Những vấn đề đặt ra đối với tái cơ cấu đầu tư công

Tại Việt Nam, trong tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế, tái cơ cấu đầu tư, tái đầu

tư công đang được lựa chọn như là một trong các nhân tố “đột phá” trong giai đoạn

2015-2020. Nhiệm vụ đặt ra cho tái cơ cấu đầu tư bao gồm 4 trụ cột cụ thể: Thứ nhất,

huy động hợp lý các nguồn lực cho đầu tư phát triển, bảo đảm tổng đầu tư xã hội khoảng

30-35% GDP, duy trì ở mức hợp lý các cân đối lớn của nền kinh tế; Thứ hai, duy trì tỷ

trọng đầu tư nhà nước khoảng 35-40% tổng đầu tư xã hội; hàng năm tăng dần tiết kiệm

từ ngân sách nhà nước (NSNN) cho đầu tư và dành khoảng 20-25% tổng chi ngân sách

cho đầu tư phát triển; Thứ ba, đổi mới cơ bản cơ chế phân bổ và quản lý, sử dụng vốn,

khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, phân tán và lãng phí, nâng cao hiệu quả đầu tư nhà

nước; Thứ tư, mở rộng tối đa phạm vi và cơ hội cho đầu tư tư nhân. Nghiên cứu này dựa

vào số liệu từ năm 2015-2018 để đánh giá hiệu quả và đề xuất giải pháp cho hoạt động

tái cơ cấu đầu tư công của Việt Nam trong thời gian tới.

Từ khóa: Tái cơ cấu đầu tư công, Đầ

Những vấn đề đặt ra đối với tái cơ cấu đầu tư công trang 1

Trang 1

Những vấn đề đặt ra đối với tái cơ cấu đầu tư công trang 2

Trang 2

Những vấn đề đặt ra đối với tái cơ cấu đầu tư công trang 3

Trang 3

Những vấn đề đặt ra đối với tái cơ cấu đầu tư công trang 4

Trang 4

Những vấn đề đặt ra đối với tái cơ cấu đầu tư công trang 5

Trang 5

Những vấn đề đặt ra đối với tái cơ cấu đầu tư công trang 6

Trang 6

Những vấn đề đặt ra đối với tái cơ cấu đầu tư công trang 7

Trang 7

Những vấn đề đặt ra đối với tái cơ cấu đầu tư công trang 8

Trang 8

Những vấn đề đặt ra đối với tái cơ cấu đầu tư công trang 9

Trang 9

Những vấn đề đặt ra đối với tái cơ cấu đầu tư công trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 17 trang baonam 6020
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Những vấn đề đặt ra đối với tái cơ cấu đầu tư công", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Những vấn đề đặt ra đối với tái cơ cấu đầu tư công

