Ôn tập môn Triết học - Phạm trù vật chất

I. KHÁI QUÁT QUAN ĐIỂM TRƯỚC MÁC VỀ VẬT CHẤT

* Chủ nghĩa duy tâm: Coi ý thức (tinh thần ) là có trước, quyết định. Coi vật chất (giới tự nhiên) là có sau, bị quyết định. Quan điểm này bị thực tiễn bác bỏ.

* Chủ nghĩa duy vật trước Mác: Cho rằng vật chất( giới tự nhiên) là có trước, là quyết định, còn ý thức (tinh thần) có sau, bị quyết định. Quan điểm này phù hợp với thực tiễn, tuy nhiên khi trả lời câu hỏi vật chất là gì thì các nhà duy vật trước mác lại có những quan điểm khác nhau.

- Một là: Quan niệm của chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại thì đồng nhất vật chất với những sự vật hiện tượng cụ thể như nước, lửa, không khí, nguyên tử coi đó là cái đầu tiên mà từ đó sinh ra mọi cái còn lại. Quan niệm này mang nặng tính trực quan, ngây thơ, ấu trĩ và chưa khoa học nên đã bị khoa học bác bỏ.

- Hai là: Quan niệm của chủ nghĩa siêu hình thế kỷ XVII, XVIII quy vật chất về các thuộc tính của vật như là khối lương, quảng tính, hay là kết cấu nguyên tử. Quan niệm này đã có tính khoa học tuy nhiên nó còn mang nặng tính siêu hình cơ giới, máy móc. Do đó những quan niệm này cuối cùng cũng bị khoa học bác bỏ. Từ đó đặt ra nhu cầu phải có một quan niệm mới về vật chất. Lênin là người đầu tiên đưa ra được quan điểm này.

II. ĐỊNH NGHĨA CỦA LÊNIN VỀ VẬT CHẤT

Ôn tập môn Triết học - Phạm trù vật chất trang 1

Trang 1

Ôn tập môn Triết học - Phạm trù vật chất trang 2

Trang 2

Ôn tập môn Triết học - Phạm trù vật chất trang 3

Trang 3

Ôn tập môn Triết học - Phạm trù vật chất trang 4

Trang 4

Ôn tập môn Triết học - Phạm trù vật chất trang 5

Trang 5

Ôn tập môn Triết học - Phạm trù vật chất trang 6

Trang 6

Ôn tập môn Triết học - Phạm trù vật chất trang 7

Trang 7

Ôn tập môn Triết học - Phạm trù vật chất trang 8

Trang 8

Ôn tập môn Triết học - Phạm trù vật chất trang 9

Trang 9

Ôn tập môn Triết học - Phạm trù vật chất trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 45 trang Trúc Khang 12/01/2024 4060
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Ôn tập môn Triết học - Phạm trù vật chất", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ôn tập môn Triết học - Phạm trù vật chất

