Pháp luật dân sự và tố tụng dân sự với việc đảm bảo thực hiện các quyền dân sự của con người và công dân theo Hiến pháp năm 2013
Bài viết nêu quan điểm và xác định vai trò của pháp luật dân sự và tố tụng dân sự trong việc bảo đảm thực hiện các quyền dân sự của con người và công dân theo Hiến pháp năm 2013; nêu và phân tích một số nội dung cơ bản của pháp luật dân sự và tố tụng dân sự. Trong đó tập trung phân tích một số quy định chủ yếu của hai Bộ luật Dân sự 2015 và Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 về ghi nhận và bảo đảm thực hiện các quyền dân sự; đồng thời nêu một số ý kiến về vấn đề bảo đảm thực thi pháp luật về các quyền đó.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Pháp luật dân sự và tố tụng dân sự với việc đảm bảo thực hiện các quyền dân sự của con người và công dân theo Hiến pháp năm 2013", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Pháp luật dân sự và tố tụng dân sự với việc đảm bảo thực hiện các quyền dân sự của con người và công dân theo Hiến pháp năm 2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT – ĐẠI HỌC HUẾ 22 * PGS.TS., Trường Đại học Luật - Đại học Huế PHÁP LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ VỚI VIỆC ĐẢM BẢO THỰC HIỆN CÁC QUYỀN DÂN SỰ CỦA CON NGƯỜI VÀ CÔNG DÂN THEO HIẾN PHÁP NĂM 2013 HÀ THỊ MAI HIÊN * Tóm tắt: Bài viết nêu quan điểm và xác định vai trò của pháp luật dân sự và tố tụng dân sự trong việc bảo đảm thực hiện các quyền dân sự của con người và công dân theo Hiến pháp năm 2013; nêu và phân tích một số nội dung cơ bản của pháp luật dân sự và tố tụng dân sự. Trong đó tập trung phân tích một số quy định chủ yếu của hai Bộ luật Dân sự 2015 và Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 về ghi nhận và bảo đảm thực hiện các quyền dân sự; đồng thời nêu một số ý kiến về vấn đề bảo đảm thực thi pháp luật về các quyền đó. Từ khóa: Pháp luật dân sự và tố tụng dân sự, bảo đảm thực hiện, quyền dân sự của con người và công dân theo Hiến pháp. Abstract: This article presents the views and defines the role of civil law and civil procedure in ensuring the implementation of civil rights of humans and citizens under the Constitution 2013; Outlining and analyzing some basic contents of the new laws on Civil and Civil Procedure 2015; espescially on provisions which ensuring the recognition and implementation of civil rights; and outlining a number of opinions on the issue of ensuring enforcement of such rights. Key words: Civil and Civil Procedure Law, ensuring, Civil rights of Humans and Citizens in Constitution. 1. Vài nét về vị trí của pháp luật dân sự và tố tụng dân sự trong cơ chế pháp lý bảo hộ quyền con người ở Việt Nam Hiến pháp là nền tảng cho toàn bộ hệ thống thể chế, trong đó có pháp luật dân sự và tố tụng dân sự. Mục tiêu tối thượng của toàn bộ hệ thống thể chế và các thiết chế là bảo vệ quyền con người. Pháp luật dân sự và tố tụng dân sự là hai bộ phận cấu thành của hệ thống pháp luật quốc gia có vai trò quan trọng trong việc cụ thể hóa Hiến pháp, nhằm đảm bảo thực hiện các quyền con người nói chung, quyền dân sự của con người và công dân nói riêng. Hai bộ phận pháp TẠP CHÍ PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN – SỐ 1/2017 23 luật này gắn bó mật thiết, hữu cơ; là hình thức pháp luật về nội dung và thủ tục, cùng đồng thời tạo nên cơ chế pháp luật về dân sự ghi nhận, bảo đảm và bảo vệ các quyền con người một cách hữu hiệu. Quyền dân sự của con người và công dân là một khái niệm mang tính tương đối. Quyền con người là một giá trị mang tính tổng thể, đặt trong mối quan hệ với công quyền cùng các thiết chế của nó. Về bản chất, quyền con người là không thể phân chia, không thể chuyển nhượng, tính phổ biến, tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau. Tuy nhiên, theo các tài liệu công bố chính thức hiện nay, quyền con người được phân loại theo nhiều cách khác nhau. Sự phân loại chính thức là dựa vào hai Công ước năm 1966 của Liên hợp quốc, bao gồm Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (ICESCR); theo đó các quyền con người về dân sự được xác định là những quyền sau đây1: quyền