Những vấn đề đặt ra đối với tái cơ cấu đầu tư công
Tại Việt Nam, trong tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế, tái cơ cấu đầu tư, tái đầu
tư công đang được lựa chọn như là một trong các nhân tố “đột phá” trong giai đoạn
2015-2020. Nhiệm vụ đặt ra cho tái cơ cấu đầu tư bao gồm 4 trụ cột cụ thể: Thứ nhất,
huy động hợp lý các nguồn lực cho đầu tư phát triển, bảo đảm tổng đầu tư xã hội khoảng
30-35% GDP, duy trì ở mức hợp lý các cân đối lớn của nền kinh tế; Thứ hai, duy trì tỷ
trọng đầu tư nhà nước khoảng 35-40% tổng đầu tư xã hội; hàng năm tăng dần tiết kiệm
từ ngân sách nhà nước (NSNN) cho đầu tư và dành khoảng 20-25% tổng chi ngân sách
cho đầu tư phát triển; Thứ ba, đổi mới cơ bản cơ chế phân bổ và quản lý, sử dụng vốn,
khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, phân tán và lãng phí, nâng cao hiệu quả đầu tư nhà
nước; Thứ tư, mở rộng tối đa phạm vi và cơ hội cho đầu tư tư nhân. Nghiên cứu này dựa
vào số liệu từ năm 2015-2018 để đánh giá hiệu quả và đề xuất giải pháp cho hoạt động
tái cơ cấu đầu tư công của Việt Nam trong thời gian tới.
Từ khóa: Tái cơ cấu đầu tư công, Đầ
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Những vấn đề đặt ra đối với tái cơ cấu đầu tư công
38 | Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, số 133 (12/2020) Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế Trang chủ: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI TÁI CƠ CẤU ĐẦU TƯ CÔNG Đặng Anh Tuấn1 Ban Kinh tế Trung Ương, Hà Nội, Việt Nam Ngày nhận: 03/02/2020; Ngày hoàn thành biên tập: 22/10/2020; Ngày duyệt đăng: 02/11/2020 Tóm tắt: Tại Việt Nam, trong tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế, tái cơ cấu đầu tư, tái đầu tư công đang được lựa chọn như là một trong các nhân tố “đột phá” trong giai đoạn 2015-2020. Nhiệm vụ đặt ra cho tái cơ cấu đầu tư bao gồm 4 trụ cột cụ thể: Thứ nhất, huy động hợp lý các nguồn lực cho đầu tư phát triển, bảo đảm tổng đầu tư xã hội khoảng 30-35% GDP, duy trì ở mức hợp lý các cân đối lớn của nền kinh tế; Thứ hai, duy trì tỷ trọng đầu tư nhà nước khoảng 35-40% tổng đầu tư xã hội; hàng năm tăng dần tiết kiệm từ ngân sách nhà nước (NSNN) cho đầu tư và dành khoảng 20-25% tổng chi ngân sách cho đầu tư phát triển; Thứ ba, đổi mới cơ bản cơ chế phân bổ và quản lý, sử dụng vốn, khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, phân tán và lãng phí, nâng cao hiệu quả đầu tư nhà nước; Thứ tư, mở rộng tối đa phạm vi và cơ hội cho đầu tư tư nhân. Nghiên cứu này dựa vào số liệu từ năm 2015-2018 để đánh giá hiệu quả và đề xuất giải pháp cho hoạt động tái cơ cấu đầu tư công của Việt Nam trong thời gian tới. Từ khóa: Tái cơ cấu đầu tư công, Đầu tư công, Ngân sách nhà nước THE ISSUES FOR PUBLIC INVESTMENT STRUCTURE THE ISSUES FOR PUBLIC INVESTMENT RESTRUCTURING Abstract: In the overall content of economic restructuring, investment restructuring, in particular, public investment - is especially being selected as one of Vietnam’s "breakthrough" factors in the period of 2015-2020. The tasks set out for investment restructuring include four specific pillars: Firstly, rationally mobilizing resources for development investment to ensure a total social investment of about 30-35% of GDP and only maintaining large balances of the economy at rational levels; Secondly, maintaining the proportion of public investment of about 35-40% of total social investment; increasing annual savings from the state budget for investment; setting aside about 20- 25% of the total budget expenditure for development investment; Thirdly, fundamentally renovating the