Ôn tập môn Triết học - Phạm trù vật chất
ÔN TẬP MÔN TRIẾT HỌC 
PHẠM TRÙ VẬT CHẤT 
 1
ÔN TẬP MÔN TRIẾT HỌC 
PHẠM TRÙ VẬT CHẤT 
I. KHÁI QUÁT QUAN ĐIỂM TRƯỚC MÁC VỀ VẬT CHẤT 
* Chủ nghĩa duy tâm: Coi ý thức (tinh thần ) là có trước, quyết định. Coi vật 
chất (giới tự nhiên) là có sau, bị quyết định. Quan điểm này bị thực tiễn bác bỏ. 
* Chủ nghĩa duy vật trước Mác: Cho rằng vật chất( giới tự nhiên) là có trước, 
là quyết định, còn ý thức (tinh thần) có sau, bị quyết định. Quan điểm này phù hợp 
với thực tiễn, tuy nhiên khi trả lời câu hỏi vật chất là gì thì các nhà duy vật trước 
mác lại có những quan điểm khác nhau. 
- Một là: Quan niệm của chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại thì đồng nhất 
vật chất với những sự vật hiện tượng cụ thể như nước, lửa, không khí, nguyên tử 
coi đó là cái đầu tiên mà từ đó sinh ra mọi cái còn lại. Quan niệm này mang nặng 
tính trực quan, ngây thơ, ấu trĩ và chưa khoa học nên đã bị khoa học bác bỏ. 
- Hai là: Quan niệm của chủ nghĩa siêu hình thế kỷ XVII, XVIII quy vật chất về 
các thuộc tính của vật như là khối lương, quảng tính, hay là kết cấu nguyên tử. 
Quan niệm này đã có tính khoa học tuy nhiên nó còn mang nặng tính siêu hình cơ 
giới, máy móc. Do đó những quan niệm này cuối cùng cũng bị khoa học bác bỏ. 
Từ đó đặt ra nhu cầu phải có một quan niệm mới về vật chất. Lênin là người đầu 
tiên đưa ra được quan điểm này. 
II. ĐỊNH NGHĨA CỦA LÊNIN VỀ VẬT CHẤT 
 1. Hoàn cảnh ra đời của định nghĩa 
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cuộc cánh mạng trong KHTN đã mở ra nhiều 
phát minh có tính bước ngoặt làm đảo lộn những nguyên tắc cũ, xuất hiện một loạt 
những phát minh khoa học mới góp phần bác bỏ những quan niệm cũ về vật chất 
cụ thể là: 
- Năm 1895 tìm ra tia X (tia rơn ghen) chứng tỏ trong tự nhiên vật chất không chỉ 
là chất (tức là những cái có khối lượng, có quảng tính và có cấu trúc nguyên tử) mà 
vật chất còn là trường (dạng vật chất mang tính liên tục, nó không xác định về mặt 
khối lượng, không có cấu trúc nguyên tử). 
- Năm 1896 phát hiện ra hiện tượng phóng xạ chứng tỏ nguyên tử cũng tiêu tan. 
 2
- Năm 1897 tìm ra electơron (điện tử) chứng tỏ nguyên tử cũng không phải là kết 
cấu vật chất cuối cùng (cấu trúc này vẫn có thể phân chia được nữa). 
- Sang đầu thế kỷ XX phát hiện ra hiện tượng thay đổi của khối lượng, quảng 
tính và thời gian trong sự phụ thuộc vào tốc độ vận động. 
Tóm lại: Khoa học chứng minh rằng không có dạng vật chất đầu tiên. 
Từ những phát minh khoa học trên đã làm xuất hiện sự khủng hoảng trong lập 
trường tư tưởng của một số nhà khoa học, nhà triết học, từ đó làm khôi phục lại 
chủ nghĩa duy tâm và thuyết bất khả tri, chống lại chủ nghĩa Mác. Trước bối cảnh 
đó LêNin đã viết tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê 
phán” xuất bản năm 1909 mà trong đó ông đã đưa ra định nghĩa kinh điển về vật 
chất (được thừa nhận như là một định nghĩa chính thống của chủ nghĩa Mác) 
 2. Định nghĩa: Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách 
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta 
chụp lại, chép lại, phản ánh và tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác. 
 3. Phân tích định nghĩa: Trong nội dung định nghĩa trên cần lưu ý 2 điểm sau: 
- Một là: Định nghĩa khẳng định vật chất là một phạm trù triết học, phạm trù là 
