Phân tích tiềm năng và rào cản trong phát triển công nghệ khí sinh học xử lý chất thải chăn nuôi lợn tại Việt Nam

Trong những năm qua, tại Việt Nam, ngành chăn

nuôi nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng có những

bước phát triển mạnh mẽ cả về số lượng lẫn chất lượng.

Lĩnh vực chăn nuôi đã tạo sinh kế cho 6,0-6,5 triệu

hộ trong 8,6 triệu hộ sản xuất nông nghiệp, góp phần

thay đổi bộ mặt của khu vực nông thôn [1]. Số lượng

đầu lợn không ngừng tăng mạnh qua các năm. Sự phát

triển đàn lợn và số lượng các trang trại quy mô vừa và

nhỏ đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển, nhưng đồng

thời cũng đem lại những tác động xấu đến môi trường,

ảnh hưởng tới nguồn nước, không khí, đất và sản phẩm

vật nuôi [2]. Chất thải chăn nuôi lợn không được xử lý

sẽ làm ô nhiễm nguồn nước, đất, không khí, tạo ra các

KNK như CO

2, CH4 là nguyên nhân gây biến đổi khí

hậu.

Để hạn chế vấn đề ô nhiễm và phát thải KNK do

chất thải chăn nuôi gây ra, Chính phủ Việt Nam, Bộ

NN&PTNT đã xây dựng, ban hành một số chính sách

nhằm khuyến khích phát triển chăn nuôi cũng như sử

dụng các giải pháp thân thiện với môi trường trong xử

lý chất thải chăn nuôi [3, 4]. Trong đó, áp dụng công

nghệ KSH xử lý chất thải chăn nuôi nhằm tạo nguồn

năng lượng sạch, cải thiện chất lượng môi trường và

giảm phát thải KNK được đề xuất như một mô hình

phát triển có tiềm năng và cần được khuyến khích [5].

Công nghệ KSH ở Việt Nam đã được nghiên cứu và

phát triển từ những năm 1960, tuy nhiên mãi đến năm

2003, khi Dự án Chương trình KSH cho ngành chăn

nuôi do Chính phủ Hà Lan hỗ trợ đi vào triển khai thì

lúc đó nhiều người mới biết đến và phát triển rộng rãi

như ngày nay [3].

Nghiên cứu này phân tích tiềm năng phát triển công

nghệ KSH ở Việt Nam trong xử lý chất thải chăn nuôi

lợn của các trang trại chăn nuôi vừa và nhỏ, cũng như

đánh giá các rào cản trong phát triển công nghệ này,

bao gồm những nguyên nhân từ phía hộ chăn nuôi và

các tác nhân bên ngoài như cơ chế, chính sách khuyến

khích của Chính phủ, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm

khuyến khích phát triển công nghệ KSH ở Việt Nam.

Phân tích tiềm năng và rào cản trong phát triển công nghệ khí sinh học xử lý chất thải chăn nuôi lợn tại Việt Nam trang 1

Trang 1

Phân tích tiềm năng và rào cản trong phát triển công nghệ khí sinh học xử lý chất thải chăn nuôi lợn tại Việt Nam trang 2

Trang 2

Phân tích tiềm năng và rào cản trong phát triển công nghệ khí sinh học xử lý chất thải chăn nuôi lợn tại Việt Nam trang 3

Trang 3

Phân tích tiềm năng và rào cản trong phát triển công nghệ khí sinh học xử lý chất thải chăn nuôi lợn tại Việt Nam trang 4

Trang 4

Phân tích tiềm năng và rào cản trong phát triển công nghệ khí sinh học xử lý chất thải chăn nuôi lợn tại Việt Nam trang 5

Trang 5

pdf 5 trang baonam 10461
Bạn đang xem tài liệu "Phân tích tiềm năng và rào cản trong phát triển công nghệ khí sinh học xử lý chất thải chăn nuôi lợn tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân tích tiềm năng và rào cản trong phát triển công nghệ khí sinh học xử lý chất thải chăn nuôi lợn tại Việt Nam