Những vấn đề đặt ra đối với tái cơ cấu đầu tư công
38 | Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, số 133 (12/2020) 
Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế 
Trang chủ:  
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI TÁI CƠ CẤU ĐẦU TƯ CÔNG 
Đặng Anh Tuấn1 
Ban Kinh tế Trung Ương, Hà Nội, Việt Nam 
Ngày nhận: 03/02/2020; Ngày hoàn thành biên tập: 22/10/2020; Ngày duyệt đăng: 02/11/2020 
Tóm tắt: Tại Việt Nam, trong tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế, tái cơ cấu đầu tư, tái đầu 
tư công đang được lựa chọn như là một trong các nhân tố “đột phá” trong giai đoạn 
2015-2020. Nhiệm vụ đặt ra cho tái cơ cấu đầu tư bao gồm 4 trụ cột cụ thể: Thứ nhất, 
huy động hợp lý các nguồn lực cho đầu tư phát triển, bảo đảm tổng đầu tư xã hội khoảng 
30-35% GDP, duy trì ở mức hợp lý các cân đối lớn của nền kinh tế; Thứ hai, duy trì tỷ
trọng đầu tư nhà nước khoảng 35-40% tổng đầu tư xã hội; hàng năm tăng dần tiết kiệm 
từ ngân sách nhà nước (NSNN) cho đầu tư và dành khoảng 20-25% tổng chi ngân sách 
cho đầu tư phát triển; Thứ ba, đổi mới cơ bản cơ chế phân bổ và quản lý, sử dụng vốn, 
khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, phân tán và lãng phí, nâng cao hiệu quả đầu tư nhà 
nước; Thứ tư, mở rộng tối đa phạm vi và cơ hội cho đầu tư tư nhân. Nghiên cứu này dựa 
vào số liệu từ năm 2015-2018 để đánh giá hiệu quả và đề xuất giải pháp cho hoạt động 
tái cơ cấu đầu tư công của Việt Nam trong thời gian tới. 
Từ khóa: Tái cơ cấu đầu tư công, Đầu tư công, Ngân sách nhà nước 
THE ISSUES FOR PUBLIC INVESTMENT STRUCTURE 
THE ISSUES FOR PUBLIC INVESTMENT RESTRUCTURING 
Abstract: In the overall content of economic restructuring, investment restructuring, in 
particular, public investment - is especially being selected as one of Vietnam’s 
"breakthrough" factors in the period of 2015-2020. The tasks set out for investment 
restructuring include four specific pillars: Firstly, rationally mobilizing resources for 
development investment to ensure a total social investment of about 30-35% of GDP and 
only maintaining large balances of the economy at rational levels; Secondly, maintaining 
the proportion of public investment of about 35-40% of total social investment; 
increasing annual savings from the state budget for investment; setting aside about 20-
25% of the total budget expenditure for development investment; Thirdly, fundamentally 
renovating the mechanism of allocation and management, use of capital, overcoming the 
situation of scattered, wasteful investment, improving the efficiency of public 
investment; Fourthly, expanding the scope and opportunities for private investment. This 
research is based on data from 2015 to 2018 to evaluate the efficiency and propose 
solutions to restructure public investment more effectively in the coming time. 
Keywords: Restructuring public investment, Public investment, State budget 
1 Tác giả liên hệ, Email: tuan.bkttw@gmail.com 
Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, số 133 (12/2020) | 39 
1. Đặt vấn đề 
Quá trình cơ cấu lại tổng thể nền kinh tế được khởi đầu bằng việc siết chặt kỷ 
luật đầu tư công (ĐTC) tại Chỉ thị số 1792/CT-TTg ngày 15/10/2011 của Thủ tướng 
Chính phủ. Hiện nay, trong bối cảnh phát triển kinh tế, tái cơ cấu đầu tư công tiếp 
tục được xác định là một trong 4 trọng tâm của Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai 