một khái niệm rộng nhất, phản ánh những mặt, những thuộc tính phổ biến nhất của 
hiện thực. Như vậy khi coi vật chất là một phạm trù triết học thì nó là khái niệm 
chứ không phải là sự vật. Cho nên vật chất là cái chung, cái khái quát, cái trừu 
tượng, là vật chất nói chung (là vĩnh viễn). 
Vì vậy cần phải phân biệt phạm trù triết học về vật chất với 1 khái niệm vật lý 
thông thường về vật chất mà người ta dùng để chỉ những sự vật, những hiện tượng 
vật chất cụ thể (như vậy: đất, nước, lửa, không khí chẳng qua chỉ là một dạng tồn 
tại về vật chất). 
- Hai là: Về mặt nhận thức luận (phương pháp luận) thì thuộc tính cơ bản nhất 
của vật chất dùng để định nghĩa cho nó và để phân biệt nó với ý thức tinh thần là 
thuộc tính tồn tại khách quan. Vật chất là tất cả những gì tồn tại khách quan bên 
ngoài đầu óc con người và không phụ thuộc vào ý thức của con người, độc lập lại 
với nó thì ý thức hay tinh thần là cái tồn tại chủ quan trong đầu óc con người. 
Tóm lại: Theo định nghĩa của LêNin vật chất được hiểu như sau: 
 3
- Vật chất là tất cả những gì đang tồn tại khách quan bên ngoài đầu óc con người, 
không phụ thuộc vào ý thức, cảm giác của con người. 
- Vật chất là những cái mà khi tác động lên các giác quan của con người một 
cách trực tiếp hay gián tiếp thì sẽ gây nên cho con người cảm giác. 
- Vật chất là những cái mà trong quan hệ đối với chúng thì ý thức, cảm giác của 
con người chẳng qua chỉ là sự phản ánh của chúng mà thôi. 
 4. Ý nghĩa, phương pháp luận của định nghĩa: 
Một là: Định nghĩa trên đã góp phần khắc phục được quan niệm siêu hình về vật 
chất, đó là không quy vật chất về cái cụ thể mà đồng nhất nó với thực tại khách 
quan nói chung (Cái thực tại  ... ấp mâu thuẫn này lại được 
biểu hiện về mặt XH bằng mâu thuẫn giữa giai cấp bị trị - người đại biểu cho 
LLSX với giai cấp thống trị - người đại biểu cho QHSX (giai cấp sở hữu TLSX, 
chi phối việc phân phối sản phẩm), mâu thuẫn này tất yếu làm bùng nổ cac cuộc 
đấu tranh giai cấp dẫn đến đỉnh cao của nó sẽ là một cuộc cách mạng XH nhằm 
xóa bỏ hình thái kinh tế XH cũ, thiết lập nên một hình thái kinh tế XH mới. Như 
vậy trong thời kỳ cách mạng, thì đấu tranh giai cấp chính là động lực thúc đẩy quá 
trình phát triển thay thế nhau của các hình thái KT-XH từ thấp đến cao. Trong thời 
bình (QHSX thống nhất, phù hợp với LLSX): đấu tranh giai cấp cũng là một động 
lực quan trọng kích thích sự phát triển của các lĩnh vực trong đời sống XH, cụ thể: 
- Nó kích thích sự phát triển của LLSX, bởi vì nó đòi hỏi giới chủ phải quan tâm 
đến cải tiến công cụ lao động để nâng cao năng suất lao động XH (cuộc đấu tranh 
giai cấp của người lao động đầu tiên đòi hỏi về mặt kinh tế => nâng cao năng suất 
để thỏa mãn đòi hỏi của cuộc đấu tranh giai cấp, thỏa mãn nhu cầu lợi ích kinh tế 
của mình). 
- Đấu tranh giai cấp kích thích sự phát triển của lĩnh vực văn hóa tinh thần, tạo ra 
nhiều giá trị tinh thần khác nhau như: văn học, nghệ thuật... để phản ánh lại các 
cuộc đấu tranh đó; 
 37
- Đấu tranh giai cấp góp phần làm hoàn thiện lĩnh vực chính trị XH đem lại nhiều 
giá trị XH quan trọng, như: tự do, dân chủ, bình đẳng, nhân quyền... (không phải là 
sự ban phát của giới chủ, mà là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp lâu dài); 
- Thông qua đấu tranh giai cấp mà bản thân các giai cấp không ngừng lớn mạnh 
làm hình thành nên các tổ chức lãnh đạo giai cấp (công đoàn, nghiệp đoàn, chính 