Phân tích tiềm năng và rào cản trong phát triển công nghệ khí sinh học xử lý chất thải chăn nuôi lợn tại Việt Nam
Chuyên đề I, tháng 3 năm 202178
1. Mở đầu
Trong những năm qua, tại Việt Nam, ngành chăn 
nuôi nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng có những 
bước phát triển mạnh mẽ cả về số lượng lẫn chất lượng. 
Lĩnh vực chăn nuôi đã tạo sinh kế cho 6,0-6,5 triệu 
hộ trong 8,6 triệu hộ sản xuất nông nghiệp, góp phần 
thay đổi bộ mặt của khu vực nông thôn [1]. Số lượng 
đầu lợn không ngừng tăng mạnh qua các năm. Sự phát 
triển đàn lợn và số lượng các trang trại quy mô vừa và 
nhỏ đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển, nhưng đồng 
thời cũng đem lại những tác động xấu đến môi trường, 
ảnh hưởng tới nguồn nước, không khí, đất và sản phẩm 
vật nuôi [2]. Chất thải chăn nuôi lợn không được xử lý 
sẽ làm ô nhiễm nguồn nước, đất, không khí, tạo ra các 
KNK như CO2, CH4 là nguyên nhân gây biến đổi khí 
hậu. 
Để hạn chế vấn đề ô nhiễm và phát thải KNK do 
chất thải chăn nuôi gây ra, Chính phủ Việt Nam, Bộ 
NN&PTNT đã xây dựng, ban hành một số chính sách 
nhằm khuyến khích phát triển chăn nuôi cũng như sử 
dụng các giải pháp thân thiện với môi trường trong xử 
lý chất thải chăn nuôi [3, 4]. Trong đó, áp dụng công 
nghệ KSH xử lý chất thải chăn nuôi nhằm tạo nguồn 
năng lượng sạch, cải thiện chất lượng môi trường và 
giảm phát thải KNK được đề xuất như một mô hình 
phát triển có tiềm năng và cần được khuyến khích [5]. 
Công nghệ KSH ở Việt Nam đã được nghiên cứu và 
phát triển từ những năm 1960, tuy nhiên mãi đến năm 
2003, khi Dự án Chương trình KSH cho ngành chăn 
nuôi do Chính phủ Hà Lan hỗ trợ đi vào triển khai thì 
lúc đó nhiều người mới biết đến và phát triển rộng rãi 
như ngày nay [3].
Nghiên cứu này phân tích tiềm năng phát triển công 
nghệ KSH ở Việt Nam trong xử lý chất thải chăn nuôi 
lợn của các trang trại chăn nuôi vừa và nhỏ, cũng như 
đánh giá các rào cản trong phát triển công nghệ này, 
bao gồm những nguyên nhân từ phía hộ chăn nuôi và 
các tác nhân bên ngoài như cơ chế, chính sách khuyến 
khích của Chính phủ, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm 
khuyến khích phát triển công nghệ KSH ở Việt Nam.
2. Tiềm năng phát triển năng lượng KSH ở 
Việt Nam
Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, sau 10 năm thực 
hiện “Chiến lược phát triển ngành chăn nuôi đến năm 
2020”, ngành chăn nuôi cơ bản đã đạt được sự tăng 
1 Tổ chức Hợp tác Phát triển Đức, GIZ
2 Đại học Điện lực
3 Đại học Kinh tế quốc dân
PHÂN TÍCH TIỀM NĂNG VÀ RÀO CẢN TRONG PHÁT TRIỂN
CÔNG NGHỆ KHÍ SINH HỌC XỬ LÝ CHẤT THẢI CHĂN NUÔI LỢN 
TẠI VIỆT NAM
TÓM TẮT
Chăn nuôi là ngành chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế và là ngành có mức phát thải khí nhà kính (KNK) 
lớn thứ hai trong hoạt động nông nghiệp ở Việt Nam. Phát triển mô hình khí sinh học (KSH), đặc biệt ở quy 