đoạn 2016-2020 của Việt Nam (Nghị quyết số 24/2016/QH14 ngày 08/11/2016 của 
Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 và Nghị quyết số 
27/NQ-CP ngày 21/02/2017 về Chương trình hành động của Chính phủ). 
Trong thời gian qua, tái cơ cấu đầu tư công của Việt Nam đã đạt được những 
kết quả nhất định, đó là, quy mô chi tiêu đầu tư công được mở rộng liên tục để hỗ 
trợ cho tăng trưởng kinh tế; tái cơ cấu đầu tư công thực hiện theo đúng định 
hướng, tỷ trọng đầu tư công trong tổng đầu tư toàn xã hội và trên GDP đã giảm 
dần. Tuy nhiên cần phải xem xét sâu hơn các thông số đầu tư công để có thể đánh 
giá nhiều chiều và nêu ra được các mặt giải pháp. Tác giả lựa chọn 5 khía cạnh, 
thứ nhất là cơ cấu nguồn vốn nhà nước so với tổng vốn đầu tư phát triển, thứ hai 
là vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội theo khoản mục đầu tư, thứ ba là vốn đầu tư 
thực hiện của khu vực kinh tế nhà nước phân theo cấp quản lý, thứ tư là vốn thực 
hiện của khu vực kinh tế nhà nước phân theo nguồn vốn, và thứ năm là phân bổ 
vốn đầu tư khu vực kinh tế nhà nước theo ngành kinh tế. Từ 5 khía cạnh phân tích 
trên, nghiên cứu tìm được điểm tích cực và các vấn đề còn tồn tại của đầu tư công 
trong giai đoạn 2015-2018, từ đó đề xuất các giải pháp giúp cho các bộ, ban, 
ngành và các cá nhân, tổ chức liên quan có một cơ sở tham chiếu nhằm cải tiến 
chất lượng hoạt động đầu tư công trong các giai đoạn tới. 
2. Các cách tiếp cận 
2.1 Cách tiếp cận thứ nhất: Huy động nguồn lực và cơ cấu nguồn lực cho đầu 
tư phát triển 
Nhằm từng bước duy trì tỷ trọng đầu tư nhà nước hợp lý, Chính phủ chủ 
trương đầu tư khoảng 30-40% tổng đầu tư xã hội đồng thời mở rộng cơ hội thu 
hút đầu tư nhân trong nước và đầu tư nước ngoài (Chính  ... gần 30%; 
thu nhập bình quân của người lao động tăng 35%. Cùng với quá trình cổ phần hóa, 
công tác thoái vốn nhà nước tại DN cũng đạt được nhiều kết quả tích cực. Về 
phân bổ nguồn lực tài chính ngoài nhà nước: Đầu tư của khu vực ngoài nhà nước 
và khu vực FDI chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế, ước tính lần lượt là 43,3% 
và 23,4% tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2018 chủ yếu đầu tư vào công nghiệp 
chế biến, chế tạo (84,4%), dịch vụ lưu trú và ăn uống (80%), hoạt động kinh 
doanh bất động sản (82%), và các lĩnh vực thúc đẩy sự tăng trưởng trong dài hạn 
như công nghệ, hay các lĩnh vực về con người như giáo dục, y tế còn rất hạn chế, 
chiếm tỷ trọng nhỏ (bình quân khoảng 1% cho mỗi lĩnh vực). Chính phủ xác định 
chuyển hướng phát triển khu vực kinh tế tư nhân, khu vực này đóng góp vào thu 
ngân sách cao gấp 1,8 lần so với DNNN, cao hơn 1,5 lần khu vực doanh nghiệp 
FDI. Với yêu cầu khu vực này không chỉ đóng góp 10% trong GDP mà phải từ 
20-25%, phấn đấu trong 10 năm tới, có 6-10 doanh nghiệp tư nhân trong top 500 
của thế giới. Có như vậy mới đưa khu vực doanh nghiệp tư nhân trở thành trụ cột, 
đưa nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững (Bộ Tài chính, 2019). 
Về phân bổ nguồn lực tài chính qua hệ thống tài chính: Huy động các nguồn 
lực tài chính thông qua hệ thống ngân hàng thương mại đã góp phần làm tăng 
năng lực cho vay ra nền kinh tế, thúc đẩy các hoạt động đầu tư, sản xuất và kinh 
doanh. Năm 2018, dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại đạt khoảng 
9 triệu tỷ đồng (gấp 12 lần dư nợ cho vay năm 2006). Theo thống kê của Nhịp cầu 