mechanism of allocation and management, use of capital, overcoming the situation of scattered, wasteful investment, improving the efficiency of public investment; Fourthly, expanding the scope and opportunities for private investment. This research is based on data from 2015 to 2018 to evaluate the efficiency and propose solutions to restructure public investment more effectively in the coming time. Keywords: Restructuring public investment, Public investment, State budget 1 Tác giả liên hệ, Email: tuan.bkttw@gmail.com Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, số 133 (12/2020) | 39 1. Đặt vấn đề Quá trình cơ cấu lại tổng thể nền kinh tế được khởi đầu bằng việc siết chặt kỷ luật đầu tư công (ĐTC) tại Chỉ thị số 1792/CT-TTg ngày 15/10/2011 của Thủ tướng Chính phủ. Hiện nay, trong bối cảnh phát triển kinh tế, tái cơ cấu đầu tư công tiếp tục được xác định là một trong 4 trọng tâm của Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 của Việt Nam (Nghị quyết số 24/2016/QH14 ngày 08/11/2016 của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 và Nghị quyết số 27/NQ-CP ngày 21/02/2017 về Chương trình hành động của Chính phủ). Trong thời gian qua, tái cơ cấu đầu tư công của Việt Nam đã đạt được những kết quả nhất định, đó là, quy mô chi tiêu đầu tư công được mở rộng liên tục để hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế; tái cơ cấu đầu tư công thực hiện theo đúng định hướng, tỷ trọng đầu tư công trong tổng đầu tư toàn xã hội và trên GDP đã giảm dần. Tuy nhiên cần phải xem xét sâu hơn các thông số đầu tư công để có thể đánh giá nhiều chiều và nêu ra được các mặt giải pháp. Tác giả lựa chọn 5 khía cạnh, thứ nhất là cơ cấu nguồn vốn nhà nước so với tổng vốn đầu tư phát triển, thứ hai là vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội theo khoản mục đầu tư, thứ ba là vốn đầu tư thực hiện của khu vực kinh tế nhà nước phân theo cấp quản lý, thứ tư là vốn thực hiện của khu vực kinh tế nhà nước phân theo nguồn vốn, và thứ năm là phân bổ vốn đầu tư khu vực kinh tế nhà nước theo ngành kinh tế. Từ 5 khía cạnh phân tích trên, nghiên cứu tìm được điểm tích cực và các vấn đề còn tồn tại của đầu tư công trong giai đoạn 2015-2018, từ đó đề xuất các giải pháp giúp cho các bộ, ban, ngành và các cá nhân, tổ chức liên quan có một cơ sở tham chiếu nhằm cải tiến chất lượng hoạt động đầu tư công trong các giai đoạn tới. 2. Các cách tiếp cận 2.1 Cách tiếp cận thứ nhất: Huy động nguồn lực và cơ cấu nguồn lực cho đầu tư phát triển Nhằm từng bước duy trì tỷ trọng đầu tư nhà nước hợp lý, Chính phủ chủ trương đầu tư khoảng 30-40% tổng đầu tư xã hội đồng thời mở rộng cơ hội thu hút đầu tư nhân trong nước và đầu tư nước ngoài (Chính ... gần 30%; thu nhập bình quân của người lao động tăng 35%. Cùng với quá trình cổ phần hóa, công tác thoái vốn nhà nước tại DN cũng đạt được nhiều kết quả tích cực. Về phân bổ nguồn lực tài chính ngoài nhà nước: Đầu tư của khu vực ngoài nhà nước và khu vực FDI chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế, ước tính lần lượt là 43,3% và 23,4% tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2018 chủ yếu đầu tư vào công nghiệp chế biến, chế tạo (84,4%), dịch vụ lưu trú và ăn uống (80%), hoạt động kinh doanh bất động sản (82%), và các lĩnh vực thúc đẩy sự tăng trưởng trong dài hạn như công nghệ, hay các lĩnh vực về con người như giáo dục, y tế còn rất hạn chế, chiếm tỷ trọng nhỏ (bình quân khoảng 1% cho mỗi lĩnh vực). Chính phủ xác định chuyển hướng phát triển khu vực kinh tế tư nhân, khu vực này đóng góp vào thu ngân sách cao gấp 1,8 lần so với DNNN, cao hơn 1,5 