mô vừa và nhỏ là một giải pháp cho các vấn đề môi trường trong bối cảnh nguồn nhiên liệu đang ngày một 
cạn kiệt và biến đổi khí hậu diễn ra mạnh mẽ. Nghiên cứu này phân tích tiềm năng phát triển công nghệ KSH 
từ chất thải chăn nuôi lợn và đánh giá rào cản trong phát triển công nghệ này ở Việt Nam, từ đó đề xuất các 
giải pháp nhằm khuyến khích phát triển công nghệ KSH. 
Từ khóa: Chất thải chăn nuôi, KSH, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường.
Nhận bài: 12/3/2021; Sửa chữa: 26/3/2021; Duyệt đăng: 29/3/2021.
Lê Thị Thoa 1 
Đỗ Thu Nga 2* 
Đinh Đức Trường 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021 79
trưởng khá cao và ổn định với tốc độ tăng trưởng trung 
bình khoảng 5-6%/năm, trong đó giai đoạn 2011-2015 
đạt 4,5-5%, giai đoạn 2016-2018 đạt trung bình 6%/
năm [4]. Điều này cho thấy sự tăng trưởng về quy mô 
đàn vật nuôi trong giai đoạn 10 năm vừa qua là rất lớn. 
Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của ngành chăn nuôi 
trong giai đoạn 2011-2015 vẫn thấp hơn khá nhiều so 
với mục tiêu của Chiến lược đề ra là 6-7%, giai đoạn 
2016-2018 cơ bản đạt so với mục tiêu 5-6% (Hình 1). 
▲Hình 1. Số lượng vật nuôi chính trong giai đoạn 2008-
2018 [4]
Với lượng gia súc, gia cầm ngày càng tăng thì vấn đề 
xử lý chất thải chăn nuôi cần được chú trọng. Theo tính 
toán của Cục Chăn nuôi, Bộ NN&PTNT, ngành chăn 
nuôi mỗi năm thải ra 73 triệu tấn chất thải rắn và 23-30 
triệu m3 nước thải, bao gồm cả nước tiểu của lợn, nước 
tắm lợn và nước rửa chuồng [2]. Trong số đó, khoảng 
50% chất thải rắn và 80% lượng nước thải thải trực tiếp 
ra môi trường mà không qua xử lý. Con số này được 
tính cho năm 2019 là 241,37 triệu tấn chất thải rắn và 
chỉ có 40% trong số này được xử lý, còn lại xả thẳng 
trực tiếp ra môi trường (Bảng 1) [1, 6].
Việc sử dụng công trình KSH để xử lý chất thải 
chăn nuôi nhằm giảm thiểu các vấn đề về ô nhiễm môi 
trường cũng như sản xuất ra nguồn năng lượng sạch, 
trong bối cảnh nguồn năng lượng hóa thạch ngày càng 
cạn kiệt. Theo Shane và cộng sự [7], tiềm năng KSH từ 
chất thải chăn nuôi được tính toán theo công thức sau:
BEP = (N x Vs x Bo x D x CV) x 10-6 
Trong đó:
BEP: Tiềm năng KSH theo lý thuyết, tính bằng triệu 
MJ/năm
N: Số lượng vật nuôi ở năm tính toán
Vs: Tổng lượng chất rắn bay hơ ... trị mặc định được tham chiếu 
theo tài liệu của IPCC dành cho các nước châu Á [8].
D: Số ngày trong năm (365 ngày)
CV: Nhiệt lượng của KSH khi mê tan có tỷ lệ 60% 
(MJ/m3). Theo Cundr và Haladova [9], tùy vào loại 
chất thải chăn nuôi, nhiệt lượng của KSH có tỷ lệ mê 
tan chiếm 60% là 20-25 MJ/m3. Theo Radziad Wahid và 
cộng sự [10], tỷ lệ mê tan trong KSH càng cao thì nhiệt 
lượng của KSH càng cao. Theo báo cáo nghiên cứu biện 
pháp thúc đẩy quá trình lên men và sinh khí mê tan 
trong công trình KSH do Dự án KSH cho ngành chăn 
nuôi Việt Nam thực hiện năm 2009, nồng độ CH4 đo 