đầu tư (2018), có khoảng 70% kiều hối rót vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh, 
khoảng gần 22% đầu tư vào bất động sản và chỉ khoảng 7% là hỗ trợ thân nhân, 
gia đình trang trải sinh hoạt, mua sắm, chữa bệnh, xây dựng nhà cửa. 
Trong giai đoạn 2015-2018, nguồn lực dành cho đầu tư của khu vực nhà 
nước mang tính ngắn hạn và còn bị động. Trong những năm gần đây, nguồn lực 
nhà nước dành cho đầu tư phát triển có xu hướng tăng nhưng tính bình quân thì 
giai đoạn 2015-2018, tỷ trọng chi đầu tư phát triển chỉ đạt khoảng 20%, có xu 
hướng giảm so với giai đoạn 2006-2010 (28%). Hiệu quả đầu tư vốn nhà nước 
chưa cao, còn lấn át đầu tư tư nhân. Tỷ trọng đầu tư công vào các ngành xã hội 
như giáo dục, y tế hay ngành nông, lâm, thuỷ sản còn khá thấp. 
50 | Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, số 133 (12/2020) 
3. Đánh giá hoạt động và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả tái cơ cấu đầu tư 
công tại Việt Nam 
3.1 Kết quả đạt đượcs 
Phương diện tổng giá trị cho thấy tốc độ tăng trưởng đều và cơ cấu giảm, chứng 
minh rằng cam kết đầu tư cho phát triển tốt đồng thời thu hút được nguồn lực ngoài 
nhà nước đầu tư vào tổng đầu tư xã hội. Chính phủ điều chỉnh, bổ sung kế hoạch đầu 
tư trung hạn vốn ngân sách trung ương giai đoạn 2016-2020 và giao kế hoạch đầu tư 
nguồn ngân sách trung ương năm 2019 của bộ, ngành và địa phương. 
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang dự thảo Nghị quyết ban hành các nguyên tắc, 
tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước giai 
đoạn 2021-2025. Chuyển dịch đầu tư và hỗ trợ địa phương phát triển cơ sở hạ 
tầng và các lĩnh vực có thế mạnh là định hướng rõ ràng, giảm tỷ trọng đầu tư 
trong ương, nâng cao chất lượng, số lượng và hiệu quả đầu tư ở cấp địa phương là 
chuyển dịch mang tính chiến lược trong tỷ trọng phân bổ nguồn vốn ngân sách, 
nhằm phát huy thế mạnh và lợi thế cạnh tranh của từng vùng. Nhà nước giảm giá trị 
và tỷ trọng của vốn vay, năm 2015 tổng vốn vay là 201.000 nghìn tỷ đồng chiếm 
38,7% tồng giá trị, sang đến 2018 là 193.900 nghìn tỷ đồng chiếm chỉ 31,3% tổng 
giá trị. Trong đó tăng vốn ngân sách nhà nước từ 2015 là 44,9% tới năm 2019 là 
52,5%. Điều này giúp giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước trong việc trả nợ 
vốn vay, giảm tải các áp lực khi sử dụng vốn vay trong phát triển nền kinh tế. 
Phân bổ nguồn lực tài chính nhà nước qua NSNN: Kết quả đánh giá của Bộ 
Tài chính cho thấy, cơ chế phân bổ vốn đầu tư từng bước được thực hiện theo kế 
hoạch trung hạn, cơ chế phân cấp quản lý đầu tư được hoàn thiện, góp phần tăng 
cường trách nhiệm các bên, bảo đảm chất lượng và tiến độ công trình, cải thiện kỷ 
cương nhà nước trong quản lý đầu tư công. Tình trạng dàn trải trong kế hoạch đầu 
tư của các bộ, địa phương đã từng bước được thu hẹp. Nguồn vốn đầu tư từ TPCP, 
vốn ODA đã được tập trung cho phát triển hệ thống các cơ sở hạ tầng thiết yếu, 
các công trình lớn, quan trọng, có trọng tâm trọng điểm, có tính kết nối, lan tỏa, 
tạo động lực như các chương trình mục tiêu quốc gia, các chương trình mục tiêu 
quan trọng thuộc các lĩnh vực giao thông, thủy lợi, y tế và giáo dục. 
Huy động các nguồn lực tài chính thông qua hệ thống ngân hàng thương mại 
đã góp phần làm tăng năng lực cho vay ra nền kinh tế, góp phần thúc đẩy các hoạt 
động đầu tư, sản xuất, kinh doanh. 
3.2 Hạn chế và nguyên nhân 
Tái cấu trúc đầu tư công vẫn tồn tại những thách thức quan trọng cần phải 
