia sẻ kinh nghiệm làm việc. Ý thức chấp hành kỷ luật lao động kém, hiểu biết kiến thức về luật pháp chưa cao, nên trong thực tế đã xảy ra không ít những vụ tranh chấp lao động, xô xát, hành hung giữa những người lao động với nhau. Họ luôn xem 106 Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät bản thân là những người đi làm thuê cho các “ông chủ”, do đó thiệt hại của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất ngoài nguyên nhân khách quan thì chủ yếu người lao động vẫn còn xem việc đó không ảnh hưởng đến lợi ích riêng của bản thân. Điều này dẫn đến họ không có ý thức tốt trong việc bảo quản các dụng cụ làm việc, tìm mọi cách để tiết kiệm hao phí lao động, nâng cao năng suất lao động mà chủ yếu làm rập khuôn theo những gì đã có. Chưa kể đến việc bớt xén thời gian lao động (dù bị kiểm tra gắt gao) như trong lúc đi vệ sinh... Tất cả những hành vi đó xuất phát từ một bộ phận người lao động công nhân làm cho sự tin tưởng và gắn kết giữa lãnh đạo và người công nhân chưa dựa trên những chuẩn mực nhất định mà tiềm ẩn những mối ngờ vực lẫn nhau. Kết quả là đã có xảy ra những vụ ẩu đả, đình công, bãi công do mâu thuẫn giữa chủ và thợ tại các doanh nghiệp mà nguồn gốc ban đầu xuất phát từ những vụ vi phạm kỷ luật lao động công nghiệp từ ý thức kỷ luật lao động kém của bản thân người lao động. Về đời sống của công nhân trong các KCN Sự gia tăng nhanh về số lượng lao động, chủ yếu là lao động nhập cư đã làm nảy sinh nhiều vấn đề bức xúc, đặc biệt là vấn đề nhà ở cho người lao động có thu nhập thấp. Bên cạnh số ít doanh nghiệp chăm lo đến đời sống ăn, ở cho người lao động, vẫn còn rất nhiều doanh nghiệp chưa quan tâm hoặc chăm lo chưa thỏa đáng đến vấn đề nhà ở cho công nhân, trong khi mức thu nhập của công nhân chưa cao, chưa đủ điều kiện mua nhà. Chính vì thế nhu cầu nhà ở cho những lao động này là rất lớn. Đa số lao động là những người trẻ nhập cư, nên gặp nhiều khó khăn trong ổn định cuộc sống, nhất là về nhà ở. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của người lao động nhập cư. Hơn nữa, chính quyền địa phương và các chủ đầu tư hạ tầng KCN chưa chú trọng tới việc xây nhà ở cho công nhân thuê với giá thấp. Ví dụ như Bình Dương mới chỉ đảm bảo nhà cho công nhân khoảng 15% số lao động; Thành phố Hồ Chí Minh là 4% và Đồng Nai gần 6%. Hiện nay, trong số 265.325 người là lao động nhập cư thì có xấp xỉ 6% lao động được doanh nghiệp hoặc địa phương lo cho nhà ở, còn lại hầu hết người lao động phải tự lo nhà ở, đi thuê tại các nhà trọ gần KCN. Theo kết quả điều tra của tác giả, tỷ lệ nhà ở do công ty xây cho công nhân có giảm so với báo cáo, trong khi số lao động tự xây nhà ở chiếm 25,6%, ở nhà người quen là 9,7%. Mức độ tiện nghi của nơi ở số người trả lời dưới mức trung bình chiếm 63,1% (195 người), số người không hài lòng về nơi ở hiện tại chiếm 60,84%, trong khi đó số người hài lòng và rất hài lòng chỉ chiếm 8,1%. Điều này chứng tỏ vấn đề ở của người lao động trong các KCN tỉnh Đồng Nai là vấn đề cấp thiết “an cư mới lạc nghiệp”. Với điều kiện nhà ở khó khăn như đã trình bày ở trên, người lao động rất thiếu điều kiện để thỏa mãn nhu cầu vật chất lẫn tinh thần. Về đời sống tinh thần, do thời gian lao động chiếm hầu hết thời gian trong ngày của người lao động, thời gian còn lại để phục vụ sinh hoạt và nghỉ ngơi nên các hoạt động vui chơi giải trí, thể thao đối với người lao động nói chung còn là khá xa xỉ. Theo khảo sát của tác giả, hoạt động vui chơi giản trí của người lao động là rất ít, khi được hỏi đi chơi tụ tập với bạn bè thì 