được tại một số công trình KSH chăn nuôi lợn là 64-68% 
[11], do vậy giá trị nhiệt lượng của KSH được sử dụng 
trong tính toán này là 25 MJ/m3.
Từ công thức tính trên, sản lượng KSH tiềm năng 
của năm 2019 được tính toán và trình bày trong Bảng 1.
Bảng 1 cho thấy, tổng tiềm năng KSH lý thuyết là hơn 
1 triệu m3 khí. Trong khi đó, 1m3 KSH có thể sản sinh 
ra 2,14 kwh, như vậy, 1 triệu m3 KSH có thể sản sinh ra 
225,5 GWh, đóng góp gần 10% trong tổng nhu cầu sản 
lượng điện của cả nước năm 2020 [12]. Tuy nhiên, trên 
thực tế, số lượng các hộ dân áp dụng công nghệ này để 
xử lý chất thải chăn nuôi còn rất khiêm tốn. Theo báo 
cáo của Bộ NN&PTNT, tính đến năm 2018, 53% số hộ 
chăn nuôi trong tổng số khoảng 8,2 triệu hộ chăn nuôi 
áp dụng một trong các biện pháp xử lý chất thải và vẫn 
còn 47,0% số hộ chăn nuôi chưa áp dụng bất kỳ biện 
pháp xử lý chất thải [4,12]. Số liệu này thể hiện những 
rào cản vẫn còn tồn tại trong việc thúc đẩy phát triển 
công nghệ KSH ở Việt Nam. 
Bảng 1. Số lượng vật nuôi chính và lượng chất thải của vật nuôi và sản lượng KSH tiềm năng năm 2019
Vật nuôi Số lượng Lượng phân 
thải
Tổng lượng 
chất thải rắn
Tỷ lệ chất rắn 
dễ bay hơi
Tiềm năng khí 
mê tan
Sản lượng 
KSH
N
1000 con
kg/ngày/con triệu/tấn/năm Vs 
kg/con/ngày
Bo
m3CH4/kg
BEP
m3/năm
Lợn 19.615,5 2,5 49,0 0,3 0,29 15.572,3
Trâu 2.387,9 15 35,8 3,9 0,1 8.498,0
Bò 6.060,0 10 60,6 2,8 0,13 20.128,3
Gia cầm 481.079 0,2 96,2 2,3 0,1 1.009.664,5
Tổng 1.053.863,1
Chuyên đề I, tháng 3 năm 202180
3. Phân tích các rào cản phát triển KSH 
Sử dụng công nghệ KSH xử lý chất thải chăn nuôi 
đã mang đến lợi ích thiết thực cho người chăn nuôi 
như phát triển kinh tế, thay đổi môi trường, giải phóng 
sức lao động phụ nữ từ việc sử dụng năng lượng sạch 
để đun nấu. Tuy nhiên, trên thực tế, việc sử dụng công 
nghệ này vẫn chưa được sử dụng phổ biến, bởi nhiều 
yếu tố tác động khác nhau [12].
Cùng với vấn đề xuất phát điểm của ngành chăn 
nuôi nước ta thấp hơn nhiều nước trong khu vực và 
những bất cập trong tổ chức triển khai các chính sách, 
chiến lược phát triển chăn nuôi thời gian qua mà việc 
khuyến khích phát triển công nghệ KSH còn gặp phải 
một số tồn tại, hạn chế, dẫn đến phát triển thiếu bền 
vững, tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro. Hạn chế xuất phát 
từ chính các hộ chăn nuôi, nhưng cũng có những 
nguyên nhân tác động từ bên ngoài (từ cơ chế, chính 
sách của Chính phủ...) ảnh hưởng tới việc áp dụng 
công nghệ KSH.
3.1. Rào cản đến từ những khó khăn nội tại của 
hộ chăn nuôi
Quy mô chăn nuôi nhỏ lẻ: Thời gian qua, chăn nuôi 
lợn quy mô nhỏ lẻ đã làm tốt vai trò duy trì, phát triển 
tổng đàn, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập 
cho người chăn nuôi. Tuy nhiên, chăn nuôi lợn quy mô 
nhỏ lẻ đã gây ra những khó khăn nhất định cho người 
chăn nuôi vì khu chăn nuôi chủ yếu nằm trong khu dân 