lần khu vực doanh nghiệp FDI. Với yêu cầu khu vực này không chỉ đóng góp 10% trong GDP mà phải từ 20-25%, phấn đấu trong 10 năm tới, có 6-10 doanh nghiệp tư nhân trong top 500 của thế giới. Có như vậy mới đưa khu vực doanh nghiệp tư nhân trở thành trụ cột, đưa nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững (Bộ Tài chính, 2019). Về phân bổ nguồn lực tài chính qua hệ thống tài chính: Huy động các nguồn lực tài chính thông qua hệ thống ngân hàng thương mại đã góp phần làm tăng năng lực cho vay ra nền kinh tế, thúc đẩy các hoạt động đầu tư, sản xuất và kinh doanh. Năm 2018, dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại đạt khoảng 9 triệu tỷ đồng (gấp 12 lần dư nợ cho vay năm 2006). Theo thống kê của Nhịp cầu đầu tư (2018), có khoảng 70% kiều hối rót vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh, khoảng gần 22% đầu tư vào bất động sản và chỉ khoảng 7% là hỗ trợ thân nhân, gia đình trang trải sinh hoạt, mua sắm, chữa bệnh, xây dựng nhà cửa. Trong giai đoạn 2015-2018, nguồn lực dành cho đầu tư của khu vực nhà nước mang tính ngắn hạn và còn bị động. Trong những năm gần đây, nguồn lực nhà nước dành cho đầu tư phát triển có xu hướng tăng nhưng tính bình quân thì giai đoạn 2015-2018, tỷ trọng chi đầu tư phát triển chỉ đạt khoảng 20%, có xu hướng giảm so với giai đoạn 2006-2010 (28%). Hiệu quả đầu tư vốn nhà nước chưa cao, còn lấn át đầu tư tư nhân. Tỷ trọng đầu tư công vào các ngành xã hội như giáo dục, y tế hay ngành nông, lâm, thuỷ sản còn khá thấp. 50 | Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, số 133 (12/2020) 3. Đánh giá hoạt động và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả tái cơ cấu đầu tư công tại Việt Nam 3.1 Kết quả đạt đượcs Phương diện tổng giá trị cho thấy tốc độ tăng trưởng đều và cơ cấu giảm, chứng minh rằng cam kết đầu tư cho phát triển tốt đồng thời thu hút được nguồn lực ngoài nhà nước đầu tư vào tổng đầu tư xã hội. Chính phủ điều chỉnh, bổ sung kế hoạch đầu tư trung hạn vốn ngân sách trung ương giai đoạn 2016-2020 và giao kế hoạch đầu tư nguồn ngân sách trung ương năm 2019 của bộ, ngành và địa phương. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang dự thảo Nghị quyết ban hành các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2021-2025. Chuyển dịch đầu tư và hỗ trợ địa phương phát triển cơ sở hạ tầng và các lĩnh vực có thế mạnh là định hướng rõ ràng, giảm tỷ trọng đầu tư trong ương, nâng cao chất lượng, số lượng và hiệu quả đầu tư ở cấp địa phương là chuyển dịch mang tính chiến lược trong tỷ trọng phân bổ nguồn vốn ngân sách, nhằm phát huy thế mạnh và lợi thế cạnh tranh của từng vùng. Nhà nước giảm giá trị và tỷ trọng của vốn vay, năm 2015 tổng vốn vay là 201.000 nghìn tỷ đồng chiếm 38,7% tồng giá trị, sang đến 2018 là 193.900 nghìn tỷ đồng chiếm chỉ 31,3% tổng giá trị. Trong đó tăng vốn ngân sách nhà nước từ 2015 là 44,9% tới năm 2019 là 52,5%. Điều này giúp giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước trong việc trả nợ vốn vay, giảm tải các áp lực khi sử dụng vốn vay trong phát triển nền kinh tế. Phân bổ nguồn lực tài chính nhà nước qua NSNN: Kết quả đánh giá của Bộ Tài chính cho thấy, cơ chế phân bổ vốn đầu tư từng bước được thực hiện theo kế hoạch trung hạn, cơ chế phân cấp quản lý đầu tư được hoàn thiện, góp phần tăng cường trách nhiệm các bên, bảo đảm chất lượng và tiến độ công trình, cải thiện kỷ cương nhà nước trong quản lý đầu tư công. Tình trạng dàn trải trong kế hoạch đầu tư của các bộ, địa phương đã từng bước được thu hẹp. Nguồn vốn đầu tư từ TPCP, vốn ODA đã được tập trung cho phát triển hệ thống các cơ sở