không bị phân biệt đối xử, được thừa nhận và bình đẳng trước pháp luật; quyền sống, tự do và an ninh cá nhân; quyền về xét xử công bằng; quyền về tự do đi lại, cư trú; quyền được bảo vệ đời tư; quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo; quyền kết hôn, lập gia đình và bình đẳng trong hôn nhân. Quyền con người nói chung, các quyền dân sự của con người và công dân nói riêng đã được ghi nhận và bảo đảm thực hiện trong các bản Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ phát triển. Tuy nhiên, Hiến pháp năm 2013, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam đã trang trọng ghi nhận tại chương II “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Điều 14 Hiến pháp năm 2014 khẳng định: “1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. 2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Các quy định tại Điều 15 có thể xem như những yêu cầu có tính nguyên tắc của việc thực hiện quyền con người, quyền công dân: quyền công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân; mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác; công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội; việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Quyền dân sự của con người và công dân đã được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận đầy đủ, phù hợp với nguyên tắc và nghĩa vụ thành viên các Công ước quốc tế về quyền con người. Các quyền con người, quyền công dân có thể được thực hiện theo nhiều cơ chế pháp lý. Đặc trưng của cơ chế pháp luật dân sự, trong đó ... iện bằng những quy định trong BLDS ( Khoản 1 Điều 3 ). Điều 14 BLDS quy định về việc bảo vệ quyền dân sự thông qua cơ quan có thẩm quyền, trong đó Khoản 2 xác định: “Tòa án không được từ chối giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật cụ thể để áp dụng; trong trường hợp này, quy định tại Điều 5 và Điều 6 của Bộ luật này được áp dụng”. Khẳng định trách nhiệm của Tòa án trong việc xét xử các vụ việc dân sự, BLDS lần đầu tiên xác định án lệ, lẽ công bằng là những nguồn luật của hệ thống pháp luật Việt Nam. Những quy định này chính là sự đảm bảo thực thi nguyên tắc về quyền tiếp cận công lý của người dân trong nhà nước pháp quyền; đồng thời cũng là cơ sở pháp lý khẳng định vai trò độc lập của Tòa án trong cơ chế quyền lực nhà nước. 2.4. Pháp luật tố tụng dân sự với việc bảo đảm thực hiện các quy định Hiến pháp 2013 về quyền công dân, quyền con người về dân sự Quyền tiếp cận công lý và được xét xử công bằng là những nội dung quan trọng được ghi nhận và bảo đảm thực hiện trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, “là cơ sở và nguyên tắc chung trong việc bảo vệ tất cả các quyền con người”6. Sau khi ban hành Hiến pháp năm 2013, nhiều văn bản pháp luật liên quan đến pháp luật tố tụng dân sự đã được ban hành. Trước hết là Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 2014, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi 5 Báo cáo giải trình của Chính phủ về việc tiếp thu ý kiến góp ý của nhân dân và đại biểu Quốc hội về dự án Bộ luật dân sự (sửa đổi) Số 312/BC-CP ngày 24/6/2015 6 Nguyễn Đăng Dung – Vũ Công Giao – Lã Khánh Tùng (đồng chủ biên) (2009), Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.193. TẠP CHÍ PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN – SỐ 1/2017 31 hành án dân sự năm 2014, Luật Công chứng năm 2014. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 là kết quả của quá trình pháp điển hóa pháp luật tố tụng dân sự của Việt Nam trên cơ sở kế thừa và phát triển BLTTDS 2004, sửa đổi bổ sung năm 2011. BLTTDS 2015 ra đời trong bối cảnh hệ thống pháp luật Việt Nam đã bước sang một giai đoạn phát triển mới với những thay đổi cơ bản trong tư duy về mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật với công dân và quyền công dân. Toàn bộ nội dung Hiến pháp và các văn bản được ban hành sau Hiến pháp 2013 đều toát lên tinh thần: một hệ thống pháp luật lấy quyền con người làm mục tiêu; một nhà nước phục vụ dân, bảo vệ quyền của dân và thúc đẩy phát triển. Nội dung của BLTTDS 2015 là sự thể chế hóa quan điểm của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền, tự