cư, gây ô nhiễm môi trường do không có đủ diện tích 
để đầu tư áp dụng công nghệ xử lý môi trường. Theo 
báo cáo của Bộ NN&PTNT, có đến 47% số hộ chăn 
nuôi quy mô vừa và nhỏ chưa áp dụng bất kỳ biện pháp 
xử lý môi trường nào [4,12].
Nhận thức của hộ chăn nuôi còn chưa đầy đủ: Nhận 
thức và đạo đức môi trường, ý thức trách nhiệm BVMT 
của hộ chăn nuôi, cộng đồng nhiều nơi còn thấp, dẫn 
đến thiếu ý thức tự giác BVMT.
Chăn nuôi không ổn định và dịch bệnh thường 
xuyên xảy ra: Dịch bệnh và thiên tai diễn biến phức 
tạp, nhất là những dịch bệnh mới như tả lợn châu Phi, 
thời tiết cực đoan do biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt 
đang tác động trực tiếp đến ngành chăn nuôi. Do đó, 
người chăn nuôi nhận thấy thu nhập, giá trị gia tăng từ 
chăn nuôi lợn không lớn, dẫn đến chăn nuôi không ổn 
định, họ không muốn đầu tư công nghệ xử lý chất thải 
chăn nuôi.
Hiệu quả kinh tế chưa cao khi không có bất kỳ sự hỗ 
trợ nào: Áp dụng công nghệ KSH là một trong những 
giải pháp giúp xử lý môi trường chăn nuôi được tốt 
hơn. Khi sử dụng công nghệ xử lý chất thải chăn nuôi 
tức là chủ trang trại phải bỏ thêm chi phí để xây dựng 
các hạng mục hệ thống công trình KSH như hố thu 
gom chất thải, công trình KSH, hồ sinh học, bể lắng... 
giúp làm giảm các tác động xấu đến môi trường, dẫn 
đến chi phí đầu tư tăng lên làm cho hiệu quả kinh tế sẽ 
giảm đi. Tuy nhiên, xây dựng hệ thống công trình KSH, 
chủ trang trại phải bỏ ra nhiều chi phí (hàng trăm triệu 
đồng) để xử lý chất thải chăn nuôi nhằm đáp ứng được 
QCVN 62-MT:2016/BTNMT của Bộ TN&MT. Theo 
báo cáo chương trình quản lý chất thải chăn nuôi tổng 
hợp của Dự án Hỗ trợ nông nghiệp các bon thấp, chi 
phí xây dựng công trình KSH 20 m3 là 22 triệu đồng 
(chưa bao gồm hệ thống các bể sinh học, bể lắng...), tỷ 
suất lợi nhuận là -6,3% và sau 27,5 năm mới hoàn vốn 
[13]. Với hiệu quả kinh tế không hấp dẫn như thế này, 
nếu không có sự hỗ trợ nào của Nhà nước thì các trang 
trại chăn nuôi quy mô vừa và nhỏ không mặn mà với 
việc xây dựng hệ thống công trình KSH để xử lý chất 
thải chăn nuôi. 
3.2. Rào cản đến từ cơ chế, chính sách hỗ trợ
Chính sách chưa đầy đủ, đồng bộ và hoàn thiện: 
Đến thời điểm hiện tại, chưa có một văn bản pháp luật 
hay chính sách nào quy định riêng chuyên biệt về việc 
khuyến khích phát triển công nghệ KSH để xử lý chất 
thải chăn nuôi. Đây là một công nghệ xử lý chất thải 
nhằm đem lại lợi ích về môi trường, nên có chính sách 
cụ thể khuyến khích người chăn nuôi thực hiện giải 
pháp này.
Triển khai chính sách trên thực tế còn chậm và chưa 
đồng bộ: Mặc dù đã có chính sách hỗ trợ là 5 triệu đồng 
mỗi hộ của Nhà nước theo Quyết định số 50/2014/QĐ-
TTg của Thủ tướng Chính phủ, tuy nhiên mức hỗ trợ 
này tùy thuộc vào tình hình tài chính của từng tỉnh, do 
vậy không phải tỉnh nào cũng thu xếp được nguồn vốn 
để hỗ trợ người chăn nuôi. Hầu hết các tỉnh chỉ thu xếp 
