Nhìn lại một năm thực hiện quyết tâm xây dựng chính phủ kiến tạo, liêm chính, hành động
Ngay từ Chiến lược Phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020, cải cách thể
chế đã được xác định là một trong ba mũi đột phá chiến lược nhằm thực hiện thành
công nhiệm vụ tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng. Cải cách thể chế
bao hàm nhiều nội dung, nhưng trọng tâm vẫn là đổi mới hoạt động quản lý, điều hành
của bộ máy Nhà nước. Nhiệm kỳ Chính phủ mới đã xác định xây dựng Chính phủ kiến
tạo, phục vụ, liêm chính và hành động là cam kết hành động để tạo sự chuyển biến thực
sự về thể chế. Thực tế, năm 2016 đã đánh dấu những thành công bước đầu của Chính
phủ trong nỗ lực này, và đã nhận được nhiều dấu hiệu phản hồi tích cực từ dư luận
trong và ngoài nước.
Bài viết xác định nội hàm của Nhà nước kiến tạo; đánh giá những hành động cụ
thể của Chính phủ trong năm 2016 và những kết quả ban đầu của việc cải cách thể chế
theo hướng xây dựng Nhà nước kiến tạo ở Việt Nam; và xác định những nhiệm vụ cần
tiếp tục triển khai trong những năm tiếp theo để tiếp tục duy trì động lực của đổi mới.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhìn lại một năm thực hiện quyết tâm xây dựng chính phủ kiến tạo, liêm chính, hành động
193 NHÌN LẠI MỘT NĂM THỰC HIỆN QUYẾT TÂM XÂY DỰNG CHÍNH PHỦ KIẾN TẠO, LIÊM CHÍNH, HÀNH ĐỘNG PGS. TS. Vũ Cương Trường Đại học Kinh tế Quốc dân ThS.NCS. Nguyễn Tuấn Anh Thanh tra Chính phủ Tóm tắt Ngay từ Chiến lược Phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020, cải cách thể chế đã được xác định là một trong ba mũi đột phá chiến lược nhằm thực hiện thành công nhiệm vụ tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng. Cải cách thể chế bao hàm nhiều nội dung, nhưng trọng tâm vẫn là đổi mới hoạt động quản lý, điều hành của bộ máy Nhà nước. Nhiệm kỳ Chính phủ mới đã xác định xây dựng Chính phủ kiến tạo, phục vụ, liêm chính và hành động là cam kết hành động để tạo sự chuyển biến thực sự về thể chế. Thực tế, năm 2016 đã đánh dấu những thành công bước đầu của Chính phủ trong nỗ lực này, và đã nhận được nhiều dấu hiệu phản hồi tích cực từ dư luận trong và ngoài nước. Bài viết xác định nội hàm của Nhà nước kiến tạo; đánh giá những hành động cụ thể của Chính phủ trong năm 2016 và những kết quả ban đầu của việc cải cách thể chế theo hướng xây dựng Nhà nước kiến tạo ở Việt Nam; và xác định những nhiệm vụ cần tiếp tục triển khai trong những năm tiếp theo để tiếp tục duy trì động lực của đổi mới. Từ khóa: Nhà nước kiến tạo, phục vụ, liêm chính, hành động; thể chế 1. Nội hàm của Nhà nƣớc phục vụ, hiệu quả và kiến tạo Các nhà nghiên cứu đều cho rằng C. Johnson là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ Nhà nước kiến tạo phát triển vào năm 1982, khi ông nghiên cứu về sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản. Theo Johnson (1999), Nhà nước kiến tạo phát triển là một mô hình quản lý trong đó Nhà nước không đứng ngoài thị trường và cũng không làm thay thị trường, mà chỉ can thiệp chủ động vào thị trường để thúc đẩy phát triển và đạt các mục tiêu phát triển đã đề ra. Cách hiểu này khá tương đồng với quan điểm về vai trò của Nhà nước mà nhiều nghiên cứu khác về thể chế và quản trị công đã chỉ ra. Chẳng hạn, từ góc độ kinh tế học thể chế, D. cemoglu và J. Robinson (2012) cho rằng chỉ có thể chế dung hợp (inclusive institution) mới có thể mang lại sự thịnh vượng và phúc lợi cho đông 194 đảo quần chúng nhân dân. Trong đó, thể chế dung hợp có đặc điểm là thu hút sự tham gia của mọi chủ thể trong xã hội, thúc đẩy sự sáng tạo, củng cố niềm tin, và qua đó tạo dựng một môi trường đầu tư và kinh doanh lành mạnh để thúc đẩy tăng trưởng. D. North (1990) cũng kết luận: Thể chế dân chủ đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì một chính quyền tốt, hạn chế tham nhũng; những nước có thể chế chính trị dân chủ và quyền tự do dân sự sẽ có lợi cho phát triển kinh tế; và những thành quả kinh tế đạt được to lớn hơn là do có môi trường kinh tế tự do hơn. Trong thể chế dân chủ, Nhà nước phục vụ hiệu quả đóng vai trò trung tâm để kiến thiết và duy trì các thể chế chính thức, tức là chính