do và bình đẳng của con người, về một Nhà nước của dân, do dân và vì dân, về một hệ thống tư pháp bảo vệ quyền con người, bảo vệ công lý. Đoạn thứ 2 Điều 1 BLTTDS 2015 khẳng định: “Bộ luật tố tụng dân sự góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; giáo dục mọi ngời nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật”. Những nội dung mới của BLTTDS 2015, kết quả của quá trình hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự nhằm cụ thể hóa Hiến pháp về cơ chế pháp luật dân sự bảo dảm quyền con người, quyền công dân thể hiện ở những điểm chủ yếu sau đây: (i) Tăng cường cơ chế đảm bảo thực thi các quyền về dân sự; (ii) Xác định mục tiêu, nhiệm vụ của Tòa án, hệ thống tư pháp là bảo vệ quyền con người, quyền công dân; (iii) Cụ thể hóa Hiến pháp về các nguyên tắc tổ chức hệ thống tư pháp và thủ tục tố tung dân sự; (iv) Đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ giữa pháp luật về nội dung và pháp luật về hình thức thủ tục; giữa thiết chế tổ chức tư pháp với thủ tục tố tụng; (v) Thay đổi một cách toàn diện mô hình tố tụng, tăng cường thủ tục tranh tụng trên cơ sở đề cao vai trò quyết định và tự định đoạt của đương sự; (vi) Khẳng định vai trò độc lập của Tòa án và vị trí của các chủ thể trong tố tụng dân sự; xác định trách nhiệm của Tòa án, đại diện cho quyền lực tư pháp chịu sự giám sát của nhân dân; (vii) Tăng cường các biện pháp đảm bảo hiệu quả của quyền lực tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân thông qua thủ tục tố tụng dân sự bằng việc bổ sung các hình thức thủ tục tố tụng đối với một số vụ việc cụ thể, bổ sung thủ tục rút gọn...; (viii) Hài hòa và tương thích với pháp luật quốc tế trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân; thúc đẩy quá trình hội nhập và hợp tác quốc tế. Trong chương 2, về các nguyên tắc cơ bản, BLTTDS tiếp tục khẳng định: “Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng” (Khoản 2 Điều 4); nguyên tắc về quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp (Điều 4); quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự (Điều 5); bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự (Điều 8); bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT – ĐẠI HỌC HUẾ 32 (Điều 9); tòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai ( Điều 15); bảo đảm chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm (hai cấp xét xử, Điều 17); bảo đảm sự vô tư, khách quan trong tố tụng dân sự (Điều 16); bảo đảm tranh tụng trong xét xử (Điều 24); quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của đương sự trong tố tụng dân sự (Điều 6); giám đốc việc xét xử (Điều 18); bảo đảm hiệu lực bản án, quyết định của Tòa án (Điều 19); bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự ( Điều 25);... Một trong những nội dung thể hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là những quy định việc mở rộng các đối tượng được làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (Khoản 2 Điều 75 BLTTDS); đồng thời xác định thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thay thế thủ tục cấp giấy chứng nhận (Khoản 3 Điều 75 BLTTDS). Với BLTTDS 2015, thẩm quyền của Tòa án và trình tự, thủ tục tố tụng dân sự được xác định lại một cách thống nhất và đồng bộ, thể hiện ở những điểm sau đây: Thứ nhất, xác định lại thẩm quyền của Tòa án các cấp, thẩm quyền theo vụ việc và thẩm quyền theo lãnh thổ nhằm thống nhất với những sửa đổi trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân và các văn bản pháp luật liên quan khác, nhằm tạo điều kiện cho người dân dễ tiếp cận hơn với Tòa án và dịch vụ tư pháp; Thứ hai, quy định thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự (từ Điều 316 đến Điều 324). Theo quy định tại khoản 4 Điều 103 Hiến pháp 2013 việc xét xử tại Tòa án có thể được tiến hành theo thủ tục rút gọn nhằm bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích chính đáng của các bên, đỡ gây tốn kém cho đương sự và nhà nước. Theo Khoản 1 Điều 317 BLTTDS, việc áp dụng thủ tục rút gọn có thể được áp dụng giải quyết vụ án dân sự trong một số trường hợp cụ thể với những điều kiện theo luật định7. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án theo thủ tục rút gọn, nếu xuất hiện những tình tiết mới làm cho vụ án không còn đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn (khoản 3 và 4 Điều 317) thì Tòa án ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường. Việc giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn cũng phải tuân theo nguyên tắc hiến định về chế độ hai cấp xét xử: tại tòa án sơ thẩm và tòa án cấp phúc thẩm. Thủ tục phúc thẩm rút gọn đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị được quy định tại Điều 324 BLTTDS. Thứ ba, BLTTDS 2015 có nhiều quy định về các thủ tục cụ thể hướng tới bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, tăng cường hiệu quả của hệ thống tư pháp thông qua phương thức xã hội hóa các hoạt động tư pháp, tăng cường bảo vệ một số đối tượng thuộc nhóm yếu thế trong tố tụng dân sự. Đó là các quy định tại Phần thứ sáu về thủ tục giải quyết việc dân sự bao gồm: Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi 7 Xem Điều 137 BLTTDS 2015. TẠP CHÍ PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN – SỐ 1/2017 33 dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; thủ tục giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu, thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án... Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện thủ tục giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế (phần thứ tám, từ Điều 464 đến Điều 481); Thứ năm, cụ thể hóa nguyên tắc hiến định về trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của người dân, tôn trọng nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân. Người tiến hành tố tụng nếu có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho người dân thì cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ đó phải bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường nhà nước (Điều 113). 3. Vấn đề thực hiện và bảo đảm thực thi pháp luật về dân sự và tố tụng dân sự theo tinh thần Hiến pháp 3.1. Công lý chỉ có thể đạt được khi pháp luật được thực thi trên thực tế Hiến pháp và những quy định mới của pháp luật dân sự và tố tụng dân sự trong các văn bản pháp luật cũng chỉ có thể là công lý trên giấy nếu các bản án, quyết định của Tòa án không được thi hành. Chính vì vậy, cũng như BLTTDS 2004, BLTTDS 2015 cũng có một phần về thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án ( Phần thứ chín, từ Điều 482 đến Điều 488). Mặc dù việc tổ chức thi hành án dân sự được quy định trong một đạo luật khác, nhưng có thể hiểu rằng, thi hành án dân sự là giai đoạn tiếp nối của xét xử, giai đoạn cuối cùng của quá trình tố tụng, giai đoạn công lý được thực thi. Vì vậy, các quyền con người, quyền công dân được ghi nhận trong Hiến pháp chỉ được bảo vệ, bảo đảm thực hiện khi có sự quan tâm nhiều hơn để xây dựng cơ chế thi hành án dân sự hữu hiệu. Không chỉ có Tòa án mới cần độc lập mà cơ quan thi hành án cũng phải độc lập để bảo đảm thi hành án hiệu quả. Độc lập của Tòa án luôn gắn liền với trách nhiệm. Tuy nhiên, những quy định về trách nhiệm bồi thường nhà nước của Tòa án cùng với những quy định về điều kiện và quy trình bổ nhiệm, bổ nhiệm lại Thẩm phán ở nước ta hiện nay đang gây nên những sự né tránh trách nhiệm của một số cán bộ khi cần thiết phải áp dụng những biện pháp bảo đảm như biện pháp khẩn cấp tạm thời, làm cho hoạt động xét xử không đạt hiệu quả như mong muốn. 3.2. Tính khả thi của pháp luật dân sự và tố tụng dân sự Nội hàm của pháp luật dân sự và tố tụng dân sự là rất lớn. Tính khả thi của Hiến pháp, pháp luật nói chung, pháp luật dân sự nói riêng phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó yếu tố đầu tiên là sự bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của toàn bộ hệ thống pháp luật, sự đồng bộ giữa pháp luật với tổ chức bộ máy nhà nước, giữa chính trị với pháp luật, đặc biệt là cơ chế kiểm tra, giám sát thực quyền, sự độc lập của quyền tư pháp. TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT – ĐẠI HỌC HUẾ 34 Đối tượng của quản lý nhà nước là con người và tài sản. Nhà nước cần có những