được nguồn ngân sách hỗ trợ 1-2 triệu đồng/hộ, mức 
hỗ trợ này quá nhỏ (tương đương với khoảng 10% so 
với chi phí đầu tư xây dựng bể KSH) nên chưa khuyến 
khích được người dân áp dụng công nghệ này.
Khó tiếp cận với các nguồn vốn vay ưu đãi: Theo quy 
định tại Điều 9 Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 9 
tháng 6 năm 2015 của Chính phủ về chính sách tín 
dụng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn thì cơ 
chế đảm bảo vốn vay cho Ngân hàng thương mại: Các 
đối tượng khách hàng được vay không có tài sản bảo 
đảm phải nộp cho tổ chức tín dụng cho vay giấy chứng 
nhận quyền sử dụng đất hoặc giấy xác nhận chưa được 
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không có tranh 
chấp do Ủy ban nhân dân xã xác nhận. Quy định này là 
một trong những cản trở lớn nhất đối với các chủ trang 
trại khi muốn tiếp cận với nguồn vốn tín dụng để phát 
triển mô hình KSH. Bên cạnh đó, việc tiếp cận nguồn 
vốn vay của Quỹ BVMT gần như là bế tắc bởi thủ tục 
vay vốn của Quỹ quá rườm rà, thời gian kéo dài dẫn 
đến mất thời gian của trang trại và việc thẩm định dự 
án rất khó khăn.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021 81
4. Một số đề xuất giải pháp cho phát triển KSH
Từ việc phân tích các rào cản nêu trên, nghiên cứu 
này giải pháp được đề xuất như sau:
Nâng cao nhận thức
Đào tạo và nâng cao nhận thức cho chủ hộ chăn 
nuôi về phát triển và sử dụng công nghệ KSH xử lý 
chất thải chăn nuôi, đặc biệt chú trọng đào tạo các giải 
pháp nhằm nâng cao an toàn thực phẩm và BVMT cho 
người chăn nuôi thông qua các chương trình dạy nghề, 
hoạt động khuyến nông. 
Xây dựng các chương trình truyền thông chuyên 
sâu nhằm từng bước thay đổi nhận thức và thói quen 
không phù hợp trong chăn nuôi và sử dụng các giải 
pháp nhằm xử lý chất thải chăn nuôi một cách an toàn.
Chính sách hỗ trợ và tín dụng
Xây dựng các chính sách cụ thể và trực tiếp hỗ trợ để 
khuyến khích các hộ chăn nuôi sử dụng công nghệ KSH 
xử lý chất thải chăn nuôi thông qua các biện pháp hỗ 
trợ 30% chi phí đầu tư xây dựng công trình KSH trong 
thời gian đầu. Sau khi công trình KSH đi vào hoạt động 
hiệu quả, các chủ hộ chăn nuôi có thể tự xây dựng, lúc 
này Chỉnh phủ vẫn tiếp tục duy trì mức hỗ trợ chi phí 
đầu tư, tuy nhiên mức hỗ trợ này sẽ giảm dần.
Tiếp tục duy trì, thực hiện có hiệu quả chính sách, 
ưu đãi thuế đối với hoạt động trong các lĩnh vực của 
ngành chăn nuôi nhằm tạo điều kiện phát triển chăn 
nuôi hiện đại, toàn diện, đồng bộ. 
Đơn giản thủ tục quy trình tín dụng. Các địa 
phương, tổ chức tín dụng cần rà soát tiết giảm tối đa 
thủ tục, giấy tờ; triển khai nhiều chương trình tín dụng 
mới phù hợp với đặc điểm, tình hình của các loại hình 
doanh nghiệp nông nghiệp và của từng địa phương.
Nên có chính sách hỗ trợ lãi suất tiền vay cho các dự 
án đầu tư phát triển chăn nuôi lợn kết hợp thực hiện 
các giải pháp BVMT để đáp ứng yêu cầu của Nhà nước 