hạ tầng thiết yếu, các công trình lớn, quan trọng, có trọng tâm trọng điểm, có tính kết nối, lan tỏa, tạo động lực như các chương trình mục tiêu quốc gia, các chương trình mục tiêu quan trọng thuộc các lĩnh vực giao thông, thủy lợi, y tế và giáo dục. Huy động các nguồn lực tài chính thông qua hệ thống ngân hàng thương mại đã góp phần làm tăng năng lực cho vay ra nền kinh tế, góp phần thúc đẩy các hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh. 3.2 Hạn chế và nguyên nhân Tái cấu trúc đầu tư công vẫn tồn tại những thách thức quan trọng cần phải giải quyết, bao gồm tình trạng dàn trải quá mức, hiệu suất còn hạn chế trong hoạt động và phân bổ, yếu kém trong giám sát. Bên cạnh đó, hệ thống văn bản Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, số 133 (12/2020) | 51 quy phạm pháp luật còn cồng kềnh và chồng chéo, kể cả trong các luật mới được ban hành và sửa đổi như Luật Đầu tư công, Luật Ngân sách Nhà nước và Luật Xây dựng. Thu NSNN vẫn chịu ảnh hưởng từ những yếu tố bên ngoài, các khoản thu từ tài nguyên, các khoản thu đặc thù và các khoản thu phát sinh do yếu tố khách quan dẫn đến một số năm không đạt dự toán. Chính sách thu còn chưa bao quát hết các khoản thu như thu từ hoạt động thương mại (ví dụ: bán hàng qua mạng), quản lý tài nguyên, môi trường, tài sản; Việc huy động nguồn lực từ đất đai, tài nguyên thiên nhiên, tài sản nhà nước hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng được nguồn lực phục vụ phát triển KTXH; vẫn còn tình trạng thất thu NSNN do gian lận, chuyển giá; nợ đọng thuế còn lớn làm ảnh hưởng tới tỷ lệ huy động thu NSNN bình quân giai đoạn 2015-2018. Trong giai đoạn 2015-2018, nguồn lực dành cho đầu tư của khu vực nhà nước mang tính ngắn hạn và còn bị động. Trong những năm gần đây nguồn lực nhà nước dành cho đầu tư phát triển có xu hướng tăng nhưng tính bình quân thì giai đoạn 2015-2018, tỷ trọng chi đầu tư phát triển chỉ đạt khoảng 20%, có xu hướng giảm so với giai đoạn 2006-2010 (28%). Hiệu quả đầu tư vốn nhà nước chưa cao, còn lấn át đầu tư tư nhân. Tỷ trọng đầu tư công vào các ngành xã hội như: Giáo dục, y tế hay ngành nông, lâm, thuỷ sản còn khá thấp. Nguyên nhân khách quan: Là do tác động ảnh hưởng từ biến động của tình hình chính trị, kinh tế thế giới kết hợp với bất cập về đầu tư công trong giai đoạn trước chưa thể xử lý dứt điểm. Nguyên nhân chủ quan: Thể chế pháp luật về đầu tư công chưa thực sự đồng bộ, thống nhất; chưa khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo giữa các quy định tại các văn bản pháp luật có liên quan đến đầu tư công; vẫn còn lúng túng trong việc triển khai Luật Đầu tư công và các văn bản hướng dẫn; cách hiểu và cách tiếp cận thực hiện của các bộ, ngành và địa phương còn khác nhau, dẫn đến mất nhiều thời gian trong hoàn thiện thủ tục các dự án đầu tư công. Bên cạnh đó, chất lượng dự báo còn hạn chế, thiếu tính liên kết, đồng bộ gây lãng phí và kém hiệu quả đầu tư đối với một số dự án hạ tầng. Công tác giải phóng mặt bằng gặp nhiều trở ngại, vướng mắc, mất nhiều thời gian, nên làm chậm tiến độ của hầu hết các dự án. Nhiều dự án phải điều chỉnh tăng tổng mức đầu tư do chi phí giải phóng mặt bằng tăng cao, gây khó khăn trong cân đối vốn và hoàn thành dự án theo đúng tiến độ. Hơn nữa, việc chấp hành các nguyên tắc, tiêu chí phân bổ vốn kế hoạch ở một số bộ, ngành, địa phương chưa nghiêm, dẫn đến việc phải bổ sung, sửa đổi phương án phân bổ vốn nhiều lần, ảnh hưởng đến tiến độ giao kế hoạch đầu tư phát triển. Công tác kiểm tra, kiểm soát, thanh tra chưa được quan tâm đúng mức. 52 | Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, số 