145/309 trả lời là hoàn toàn không, đi chơi thể thao có tới 238 người trả lời là hoàn toàn không (chiếm 77%); sự quan tâm của công đoàn công ty đối với đời sống tinh thần của công nhân thì có tới 46,6% nói hoàn 107 Phát triển lực lượng . . . toàn không quan tâm, 13,6% quan tâm rất ít. Khi đánh giá về mối quan hệ với các tổ chức chính quyền địa phương và các đoàn thể hầu hết người lao động đều cho điểm rất thấp, 92,5% cho rằng không có sự quan tâm của chính quyền địa phương. Tóm lại, với mức thu nhập và điều kiện nhà ở hiện nay, người lao động rất thiếu điều kiện để thỏa mãn các nhu cầu vui chơi, giải trí, thể thao, nghỉ ngơi, học tập, giao lưu tình cảm. Đặc biệt, trong các KCN, lao động nữ chiếm hơn 60% thì vấn đề hôn nhân và gia đình trở nên bức xúc chưa được các chủ doanh nghiệp, cơ quan, đoàn thể quan tâm. Về tiền lương và thu nhập Mức lương bình quân hiện nay của công nhân trong KCN khoảng 2,7 đến 3 triệu đồng/ tháng; thu nhập bình quân khoảng 3,5 triệu đến 3,8 triệu/ tháng; trong đó, mức lương chính chiếm 75-85% thu nhập hàng tháng, còn lại là thu nhập làm thêm giờ, phụ cấp, trợ cấp, tiền thưởng. Với kết quả này cũng tương đối trùng khớp với kết qủa điều tra của tác giả, tỷ lệ người lao động có thu nhập đến 2 triệu đồng chiếm 2,59%; số có thu nhập từ 4 triệu trở lên chiếm 23,3%; số lao động có thu nhập trung bình từ 2 đến 4 triệu chiếm 74,11%; trong đó mức lương chiếm khoảng 80% tổng thu nhập. Về đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn Số lượng, chất lượng lao động khi mới được tuyển dụng nhìn chung chưa thể đáp ứng được nhu cầu sử dụng của các doanh nghiệp nói chung, đặc biệt là các công việc đòi hỏi lao động có trình độ tay nghề kỹ thuật cao. Trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, nguồn cung ứng về lao động cho các KCN tương đối dồi dào nhưng đại bộ phận là con em nông dân, nhất là nông dân bị mất đất có trình độ học vấn thấp, chưa được đào tạo nghề. Hơn nữa, lao động di cư từ các địa phương khác tới cũng xuất thân từ nông dân chưa từng được đào tạo nghề. Bên cạnh đó, tác phong của người lao động phần lớn đã quen với hoạt động sản xuất nông nghiệp, nhiều lao động không quen với môi trường, dây chuyền, tác phong làm việc công nghiệp đã dẫn đến tình trạng một số lao động đã tuyển dụng nhưng không thích nghi được lại phải nghỉ việc. Từ đó có thể thấy việc đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn và rèn luyện về tác phong công nghiệp cho người lao động là một hoạt động thường xuyên của nhiều doanh nghiệp. 3. CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN LLLĐCN TỈNH ĐỒNG NAI Thứ nhất, liên kết chặt chẽ đào tạo giữa cơ sở dạy nghề với doanh nghiệp Đồng Nai nên tăng cường liên kết giữa các cơ sở đào tạo với DN trong hoạt động đào tạo nghề theo mô hình nhà trường – nhà máy, gắn lý thuyết với thực hành nhằm rút ngắn khoảng cách giữa kỹ năng nghề được đào tạo tại nhà trường và kỹ năng hành nghề tại DN. Nội dung liên kết đào tạo cần chú ý đến liên kết xây dựng nội dung, chương trình đào tạo. Trong nội dung liên kết này các cơ sở dạy nghề cần chủ động liên hệ chặt chẽ với DN trong các KCN để nghiên cứu, khảo sát thực tế những nhiệm vụ, công việc. Trên cơ sở đó, cơ sở dạy nghề xây dựng nội dung đào tạo cho phù hợp với yêu cầu của DN. Hơn nữa, kết hợp giữa thực hành cơ bản tại cơ sở đào tạo với thực hành sản xuất tại DN dưới sự hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề của DN. Để thực hiện nội dung liên kết này, các cơ sở đào tạo phải tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề của DN. 108 Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät Thứ hai, chăm sóc sức khỏe và xây dựng đời sống văn hóa tinh thần cho công nhân Bên cạnh việc nâng cao trình độ văn hoá và chuyên môn thì nâng cao thể lực cho người lao động là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, tạo nền tảng cho việc phát triển trí lực, tâm lực của LLLĐCN. Đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lược và lâu dài. Vì vậy, cần phải đảm bảo mức dinh dưỡng cần thiết cho con người ở mọi lứa tuổi, khuyến khích đẩy mạnh phong trào rèn luyện thể dục thể thao trong nhân dân Chú trọng phát triển công nghiệp được đủ khả năng đáp ứng được nhu cầu của nhân dân. Đẩy mạnh các chương trình khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ em, phòng chống dịch bệnh, đặc biệt là các bệnh có khả năng lây lan nhanh. Thực hiện có hiệu quả công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân, nâng cao tuổi thọ góp phần phát triển LLLĐCN có chiều sâu. Quan tâm đến việc nâng cao đời sống tinh thần cho LLLĐCN trong các KCN. Tạo điều kiện cho cá nhân và cộng đồng phát triển tốt nhất về nhân cách, đồng thời phải hướng tới nâng cao chất lượng cuộc sống của con người, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc. Xây dựng các tụ điểm sinh hoạt văn hóa như: công viên, khu vui chơi giải trí, trung tâm thể dục thể hình, thể dục thẩm mỹ, rạp chiếu phim gần các KCN để phục vụ người lao động giải trí sau giờ làm việc, giúp người lao động đảm bảo phục hồi sức khỏe nâng cao đời sống tinh thần. Do vậy, cần phải đảm bảo một cơ sở vật chất tối thiểu nhằm phục vụ đời sống tinh thần cho công nhân lao động và các cư dân trong cộng đồng. Động viên công nhân xây dựng đời sống văn hóa. Trong quá trình phát triển các KCN, tính đa dạng của cộng đồng dân cư nảy sinh tất yếu có sự giao lưu và hợp tác giữa dân cư tại chỗ và các chủ thể văn hóa là người nước ngoài. Do vậy, cần phải tăng cường giáo dục định hướng để cho người lao động biết giữ gìn, khai thác, nâng cao truyền thống văn hóa tốt đẹp của nền văn hóa dân tộc, vừa biết tiếp thu có chọn lọc nền văn hóa đô thị và văn hóa nước ngoài nhằm đảm bảo cho sự phát triển bền vững. Thứ ba, xây dựng chính sách chính sách về nhà ở cho người lao động Chính quyền tỉnh Đồng Nai cần rà soát quỹ đất để xây dựng nhà ở cho công nhân trong các KCN. Đối với các KCN xây dựng mới cần có quỹ đất và bắt buộc phải có khu nhà ở cho người lao động. Thực hiện chính sách xã hội hóa nhà ở cho lao động trong các KCN. Khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng nhà ở cho công nhân lao động của mình. Các doanh nghiệp nên có chính sách về vấn đề này theo hướng lao động gắn bó với doanh nghiệp 01 năm trở lên được ở tại khu nhà dành cho lao động của doanh nghiệp, mức chi phí thuê nhà càng giảm theo thâm niên và trình độ chuyên môn tay nghề của lao động. Thứ tư, phát triển thị trường lao động và tăng cường công tác dự báo Phát triển thị trường lao động là giải pháp hết sức quan trọng cho tỉnh Đồng Nai hiện nay. Cần có chính sách phát triển hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm, đặc biệt là tại các KCN. Ban Quản lý các KCN phối hợp chặt chẽ với doanh nghiệp có dự án đầu tư để nắm được kế hoạch sử dụng lao động, thông báo công khai về số lượng cần tuyển, ngành nghề, thời gian dự kiến tuyển. Định kỳ hàng quý cần tổ chức các hội chợ tuyển dụng lao động trực tiếp gặp gỡ khi tuyển dụng lao động, ngăn chặn 109 Phát triển lực lượng . . . tình trạng cò mồi thu tiền của người lao động. Hơn nữa, tỉnh cần có những dự báo