về xử lý chất thải chăn nuôi theo Quy chuẩn kỹ thuật 
quốc gia QCVN 62-MT:2016/BTNMT, đồng thời mở 
rộng cho vay đối với hộ nông dân không phải thế chấp 
tài sản.
Sớm ban hành cơ chế hỗ trợ bán điện KSH: Trong 
lúc các dự án năng lượng tái tạo khác như điện gió, điện 
mặt trời, điện sinh khối đã được hưởng các chính sách 
ưu đãi về giá bán điện thì KSH được tạo ra do xử lý chất 
thải chăn nuôi vẫn chưa có cơ chế hỗ trợ. Vì vậy, việc 
xây dựng cơ chế hỗ trợ cho các hộ dân sử dụng KSH để 
phát điện là việc làm cần thiết để khuyến khích các hộ 
dân sử dụng hiệu quả nguồn năng lượng sạch từ KSH.
Cải tiến công nghệ và thiết bị sử dụng KSH
Hỗ trợ nghiên cứu công nghệ xử lý chất thải chăn 
nuôi cho các quy mô khác nhau để đáp ứng nhu cầu sử 
dụng khí nhằm tránh tình trạng quá tải và đáp ứng các 
yêu cầu về môi trường.
Khuyến khích các công ty tư vấn và chuyển giao 
công nghệ phát triển thị trường cung cấp công nghệ, 
dịch vụ liên quan đến việc xây dựng, bảo dưỡng và sửa 
chữa công trình cũng như các thiết bị sử dụng KSH.
5. Kết luận
Các vấn đề liên quan tới ô nhiễm môi trường không 
khí, nước ngầm, nước mặt, phát thải KNK vẫn đang 
là những vấn đề nổi cộm trong quản lý chất thải chăn 
nuôi hướng tới phát triển bền vững và thích ứng biến 
đổi khí hậu ở Việt Nam. Phát triển mô hình KSH, đặc 
biệt ở quy mô trang trại chăn nuôi vừa và nhỏ, là một 
giải pháp cho các vấn đề môi trường trong bối cảnh 
nguồn nhiên liệu đang ngày một cạn kiệt và biến đổi 
khí hậu gia tăng. Để đáp ứng nhu cầu năng lượng tăng 
cao trong những thập kỷ tới, Việt Nam cần phải đa 
dạng hóa các nguồn cung cấp năng lượng mới trong đó 
có năng lượng KSH để đáp ứng các mục tiêu tăng “tỷ 
lệ các nguồn năng lượng tái tạo trong tổng cung năng 
lượng sơ cấp đạt khoảng 15-20% vào năm 2030; 25-30% 
vào năm 2045” được nêu trong Định hướng Chiến lược 
phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 
2030, tầm nhìn đến năm 2045. Nghiên cứu này phân 
tích tiềm năng phát triển công nghệ KSH xử lý chất 
thải chăn nuôi và đánh giá các rào cản trong phát triển 
công nghệ này ở Việt Nam, từ đó đề xuất các giải pháp 
về truyền thông nâng cao nhận thức cho hộ chăn nuôi, 
xây dựng chính sách hỗ trợ, tín dụng và cải tiến công 
nghệ phù hợp điều kiện Việt Nam. 
Lời cảm ơn: Nghiên cứu này được hỗ trợ bởi Chương 
trình Mạng lưới châu Á-Thái Bình Dương cho nghiên 
cứu biến đổi toàn cầu (Asia-Pacific Network for Global 
Change Research - APN) mã số CBA2018.FP05-Do■
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TCTK (2019): Số liệu Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp 
và thủy sản, Tổng cục Thống kê.
2. Cục Chăn nuôi (2014): Báo cáo công tác BVMT chăn nuôi 
- Những khó khăn vướng mắc và giải pháp khắc phục.
3. SNV (2006): Báo cáo đánh giá người sử dụng KSH. Dự án 
KSH cho ngành chăn nuôi Việt Nam.
4. Bộ NN&PTNT (2020): Báo cáo Kết quả thực hiện Chiến 