giải quyết, bao gồm tình trạng dàn trải quá mức, hiệu suất còn hạn chế trong 
hoạt động và phân bổ, yếu kém trong giám sát. Bên cạnh đó, hệ thống văn bản 
Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, số 133 (12/2020) | 51 
quy phạm pháp luật còn cồng kềnh và chồng chéo, kể cả trong các luật mới được 
ban hành và sửa đổi như Luật Đầu tư công, Luật Ngân sách Nhà nước và Luật 
Xây dựng. 
Thu NSNN vẫn chịu ảnh hưởng từ những yếu tố bên ngoài, các khoản thu từ 
tài nguyên, các khoản thu đặc thù và các khoản thu phát sinh do yếu tố khách 
quan dẫn đến một số năm không đạt dự toán. Chính sách thu còn chưa bao quát 
hết các khoản thu như thu từ hoạt động thương mại (ví dụ: bán hàng qua mạng), 
quản lý tài nguyên, môi trường, tài sản; Việc huy động nguồn lực từ đất đai, tài 
nguyên thiên nhiên, tài sản nhà nước hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng được 
nguồn lực phục vụ phát triển KTXH; vẫn còn tình trạng thất thu NSNN do gian 
lận, chuyển giá; nợ đọng thuế còn lớn làm ảnh hưởng tới tỷ lệ huy động thu 
NSNN bình quân giai đoạn 2015-2018. 
Trong giai đoạn 2015-2018, nguồn lực dành cho đầu tư của khu vực nhà 
nước mang tính ngắn hạn và còn bị động. Trong những năm gần đây nguồn lực 
nhà nước dành cho đầu tư phát triển có xu hướng tăng nhưng tính bình quân thì 
giai đoạn 2015-2018, tỷ trọng chi đầu tư phát triển chỉ đạt khoảng 20%, có xu 
hướng giảm so với giai đoạn 2006-2010 (28%). Hiệu quả đầu tư vốn nhà nước 
chưa cao, còn lấn át đầu tư tư nhân. Tỷ trọng đầu tư công vào các ngành xã hội 
như: Giáo dục, y tế hay ngành nông, lâm, thuỷ sản còn khá thấp. 
Nguyên nhân khách quan: Là do tác động ảnh hưởng từ biến động của tình 
hình chính trị, kinh tế thế giới kết hợp với bất cập về đầu tư công trong giai đoạn 
trước chưa thể xử lý dứt điểm. 
Nguyên nhân chủ quan: Thể chế pháp luật về đầu tư công chưa thực sự đồng 
bộ, thống nhất; chưa khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo giữa các quy định 
tại các văn bản pháp luật có liên quan đến đầu tư công; vẫn còn lúng túng trong 
việc triển khai Luật Đầu tư công và các văn bản hướng dẫn; cách hiểu và cách tiếp 
cận thực hiện của các bộ, ngành và địa phương còn khác nhau, dẫn đến mất nhiều 
thời gian trong hoàn thiện thủ tục các dự án đầu tư công. Bên cạnh đó, chất lượng 
dự báo còn hạn chế, thiếu tính liên kết, đồng bộ gây lãng phí và kém hiệu quả đầu 
tư đối với một số dự án hạ tầng. Công tác giải phóng mặt bằng gặp nhiều trở ngại, 
vướng mắc, mất nhiều thời gian, nên làm chậm tiến độ của hầu hết các dự án. 
Nhiều dự án phải điều chỉnh tăng tổng mức đầu tư do chi phí giải phóng mặt bằng 
tăng cao, gây khó khăn trong cân đối vốn và hoàn thành dự án theo đúng tiến độ. 
Hơn nữa, việc chấp hành các nguyên tắc, tiêu chí phân bổ vốn kế hoạch ở một số 
bộ, ngành, địa phương chưa nghiêm, dẫn đến việc phải bổ sung, sửa đổi phương 
án phân bổ vốn nhiều lần, ảnh hưởng đến tiến độ giao kế hoạch đầu tư phát triển. 
Công tác kiểm tra, kiểm soát, thanh tra chưa được quan tâm đúng mức. 
52 | Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, số 133 (12/2020) 
3.3 Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả tái cấu tr~c đầu tư công 
Thứ nhất, việc xây dựng các quy hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án đầu 
tư từ vốn ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu Chính phủ phải bám sát mục tiêu 