133 (12/2020) 3.3 Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả tái cấu tr~c đầu tư công Thứ nhất, việc xây dựng các quy hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu Chính phủ phải bám sát mục tiêu và định hướng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và của các ngành, các địa phương. Thứ hai, huy động nguồn lực tài chính nhà nước: Tập trung hoàn thiện các chính sách thuế, phí, lệ phí; Phát triển thị trường TPCP; Nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng vốn ODA; Nâng cao hiệu quả huy động nguồn lực từ tài sản công, từ quá trình cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước tại DN nhằm nuôi dưỡng nguồn thu, hỗ trợ thúc đẩy phát triển DN, qua đó góp phần tạo nguồn thu cho NSNN để phát triển KTXH. Thứ ba, huy động nguồn lực tài chính ngoài nhà nước: Đẩy mạnh việc thực hiện chính sách “xã hội hóa” đầu tư trong một số lĩnh vực như y tế, giáo dục, văn hóa, thể thao; Hoàn thiện và điều chỉnh chính sách thu hút vốn FDI vào khu vực công nghiệp chế biến, lĩnh vực công nghệ cao, nông nghiệp, nông thôn và các lĩnh vực có khả năng tạo giá trị gia tăng cao cho nền kinh tế trên cơ sở đảm bảo sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên quốc gia và bảo vệ môi trường; Rà soát và tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế, chính sách tài chính để khuyến khích sự tham gia của các thành phần kinh tế trong đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, cung cấp dịch vụ công và trong đầu tư vào các lĩnh vực ưu tiên như đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Thứ tư, đảm bảo hiệu quả tái cơ cấu chi NSNN theo tinh thần các nghị quyết của Đảng, Quốc hội và đảm bảo các mục tiêu của Chiến lược tài chính, tái cơ cấu chi NSNN trong thời gian tới cần đẩy mạnh triển khai các giải pháp: Nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực NSNN; Thực hiện mạnh mẽ quá trình tái cơ cấu đơn vị sự nghiệp công gắn với đẩy mạnh xã hội hóa dịch vụ công; Tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu DNNN, đảm bảo phân bổ nguồn lực tài chính nhà nước đúng hướng, đúng mục tiêu. Thứ năm, phân bổ nguồn lực tài chính ngoài nhà nước: Để phân bổ nguồn lực tài chính ngoài nhà nước đạt hiệu quả cao, thì công tác hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường cần được ưu tiên hàng đầu nhằm tạo điều kiện thuận lợi, minh bạch cho phát triển kinh tế. Thứ sáu, đối với đầu tư xây dựng cơ bản, xác định rõ trách nhiệm của người quyết định đầu tư, theo đó dự án được quyết định đầu tư mà không xác định rõ nguồn vốn, mức vốn thuộc NSNN, vốn TPCP làm cho dự án phải thi công kéo dài, gây lãng phí thì người ký quyết định phải chịu trách nhiệm về những tổn thất do việc kéo dài gây ra. Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, số 133 (12/2020) | 53 Thứ bảy, hoàn thiện thể chế, tiếp tục rà soát lại Luật đầu tư công bổ sung tiêu chí những dự án thuộc đầu tư công. Đối với Luật Ngân sách cần làm rõ nguồn lực và xây dựng kế hoạch trung hạn về vốn đầu tư nhà nước; trong Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước vào doanh nghiệp cần làm rõ khái niệm “vốn nhà nước” để có thể đánh giá hiệu quả đầu tư trong quá trình giao vốn cho doanh nghiệp quản lý. Thứ tám, xây dựng các tiêu chí đánh giá hiệu quả đầu tư làm cơ sở đánh giá hàng năm hiệu quả đầu tư nhà nước trên mỗi địa phương, vùng lãnh thổ. Một số công trình trọng điểm quốc gia cần được xây dựng các tiêu chí đánh giá trước khi nghiên cứu tiền khả thi, khả thi để Quốc hội và các cơ quan dân cử có thể tham gia giám sát từ giai đoạn đầu như tiêu chí về hiệu quả xã hội (giải quyết những vấn đề xã hội); tiêu chí kinh tế (độ lan tỏa của dự án); tiêu chí tài chính. 