hệ thống dữ liệu thống nhất về con người, (chủ thể quan hệ xã hội, quan hệ pháp luật) và hệ thống dữ liệu về các loại tài sản trong xã hội. Một trong những vấn đề quan trọng của BLDS là bảo đảm tính thống nhất, khả thi trong quy định của Bộ luật về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Đây là một trong những chủ đề quan trọng nhất của việc triển khai thực hiện pháp luật nói chung, thực hiện BLDS nói riêng. Vấn đề bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là một trong những nội dung quan trọng của BLDS với ý nghĩa là luật chung, trung tâm của hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, tính khả thi của các quy định này là một vấn đề khó xác định. Bởi vì, thứ nhất, xác định khái niệm về tài sản và tài sản trong các biện pháp bảo đảm là không đồng bộ với hệ thống pháp luật Việt Nam; thứ hai, trong cơ chế quản lý kinh tế, chưa có sự minh bạch về thu nhập hợp pháp và xác định tài sản của các chủ thể một cách rõ ràng. Tình trạng tài sản của người này nhưng lại mang tên của người khác là hết sức phổ biến do không quy định rõ ràng, cụ thể thời hạn phải chuyển quyền sở hữu trong những giao dịch cụ thể. Quản lý nhà nước về nhân thân và tài sản cần có hệ thống thống nhất trên toàn quốc, mà không phải theo từng tỉnh, thành như hiện nay. 3.3. Bảo đảm quyền luôn gắn liền với việc thực hiện nghĩa vụ Một nguyên lý hiển nhiên trong nhà nước pháp quyền là bảo đảm quyền luôn gắn với việc thực hiện nghĩa vụ công dân. Hiện tại, Nhà nước đang triển khai đề án xây dựng hệ thống dữ liệu về nhân thân trên toàn quốc. Chúng tôi cho rằng, đã đến lúc phải xây dựng, thiết lập hệ thống quản lý tài sản, không chỉ đối với đất đai, bất động sản, mà đối với nhiều loại tài sản khác; cơ chế quản lý sản nghiệp cá nhân, đặc biệt là thu nhập hợp pháp của cá nhân và các chủ thể khác. Minh bạch về nhân thân và tài sản là cơ sở cho việc đảm bảo thực hiện các quyền con người nói chung, quyền dân sự của con người và công dân nói riêng. Sự minh bạch này là căn cứ cho sự minh bạch của hệ thống quản lý nhà nước, là cơ sở chống tham nhũng, xây dựng bộ máy nhà nước theo nguyên lý nhà nước pháp quyền. Những quy định của BLDS về căn cứ xác lập quyền sở hữu là cơ sở để xác định thu nhập hợp pháp của cá nhân và các chủ thể khác, cũng là cơ sở xác định nghĩa vụ của cá nhân công dân đối với nhà nước trong việc nộp thuế thu nhập và các nghĩa vụ khác. Tuy nhiên, để có được những cơ sở dữ liệu chính xác, cần có nhiều yếu tố khác trong hệ thống quản lý. 3.4. Luôn cập nhật và sử dụng thành tựu khoa học, công nghệ; đổi mới công tác cán bộ Tiếp tục ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn thi hành BLDS và BLTTDS 2015, LHNGĐ 2014 về các vấn đề cụ thể như chuyển đối giới tính, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và các vấn đề khác liên quan. Sử dụng thành tựu khoa học công nghệ để thông qua nhiều kênh truyền thông, thông tin kịp thời phổ biến, giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, toàn thể nhân dân tiếp nhận những TẠP CHÍ PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN – SỐ 1/2017 35 tri thức mới về pháp luật nói chung, về Hiến pháp và pháp dân sự, tố tụng dân sự nói riêng trong việc bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân. Hiến pháp, pháp luật dân sự và tố tụng dân sự cũng như tất cả các bộ phận pháp luật khác chỉ đi vào cuộc sống khi quá trình triển khai thi hành, thực hiện có sự cập nhật và lấy cuộc sống, quyền tự do, bình đẳng, hạnh phúc và an ninh của người dân làm mục tiêu và thước đo; luôn quán triệt định hướng và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Đăng Dung – Vũ Công Giao – Lã Khánh Tùng (Đồng chủ biên), Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb Chính trị Quốc gia năm 2009. 2. Đào Trí Úc, Một số vấn đề cơ bản về Bộ luật dân sự Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5/1995. 3. Báo cáo giải trình của Chính phủ về việc tiếp thu ý kiến góp ý của nhân dân và đại biểu Quốc hội về dự án Bộ luật dân sự (sửa đổi) số 312/BC-CP ngày 24/6/2015.
File đính kèm:
- phap_luat_dan_su_va_to_tung_dan_su_voi_viec_dam_bao_thuc_hie.pdf