đảng... được hình thành, tôi luyện, trưởng thành...). 
3. Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản: đây là cuộc đấu tranh giai cấp 
điển hình, cao nhất và cuối cùng trong lịch sử. 
Sau khi giai cấp vô sản được hình thành thì nó dần dần trở thành một lực lượng 
chính trị độc lập, đối lập với giai cấp tư sản và bắt đầu tiến hành cuộc đấu tranh 
chống lại giai cấp tư sản, cuộc đất trành này phát triển dần dần từ tự phát đến tự 
giác và lần lượt trải qua 3 hình thức đấu tranh cơ bản (chỉ khác nhau về mục tiêu): 
hình thức đấu tranh kinh tế, hình thức đấu tranh chính trị và hình thức đấu tranh tư 
tưởng. Mục đích cuối cùng của cuộc đấu tranh này trong XH TBCN là nhằm giành 
chính quyền nhà nước về tay giai cấp vô sản.Sau khi giành được chính quyền nhà 
nước, giai cấp vô sản tiến hành công cuộc cải tạo XH cũ, XD XH mới XHCN, đây 
được gọi là thời kỳ quá độ lên CNXH. Ở thời kỳ này, cuộc đấu tranh giai cấp vẫn 
tiếp tục diễn ra một cách gay go, quyết liệt, sở dĩ như vậy bởi vì: 
- Giai cấp tư sản và các lực lượng phản động tuy đã bị lật đổ nhưng chưa bị tiêu 
diệt hoàn toàn nên vẫn tìm cách nổi dậy chống lại giai cấp vô sản, chống lại cách 
mạng; 
- Nguy cơ làm nảy sinh chủ ngĩa tư bản tiếp tục tồn tại lâu dài (tồn tại trong suốt 
thời kỳ quá độ), đó chính là nền sản xuất nhỏ, cá thể, tư hữu; 
- Những tàn dư của văn hóa tư tưởng cũ tiếp tục tồn tại lâu dài; 
- Các thế lực thù địch từ bên ngoài luôn tìm cách can thiệp vào công việc nội bộ 
trong nước; 
4. Cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay: ở nước ta hiện nay cuộc đấu 
tranh giai cấp vẫn đang diễn ra một cách gay go, quyết liệt với những điều kiện 
mới, nội dung, hình thức mới. Cuộc đấu tranh này tỏ ra rất phức tạp do không xác 
định được kẻ thù trực diện. Thực chất của cuộc đấu tranh này là nhằm để thực hiện 
 38
thắng lợi sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng nước 
nghèo, lạc hậu, chống áp bức bất công, XD công bằng XH. Để thực hiện mục tiêu 
này thì cần phải tiến hành đấu tranh để khắc phục 4 nguy cơ, thách thức đối với 
cách mạng nước ta hiện nay (từ ĐH IX, XX): nguy cơ tụt hậu kinh tế, nguy cơ 
chệch hướng XHCN, nguy cơ tham nhũng, nguy cơ diễn biến hóa bình của CNĐQ. 
 39
MỖI QUAN HỆ BIẾN CHỨNG GIỮA TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ 
HỘI 
1. Các khái niệm tồn tại xã hội, ý thức xã hội: 
* Tồn tại xã hội là toàn bộ đời sống vật chất của XH và những điều kiện sinh 
hoạt vật chất của nó. Đây là hình thức biểu hiện của vật chất trong lĩnh vực XH, 
bao gồm 3 yếu tố cơ bản: 
+ Phương thức SX: đầu tiên nhất, quyết định nhất. 
+ Môi trường tự nhiên 
+ Điều kiện dân số 
* Ý thức xã hội là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng, những tâm tư, tình cảm, 
những tập tục truyền thống, những thiên hướng, hứng thú... của XH phản ánh lại 
tồn tại XH ở từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất định. 
- Nếu phân chia theo chiều ngang (tạo các cấp độ cao thấp) thì ý thức xã hội XH 
bao gồm 2 cấp độ cơ bản: 
+ Ý thức xã hội thông thường 
+ Ý thức lý luận (ý thức xã hội khái quát từ kinh nghiệm hoạt động thực tiễn) 
Trong hai cấp độ trên, thì vai trò quan trọng nhất thuộc về hai yếu tố là tâm lý 
XH và hệ tư tưởng. 
+ Tâm lý XH là bộ phận của ý thức xã hội thông thường, nó bao gồm những tâm 