và định hướng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và của các ngành, 
các địa phương. 
Thứ hai, huy động nguồn lực tài chính nhà nước: Tập trung hoàn thiện các 
chính sách thuế, phí, lệ phí; Phát triển thị trường TPCP; Nâng cao hiệu quả thu hút 
và sử dụng vốn ODA; Nâng cao hiệu quả huy động nguồn lực từ tài sản công, từ 
quá trình cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước tại DN nhằm nuôi dưỡng nguồn thu, 
hỗ trợ thúc đẩy phát triển DN, qua đó góp phần tạo nguồn thu cho NSNN để phát 
triển KTXH. 
Thứ ba, huy động nguồn lực tài chính ngoài nhà nước: Đẩy mạnh việc thực 
hiện chính sách “xã hội hóa” đầu tư trong một số lĩnh vực như y tế, giáo dục, văn 
hóa, thể thao; Hoàn thiện và điều chỉnh chính sách thu hút vốn FDI vào khu vực 
công nghiệp chế biến, lĩnh vực công nghệ cao, nông nghiệp, nông thôn và các lĩnh 
vực có khả năng tạo giá trị gia tăng cao cho nền kinh tế trên cơ sở đảm bảo sử 
dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên quốc gia và bảo vệ môi trường; Rà soát và 
tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế, chính sách tài chính để khuyến khích sự tham 
gia của các thành phần kinh tế trong đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, cung cấp dịch 
vụ công và trong đầu tư vào các lĩnh vực ưu tiên như đầu tư vào nông nghiệp, 
nông thôn. 
Thứ tư, đảm bảo hiệu quả tái cơ cấu chi NSNN theo tinh thần các nghị quyết 
của Đảng, Quốc hội và đảm bảo các mục tiêu của Chiến lược tài chính, tái cơ cấu 
chi NSNN trong thời gian tới cần đẩy mạnh triển khai các giải pháp: Nâng cao 
hiệu quả phân bổ nguồn lực NSNN; Thực hiện mạnh mẽ quá trình tái cơ cấu đơn 
vị sự nghiệp công gắn với đẩy mạnh xã hội hóa dịch vụ công; Tiếp tục đẩy mạnh 
tái cơ cấu DNNN, đảm bảo phân bổ nguồn lực tài chính nhà nước đúng hướng, 
đúng mục tiêu. 
Thứ năm, phân bổ nguồn lực tài chính ngoài nhà nước: Để phân bổ nguồn lực 
tài chính ngoài nhà nước đạt hiệu quả cao, thì công tác hoàn thiện thể chế kinh tế 
thị trường cần được ưu tiên hàng đầu nhằm tạo điều kiện thuận lợi, minh bạch cho 
phát triển kinh tế. 
Thứ sáu, đối với đầu tư xây dựng cơ bản, xác định rõ trách nhiệm của người 
quyết định đầu tư, theo đó dự án được quyết định đầu tư mà không xác định rõ 
nguồn vốn, mức vốn thuộc NSNN, vốn TPCP làm cho dự án phải thi công kéo dài, 
gây lãng phí thì người ký quyết định phải chịu trách nhiệm về những tổn thất do 
việc kéo dài gây ra. 
Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, số 133 (12/2020) | 53 
Thứ bảy, hoàn thiện thể chế, tiếp tục rà soát lại Luật đầu tư công bổ sung tiêu 
chí những dự án thuộc đầu tư công. Đối với Luật Ngân sách cần làm rõ nguồn lực 
và xây dựng kế hoạch trung hạn về vốn đầu tư nhà nước; trong Luật Quản lý, sử 
dụng vốn nhà nước vào doanh nghiệp cần làm rõ khái niệm “vốn nhà nước” để có 
thể đánh giá hiệu quả đầu tư trong quá trình giao vốn cho doanh nghiệp quản lý. 
Thứ tám, xây dựng các tiêu chí đánh giá hiệu quả đầu tư làm cơ sở đánh giá 
hàng năm hiệu quả đầu tư nhà nước trên mỗi địa phương, vùng lãnh thổ. Một số 
công trình trọng điểm quốc gia cần được xây dựng các tiêu chí đánh giá trước khi 
nghiên cứu tiền khả thi, khả thi để Quốc hội và các cơ quan dân cử có thể tham 
gia giám sát từ giai đoạn đầu như tiêu chí về hiệu quả xã hội (giải quyết những 
vấn đề xã hội); tiêu chí kinh tế (độ lan tỏa của dự án); tiêu chí tài chính. 
4. Kết luận 
Tái cơ cấu đầu tư công là một trong bốn nội dung trụ cột của tái cơ cấu nền 