định tính và định lượng về thị trường lao động của địa phương, khuyến khích hay cung cấp tài chính cho các tổ chức khác (doanh nghiệp, tổ chức nghiên cứu độc lập, tổ chức phi chính phủ) tiến hành các dự báo trên. Các thông tin tập trung vào những ngành có tiềm năng tăng trưởng cao để xác định triển vọng việc làm và các kỹ năng cân thiết, cũng như chỉ ra các ngành suy thoái và loại việc làm mất đi. Các thông tin đưa ra cũng cần nêu chất lượng của nguồn cung lao động, phân tích các kỹ năng cơ bản và các kỹ năng nghề nghiệp cần thiết khi kinh tế tăng trưởng. Cần nghiên cứu đánh giá thực trạng cơ cấu nhân lực hiện có cũng như dự báo về nhu cầu nhân lực ở các ngành, lĩnh vực khác nhau nhằm chủ động tránh tình trạng thừa và thiếu nhân lực. Tăng cường công tác dự báo phát triển nguồn nhân lực trong mối quan hệ với Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đảm bảo sự phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội trong từng giai đoạn nhất định. Nhiệm vụ này cần được tiến hành thường xuyên để có sự điều chỉnh cho phù hợp với những thay đổi của thực tiễn cuộc sống. Thứ năm, nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp Tăng cường công tác thanh tra, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật của các doanh nghiệp trong KCN. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng như Sở Lao động – Thương binh và Xã hội hoặc với phòng Lao động – Thương binh và Xã hội hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện nghiêm chỉnh quy định của pháp luật về lao động, đặc biệt là trả lương, thưởng, bảo hiểm xã hội, xây dựng thang, bảng lương, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, an toàn lao động, vận động doanh nghiệp nâng cấp nhà ăn, tăng tiền ăn cho công nhân. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Cục Thống kê Đồng Nai, Niên giám thống kê, 2010, 2012 [2]. Cảnh Chí Hoàng, Phát triển nguồn nhân lực cho các khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai, Tạp chí Phát triển và Hội nhập, số 4/2012. [3]. UBND tỉnh Đồng Nai, Quy hoạch phát triển công nghiệp tỉnh Đồng Nai đến năm 2020, có tính đến 2025. [4]. UBND tỉnh Đồng Nai (2011), Tài liệu Hội nghị tổng kết 20 năm xây dựng và phát triển các khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai 110 Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Cù Đức Thọ * TÓM TẮT Với sự phản ánh đặc thù của cơ sở kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đạo đức cách mạng trong nền kinh tế thị trường là một nền đạo đức thống nhất nhưng lại chứa đựng những quan niệm, những môi trường đạo đức khác nhau, thậm chí đối lập nhau, tác động ảnh hưởng lẫn nhau....Để đạo đức cách mạng khẳng định được địa vị chủ đạo trong đời sống đạo đức xã hội, vấn đề căn bản nhất là phải xây dựng Đảng về mặt đạo đức. Từ khóa: đạo đức, kinh tế thị trường, xã hội chủ nghĩa. MORAL REVOLUTION MARKET ECONOMY SOCIALIS ORIENTED ABSTRACT With a unique reflection of the economic base in the market economy oriented socialist, revolutionary morality of the market economy is an ethics agreed but contains ideas, the environmental ethics different, even opposite, effects influence each other ....to assert moral revolution is a key position in the social moral life, the most basic problem is to Party building morally. Keywords: ethics, market economy, socialism. * GV. Bộ môn Triết học, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng. Imail: cuductho@yahoo.com. ĐT. 0979819769
File đính kèm:
- phat_trien_luc_luong_lao_dong_cong_nghiep_tinh_dong_nai_tron.pdf