tư tình cảm, những tập tục truyền thống, những thói quen, tập quán... của XH phản 
ánh trực tiếp những điều kiện sinh hoạt vật chất hàng ngày của XH, đây là bộ phận 
có tính bền vững và bảo thủ cao. 
+ Hệ tư tưởng là bộ phận của ý thức lý luận, nó bao gồm những quan điểm tư 
tưởng đã được hệ thống hóa thành chỉnh thể học thuyết để phản ánh những lợi ích 
cơ bản và địa vị của một giai cấp nhất định. 
- Nếu phân chia ý thức xã hội theo chiều dọc thì ý thức xã hội bao gồm các hình 
thái ý thức xã hội khác nhau: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý 
thức tôn giáo, ý thức thẩm mỹ, triết học, khoa học... 
2. Về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội: 
 40
a. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội: Theo quan điểm thế gới quan duy vật 
thì vật chất có trước, nó sinh ra và quyết định ý thức. Trong lĩnh vực XH thì quan 
hệ này được biểu hiện là: tồn tại xã hội có trước, nó sinh ra và quyết định ý thức xã 
hội, điều đó được thể hiện cụ thể là: 
- Tồn tại xã hội nào thì sinh ra ý thức xã hội ấy. Tức là người ta không thể tìm 
nguồn gốc tư tưởng trong đầu óc con người, mà phải tìm nó trong chính tồn tại xã 
hội. Do đó phải tồn tại xã hội để lý giải cho ý thức xã hội. 
- Khi tồn tại xã hội thay đổi một cách căn bản, nhất là khi phương thức SX đã 
thay đổi thì sớm hay muộn thì ý thức xã hội cũng phải thay đổi theo. 
b. Tính độc lập tương đối và sự tác động trở lại của ý thức xã hội lên tồn tại xã 
hội: 
Sự lệ thuộc của ý thức xã hội vào tồn tại xã hội không phải lúc nào cũng diễn ra 
trực tiếp mà cần phải xét đến cùng qua nhiều khâu trung gian mới thấy được, bởi vì 
ý thức xã hội có tính độc lập của mình. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội 
được thể hiện dưới các hình thức sau: 
- Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội. Sở dĩ như vậy bởi vì: 
+ Do nó chỉ là phản ánh của tồn tại xã hội nên thường biến đổi sau; 
+ Do nó có những bộ phận có tính bền vững, tính bảo thủ cao (tâm lý XH, tôn 
giáo...); 
+ Do có những lực lượng XH luôn tìm cách duy trì tính lạc hậu trên (nhằm cai trị 
ND, nô dịch ND...). 
- Vai trò tiên phong vượt trước của tri thức khoa học, bộ phận này trong ý thức 
xã hội có khả năng nắm bắt các quy luật vận động khách quan, từ đó đưa ra được 
những dự báo, tiên đoán về sự phát triển của XH, nên có thể đi tồn tại xã hội nên 
có thể đi trước một bước so với tồn tại xã hội (VD dự báo của Mác về sự sụp đổ 
của CNTB...). 
- Tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội có thể làm cho nó có một 
trình độ phát triển cao hơn so với tồn tại xã hội. Nên có những dân tộc với trình độ 
kinh tế, chính trị kém phát triển nhưng đời sống tinh thần lại rất phát triển, chẳng 
 41
hạn dân tộc Đức ở thể kỷ XIX: kinh tế lạc hậu so với Châu Âu, nhưng văn hóa tinh 
thần cực kỳ phát triển (âm nhạc, hội họa....). 
- Sự tương tác giữa các hình thái ý thức xã hội có thể tạo ra những quy luật đặc 
thù, chi phối sự phát triển của ý thức xã hội, làm cho nó không hoàn toàn lệ thuộc 
vào tồn tại xã hội. Cụ thể là ở những giai đoạn nhất định thường nổi lên một hình 
thái ý thức xã hội chủ đạo, chi phối các hình thái ý thức còn lại (làm cho toàn bộ 
XH phụ thuộc hoàn toàn vào ý thức chủ đạo: thời trung cổ thì tôn giáo chi phối xã 
hội, ngày nay khoa học chi phối xã hội). 
- Do có tính độc lập tương đối nên ý thức xã hội có thể tác động trở lại lên tồn tại 