kinh tế. Việc thực hiện tái cơ cấu đầu tư công liên quan đến nhiều nội dung, chủ 
thể và cấp độ cơ quan nhà nước cũng như các tầng lớp trong xã hội. Với số liệu 
đánh giá đầu tư công tại Việt Nam trong giai đoạn 2015-2018, bài viết đã đưa ra 5 
cách tiếp cận, các kết quả đã đạt được và 3 điểm còn hạn chế đi cùng 2 nhóm 
nguyên nhân chính, từ đó tác giả đề xuất 8 nhóm giải pháp nhằm nâng cao chất 
lượng hoạt động tái cơ cấu đầu tư công. Đây là các giải pháp giúp các bộ, ban, 
ngành và các đối tượng liên quan tham khảo để có cơ sở lên kế hoạch và phương 
án nâng cao chất lượng tái cơ cấu đầu tư công trong giai đoạn tới. 
Tài liệu tham khảo 
Bộ Tài chính. (2019), “Kỷ yếu Diễn đàn Tài chính 2019”, 
 https://www.phapluatplus.vn/tai-chinh/dien-dan-tai-chinh-viet-nam-2019-
d107184.html, truy cập ngày 05/07/2020. 
Chính phủ. (2017), “Nghị quyết số 27/NQ-CP ngày 21/2/2017”, 
 https://thuvienphapluat.vn /van-ban/dau-tu/Nghi-quyet-27-NQ-CP-Chuong-trinh-
hanh-dong-05-NQ-TW-doi-moi-co-cau-lai-nen-kinh-te-2017-340333.aspx, truy cập 
ngày 25/06/2020. 
Chính phủ. (2019), “Nghị quyết số 73/NQ-CP ngày 23/09/2019”, 
portal/chinhphu/hethongvanban?class_id=509&_page=1&mode=detail&document_i
d=197899, truy cập ngày 24/06/2020. 
Kiểm toán Nhà Nước Việt Nam. (2016), “Báo cáo quyết toán NSNN năm 2016”, 
https://www.ninhthuan. gov.vn/chinhquyen/sotc/Pages/Bao-cao-thuyet-minh-quyet-
toan-ngan-sach-nam-2016.aspx, truy cập ngày 05/06/2020. 
Kiểm toán Nhà Nước Việt Nam. (2018), “Báo cáo quyết toán NSNN năm 2018”, 
https://www.sav.gov. vn/Pages/chi-tiet-tin.aspx?ItemID=37698&l=TinTucSuKien, 
truy cập ngày 06/07/2020. 
54 | Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, số 133 (12/2020) 
Nguyễn, T.H.B. (2019), “Huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính cho phát 
triển kinh tế - xã hội Việt Nam”, Tạp chí Tài chính, 
noi-bat/huy-dong-va-su-dung-hieu-qua-cac-nguon-luc-tai-chinh-cho-phat-trien-kinh-
te-xa-hoi-viet-nam-305958.html, truy cập ngày 06/07/2020. 
Nhịp cầu đầu tư. (2018), “Gần 19 tỉ USD kiều hối đổ vào đâu?”, 
 https://nhipcaudautu.vn/kinh-doanh/gan-19-ti-usd-kieu-hoi-do-vao-dau-3327429/, 
truy cập ngày 01/09/2020. 
Quốc hội. (2014), “Luật Xây dựng số 50/2014/QH13 ngày 01/01/2015”, 
page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_id=1&_page=1&mode=detail&docume
nt_id=175348, truy cập ngày 26/06/2020. 
Quốc hội. (2015), “Luật Ngân sách Nhà Nước số 83/2015/QH13 ngày 25/06/2015”, 
https://luatvietnam.vn /tai-chinh/luat-ngan-sach-nha-nuoc-2015-96260-d1.html, truy 
cập ngày 26/06/2020. 
Quốc hội. (2016), “Nghị quyết số 24/2016/QH14 ngày 08/11/2016”, https://thuvienphap 
luat.vn/van-ban/thuong-mai/Nghi-quyet-24-2016-QH14-ke-hoach-co-cau-lai-nen-
kinh-te-giai-doan-2016-2020-332841.aspx, truy cập 26/06/2020. 
Quốc hội. (2019), “Luật Đầu tư Công số 39/2019/QH14 ngày 13/06/2019”, 
https://thuvienphapluat.vn/van-ban/dau-tu/Luat-Dau-tu-cong-2019-362113.aspx, 
truy cập ngày 09/07/2020. 
The World Bank. (2017), “Báo cáo Đánh giá chi tiêu công Việt Nam 2017”, 
 worldbank.org/curated/en/302031508766193467/pdf/120605-
VIETNAMESE-v1-44P-PUBLIC-VietnamPublicExpenditureReviewSummary 
ReportVN.pdf, truy cập ngày 01/09/2020. 
Tổng cục Thống kê. (2019), “Số liệu thống kê 2015-2018”, https://www.gso.gov.vn/px-
web-2/?pxid=V040 1&theme=%C4%90%E1%BA%A7u%20t%C6%B0, truy cập 
03/02/2020. 

File đính kèm:

  • pdfnhung_van_de_dat_ra_doi_voi_tai_co_cau_dau_tu_cong.pdf