lược phát triển chăn nuôi giai đoạn 2008-2018 và định 
hướng phát triển chăn nuôi giai đoạn 2020-2030, tầm nhìn 
2040. Bộ NN&PTNT.
5. Lê T.T. (2016): Đánh giá hiệu quả mô hình KSH xử lý 
chất thải chăn nuôi tại vùng đồng bằng sông Hồng, Tạp 
chí Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, ISSN 1859-4581, 
tháng 10/2016.
6. Roubík H., Mazancová J., Phung L.D. and Dung D.V. (2017) 
Quantification of biogas potential from livestock waste in 
Vietnam, Agronomy Research 15 (X), 540-552, 2017
Chuyên đề I, tháng 3 năm 202182
AN ANALYSIS OF POTENTIAL AND BARRIERS FOR APPLICATION 
OF BIOGAS IN PIG WASTE TREATMENT IN VIETNAM
Le Thi Thoa 
Deutsche Gesellschaft fü Internationale Zusammenarbeit (GIZ) 
Do Thu Nga 
Electric Power University
Dinh Duc Truong 
National Economics University 
ABSTRACT
Livestock is the sector that accounts for a large proportion in the economy and is the second largest 
GHGs emission sector in the agricultural activities in Vietnam. Development of biogas model, particularly at 
medium and large scale, is a solution for the environmental issues in the context of depleted fuel sources and 
climate change. This study presents an analysis of the potential for biogas application on pig waste treatment 
in Vietnam. Barriers to this technology development are also assessed and feedback measures are proposed 
accordingly. 
Key words: Livestock waste, biogas, climate change, environmental pollution.
7. Shane A., Gheewala S.H. and Kasali G. (2015) Potential, 
Barriers and Prospects of Biogas Production in Zambia. 
Journal of Sustainable Energy & Environment 6, 21-27.
8. IPCC (2006) Guidelines for National Greenhouse Gas 
Inventories - Chapter 10: Emissions from Livestock and 
Manure Management, volume 4: Agriculture, Forestry and 
Other Land Use.
9. Cundr O. and Haladová D. (2014) Biogas yield from 
anaerobic batch co-digestion of rice straw and zebu dung. 
Scientia Agriculturae Bohemica 45(2), 98-103.
10. Radziah W., Daniel G.M., John C.G. and Svein J.H. (2019) 
Effects of H2: CO2 ratio and H2 supply fluctuation on 
methane content and microbial community composition 
during in-situ biological biogas upgrading, Biotechnology 
for Biofuels 12 (104).
11. Báo cáo Nghiên cứu biện pháp thúc đẩy quá trình lên men 
và sinh khí mê tan trong công trình KSH (2009) Dự án 
KSH cho ngành chăn nuôi Việt Nam.
12. Lê T.T. (2014) Giảm phát thải KNK thông qua việc xử 
lý chất thải chăn nuôi. Hội thảo khoa học quốc gia về 
Chiến lược Tăng trưởng xanh ở Việt Nam - Chương 
trình hành động và vai trò của các trường đại học và các 
viện nghiên cứu.
13. Bản tin chuyên đề khoa học NN&PTNT, Chương trình 
quản lý chất thải chăn nuôi tổng hợp của Dự án hỗ trợ 
nông nghiệp các bon thấp, bản tin chuyên đề số 02-2019.

File đính kèm:

  • pdfphan_tich_tiem_nang_va_rao_can_trong_phat_trien_cong_nghe_kh.pdf