xã hội theo 2 xu hướng: 
+ Nếu ý thức xã hội phản ánh đúng đắn các quy luật khách quan của tồn tại xã 
hội thì nó có thể thúc đẩy sự phát triển của tồn tại xã hội. Vai trò này thuộc về ý 
thức của những giai cấp tiến bộ và cách mạng. 
+ Nếu ý thức xã hội phản ánh sai lệch, xuyên tác các quy luật khách quan của tồn 
tại xã hội thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội. Tác động này thuộc về 
ý thức của những giai cấp cũ, lạc hậu, phản động. 
Sự tác động của ý thức xã hội lên tồn tại xã hội phụ thuộc vào mức độ thâm nhập 
của nó vào trong phong trào của quần chúng nhân dân. Cho nên phải thường xuyên 
đấu tranh để phổ biến tri thức khoa học và lý luận cách mạng cho quần chúng nhân 
dân, đồng thời để đấu tranh để loại bỏ những tàn dư của văn hóa, tư tưởng cũ, phản 
động ra khỏi quần chúng (không ảnh hưởng đến quần chúng nhân dân). 
 42
VẤN ĐỀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI 
1. Khái quát quan điểm trước Mác về con người: 
- Quan điểm duy tâm về con người thường đề cao yếu tố tâm lý trong con người, 
nó quy bản chất con người về bản chất tinh thần, tức là linh hồn, coi linh hồn là bất 
tử, là toàn năng, nó coi thường yếu tố sinh lý tức là thể xác, coi thể xác chỉ là tạm 
thời có sinh , có diệt. 
- Quan điểm duy vật trước Mác (quan điểm duy vậy siêu hình): lại đề cao yếu tố 
sinh lý coi con người chỉ là một thực thể tự nhiên sinh vật, nên cho rằng toàn bộ ý 
thức, tinh thần đều phụ thuộc vào cơ thể và hoàn cảnh sống. 
Như vậy cả 2 quan điểm trên đều có những hạn chế giống nhau: 
+ Đã tách rời và tuyệt đối hóa một trong hai yếu tố ở con người là yếu tố sinh lý 
và yếu tố tâm lý. 
+ Đã xem xét con người một cách trung trung, trìu tượng, con người phi lịch sử, 
phi giai cấp, phi dân tộc, nên đã không thấy được bản chất XH của con người. 
2. Quan niệm Mác Xít về bản chất con người: 
a. Con người là thực thể thống nhất giữa mặt tự nhiên sinh vật và mặt XH: 
Theo luận điểm này thì con người vừa là sản phẩm tiến hóa của tự nhiên, vừa là 
kết quả phát triển của lịch sử, cho nên bản chất của con người là thể thống nhất 
giữa hai mặt đó là mặt tự nhiên (mặt sinh vật – cái sinh vật hay yếu tố sinh vật) và 
mặt XH (cái XH hay yếu tố XH). 
- Mặt tự nhiên – sinh vật (cái sinh vật trong con người) trước hết con người là 
sản phẩm tiến hóa của giới tự nhiên, từ 1 loài động vật cao cấp dần dần tiến hóa 
thành con người, cho nên để tồn tại con người cần phải sử dụng tự nhiên. Do đó 
Mác coi giới tự nhiên là “thân thể vô cơ” của con người, con người phải mang 
trong mình đầy đủ các đặc điểm sinh vật như sự sinh, sự tử, quá trình trưởng thành. 
- Mặt XH của con người: để tồn tại và phát triển con người cần phải tiến hành lao 
động. Do đó lao động chính là phương thức thể hiện bản chất XH của con người, 
con người phải tự khẳng định mình thông qua năng lực lao động của mình. 
Hai mặt tự nhiên và XH của con người luôn nằm trong quan hệ thống nhất với 
nhau, chúng được hình thành và phát triển dần dần trong lịch sử (chứ không phải 
 43
ngay khi sinh ra con người có hai mặt đó). Quá trình đó chịu sự chi phối bởi 3 hệ 
thống quy luật: các quy luật XH, các quy luật tâm lý ý thức và các quy luật tự 
nhiên sinh vật. Dưới sự tác động trên sẽ làm cho hai mặt của bản chất con người 
quy định chế ước (hình thành tương ứng) lẫn nhau và cùng nhau phát triển. Một 