4. Kết luận Tái cơ cấu đầu tư công là một trong bốn nội dung trụ cột của tái cơ cấu nền kinh tế. Việc thực hiện tái cơ cấu đầu tư công liên quan đến nhiều nội dung, chủ thể và cấp độ cơ quan nhà nước cũng như các tầng lớp trong xã hội. Với số liệu đánh giá đầu tư công tại Việt Nam trong giai đoạn 2015-2018, bài viết đã đưa ra 5 cách tiếp cận, các kết quả đã đạt được và 3 điểm còn hạn chế đi cùng 2 nhóm nguyên nhân chính, từ đó tác giả đề xuất 8 nhóm giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tái cơ cấu đầu tư công. Đây là các giải pháp giúp các bộ, ban, ngành và các đối tượng liên quan tham khảo để có cơ sở lên kế hoạch và phương án nâng cao chất lượng tái cơ cấu đầu tư công trong giai đoạn tới. Tài liệu tham khảo Bộ Tài chính. (2019), “Kỷ yếu Diễn đàn Tài chính 2019”, https://www.phapluatplus.vn/tai-chinh/dien-dan-tai-chinh-viet-nam-2019- d107184.html, truy cập ngày 05/07/2020. Chính phủ. (2017), “Nghị quyết số 27/NQ-CP ngày 21/2/2017”, https://thuvienphapluat.vn /van-ban/dau-tu/Nghi-quyet-27-NQ-CP-Chuong-trinh- hanh-dong-05-NQ-TW-doi-moi-co-cau-lai-nen-kinh-te-2017-340333.aspx, truy cập ngày 25/06/2020. Chính phủ. (2019), “Nghị quyết số 73/NQ-CP ngày 23/09/2019”, portal/chinhphu/hethongvanban?class_id=509&_page=1&mode=detail&document_i d=197899, truy cập ngày 24/06/2020. Kiểm toán Nhà Nước Việt Nam. (2016), “Báo cáo quyết toán NSNN năm 2016”, https://www.ninhthuan. gov.vn/chinhquyen/sotc/Pages/Bao-cao-thuyet-minh-quyet- toan-ngan-sach-nam-2016.aspx, truy cập ngày 05/06/2020. Kiểm toán Nhà Nước Việt Nam. (2018), “Báo cáo quyết toán NSNN năm 2018”, https://www.sav.gov. vn/Pages/chi-tiet-tin.aspx?ItemID=37698&l=TinTucSuKien, truy cập ngày 06/07/2020. 54 | Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, số 133 (12/2020) Nguyễn, T.H.B. (2019), “Huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính cho phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam”, Tạp chí Tài chính, noi-bat/huy-dong-va-su-dung-hieu-qua-cac-nguon-luc-tai-chinh-cho-phat-trien-kinh- te-xa-hoi-viet-nam-305958.html, truy cập ngày 06/07/2020. Nhịp cầu đầu tư. (2018), “Gần 19 tỉ USD kiều hối đổ vào đâu?”, https://nhipcaudautu.vn/kinh-doanh/gan-19-ti-usd-kieu-hoi-do-vao-dau-3327429/, truy cập ngày 01/09/2020. Quốc hội. (2014), “Luật Xây dựng số 50/2014/QH13 ngày 01/01/2015”, page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_id=1&_page=1&mode=detail&docume nt_id=175348, truy cập ngày 26/06/2020. Quốc hội. (2015), “Luật Ngân sách Nhà Nước số 83/2015/QH13 ngày 25/06/2015”, https://luatvietnam.vn /tai-chinh/luat-ngan-sach-nha-nuoc-2015-96260-d1.html, truy cập ngày 26/06/2020. Quốc hội. (2016), “Nghị quyết số 24/2016/QH14 ngày 08/11/2016”, https://thuvienphap luat.vn/van-ban/thuong-mai/Nghi-quyet-24-2016-QH14-ke-hoach-co-cau-lai-nen- kinh-te-giai-doan-2016-2020-332841.aspx, truy cập 26/06/2020. Quốc hội. (2019), “Luật Đầu tư Công số 39/2019/QH14 ngày 13/06/2019”, https://thuvienphapluat.vn/van-ban/dau-tu/Luat-Dau-tu-cong-2019-362113.aspx, truy cập ngày 09/07/2020. The World Bank. (2017), “Báo cáo Đánh giá chi tiêu công Việt Nam 2017”, worldbank.org/curated/en/302031508766193467/pdf/120605- VIETNAMESE-v1-44P-PUBLIC-VietnamPublicExpenditureReviewSummary ReportVN.pdf, truy cập ngày 01/09/2020. Tổng cục Thống kê. (2019), “Số liệu thống kê 2015-2018”, https://www.gso.gov.vn/px- web-2/?pxid=V040 1&theme=%C4%90%E1%BA%A7u%20t%C6%B0, truy cập 03/02/2020.
File đính kèm:
- nhung_van_de_dat_ra_doi_voi_tai_co_cau_dau_tu_cong.pdf