mặt, bản chất tự nhiên của con người được biểu hiện ra thông qua các nhu cầu tự 
nhiên: ăn, uống, mặc, ở, hiểu biết, sinh hoạt văn hóa tinh thần... Để thỏa mãn 
những nhu cầu này con người cần phải tiến hành lao động, trong lao động sẽ hình 
thành nên mặt XH của họ. Ngược lại, nhờ lao động mà con người tạo ra được 
những vật phẩm cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của mình và thỏa mãn nhu cầu sẽ 
góp phần làm hoàn thiện con người hơn. Thỏa mãn được nhu cầu này thì lại làm 
hình thành nên những nhu cầu mới cao hơn. 
b. Trong tính hiện thực của nó “bản chất con người là tổng hòa của những 
mối quan hệ XH”: Con người luôn luôn tham gia vào 3 loại quan hệ: 
+ Quan hệ giữa mình với tự nhiên; 
+ Quan hệ giữa mình với XH; 
+ Quan hệ giữa mình với mọi người (cá nhân với cá nhân). 
Cả 3 loại quan hệ này ở con người đều mang tính XH. Chỉ trong các quan hệ XH 
trên thì bản chất của con người mới được bộc lộ một cách đầy đủ nhất. Cho nên 
Mác đã khẳng định: bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu 
của cá nhân riêng biệt, trong tính hiện thực của nó bản chất con người là tổng hòa 
các mối qua hệ XH. Luận điểm này được hiểu như sau: 
- Bản chất con người là cái chung, là bản chất tộc loài chứ không phải là bản chất 
cá nhân riêng rẽ; 
- Bán chất con người phải được xem xét trong tính hiện thực, đó là sự tồn tại của 
những cá nhân con người cụ thể, sống động với một nền tảng sinh học nhất định; 
- Bản chất đích thực của con người không phải là bản chất sinh vật mà là bản 
chất XH, là tổng hòa của những mối quan hệ XH. Cho nên trong hai mặt của bản 
chất con người thì Mác nhấn mạnh hơn bản chất XH. 
Toàm lại ta có thể diễn đạt lại quan điểm của mác như sau: bản chất con người là 
tổng hòa các mối quan hệ XH trên nền tẳng tự nhiên - sinh vật. 
 44
c. Con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của lịch sử: Chủ nghĩa duy vật 
trước Mác bước đầu đã chỉ ra rằng con người là sản phẩm của hoàn cảnh, của môi 
trường giáo dục, tức là con người là sản phẩm của lịch sử. Điều đó là đúng nhưng 
chưa đủ, bởi vì theo Mác hoàn cảnh sống là do con người tạo ra (con người làm 
thay đổi) và giáo dục cũng do con người làm nên, do đó Mác nói “cái chủ nghĩa 
duy vậy (duy vật siêu hình) đã chỉ ra rằng con người là sản phẩm của hoàn cảnh và 
của giáo dục, nhưng nó lại quên mất rằng chính con người làm thay đổi hoàn cảnh 
và bản thân nhà giáo phải được giáo dục. Cho nên cái quan trọng hơn ở đây chính 
là con người là chủ thể của lịch sử.” Từ đó Mác kêu gọi phải phải làm cho hoàn 
cảnh càng ngày càng có tính người nhiều hơn (theo nghĩa là môi trường đó là môi 
trường nhân tạo, tạo môi trường tốt nhất cho con người). 
3. Vấn đề xây dựng con người mới ở nước ta hiện nay: Theo Hồ Chí Minh 
muốn XD CNXH cần có những con người XHCN, cho nên vấn đề XD con người 
mới phải vừa là mục tiêu vừa là động lực của cuộc cách mạng. Con người mới phải 
vừa là những con người vừa hồng vừa chuyên, vừa đức vừa tài. 
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta chủ trương XD con người mới phate triển toàn 
diện về nhân cách trên 5 khía cạnh: (Nghị quyết 5 khóa VIII, Nghị quyết 10 khóa 
IX) 
+ Cường tráng về thể chất; 
+ Phát triển cao về trí tuệ; 
+ Trong sáng về đạo đức; 
+ Phong phú về đời sống tinh thần; 
+ Có năng lực lao động, sáng tạo, tự cường dân tộc. 

File đính kèm:

  • pdfon_tap_mon_triet_hoc_pham_tru_vat_chat.pdf