sách, pháp luật, cơ chế và phương thức tương tác giữa các chủ thể trong xã hội. Từ góc độ quản trị công, cuối những năm 50 của thế kỷ trước đã chứng kiến một làn sóng chuyển đổi mô hình quản lý Nhà nước từ mô hình thư lại (bureaucracy) sang mô hình Quản lý công mới (New Public Management) với đặc trưng là áp dụng các nguyên tắc quản lý mang tính thị trường để tạo động lực cải thiện kết quả trong khu vực công. Trong Nhà nước điều hành bằng mệnh lệnh hành chính của mô hình thư lại, Nhà nước sẽ xác lập cho mình vị thế “bề trên”, coi các chủ thể khác là đối tượng bị quản lý. Hệ quả của tư duy đó là Nhà nước nhấn mạnh đến các công cụ kiểm tra, giám sát và trừng phạt. Trái lại, khi Nhà nước chuyển sang “phục vụ” trong mô hình quản lý công mới, Nhà nước sẽ có vị thế bình đẳng, với chức năng chính là đồng hành với các chủ thể khác trong quá trình sáng tạo và gia tăng giá trị cho xã hội. Báo cáo Phát triển Thế giới năm 1997 của Ngân hàng Thế giới (1997) cũng đã chỉ rõ, để có một Nhà nước hiệu quả cần thực hiện một chiến lược hai phần. Trước hết, cần “làm cho vai trò của Nhà nước tương xứng với năng lực của nó”, sau đó là “nâng cao năng lực của Nhà nước bằng cách củng cố lại các thể chế công”. Muốn vậy, Nhà nước cần nâng cao năng lực thể chế của mình, thông qua việc: (i) Tăng cường các quy định, biện pháp để kiểm soát hoạt động của Nhà nước (liêm chính); (ii) Duy trì áp lực cạnh tranh từ bên ngoài và bên trong Nhà nước (thúc đẩy môi trường kinh doanh); và (iii) Tạo điều kiện cho tiếng nói và sự tham gia của các chủ thể khác từ bên trong và bên ngoài Nhà nước (mở rộng dân chủ). Ở Việt Nam, tư tưởng xây dựng một Nhà nước có chức năng kiến tạo và thực hiện tốt chức năng này là quan điểm chỉ đạo nhất quán của Nhà nước trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Điều đó được thể hiện rõ ngay 195 trong Hiến pháp năm 2013 với việc đề cao quyền của nhân dân, cho đến nhiều phát biểu của người đứng đầu Chính phủ qua các thời kỳ. Tuy nhiên, đến nhiệm kỳ 2016-2021, Nhà nước kiến tạo đã trở thành quyết tâm đổi mới về thể chế, tổ chức và phương thức h ... cách hành chính với trọng tâm là đơn giản hóa và công khai thủ tục hành chính trong các lĩnh vực quản lý Nhà nước của các Bộ, ngành, địa phương đã được đặc biệt quan tâm. Thủ tướng Chính phủ và các Phó Thủ tướng Chính phủ đã có nhiều chỉ đạo, quán triệt nhằm đẩy mạnh cải cách hành chính, kiên quyết tháo gỡ những điểm nghẽn cản trở hoạt động sản xuất, kinh doanh; nâng cao sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan Nhà nước. Kết quả rà soát thủ tục hành chính của cơ quan hành chính Nhà nước các cấp đã đề nghị không quy định 252 thủ tục không cần thiết, sửa đổi 901 thủ tục không hợp lý; tổng số thủ tục hành chính được đơn giản hóa lên tới 4.527/4.723 thủ tục (đạt tỷ lệ 95,85%); các bộ, ngành đã chuẩn hóa 3.589/4.008 thủ tục (đạt 89,5%); số thủ tục được công bố kịp thời sau khi chuẩn hóa là 3.495/3.589 (đạt 87,3%); số thủ tục được công khai kịp thời trên Cơ sở dữ liệu quốc gia sau khi công bố là 3.176/3.589 (đạt 88,5%). 2.3. Về cải thiện môi trường kinh doanh: Tạo dựng môi trường hỗ trợ khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp Đây có thể coi là điểm nổi bật nhất trong kết quả điều hành theo định hướng xây dựng Chính phủ phục vụ trong năm qua, thể hiện ở các điểm sau: Thứ nhất, nguyên tắc và trách nhiệm của các cơ quan Quản lý Nhà nước trong việc tạo dựng khuôn khổ nhất quán để triển khai thực hiện các hành động cụ thể nhằm cải thiện môi trường kinh doanh đã được xác định rõ. Ngay từ cuối tháng 4, tức là ngay sau khi Chính phủ mới được thành lập, Chính phủ đã có Nghị quyết 09/2016/NQ-CP ngày 28/4/2016, đề ra những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 199 2016-2017, định hướng đến năm 2020. Chỉ một tháng sau, Nghị quyết số 35/NQ- CP ngày 16/5/2016 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020 đã được Chính phủ thông qua. Đây là lần đầu tiên, Chính phủ có riêng một nghị quyết về phát triển doanh nghiệp ở Việt Nam, với mục tiêu đến năm 2020, cả nước có trên 1 triệu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Đồng thời, đã đề ra 09 nguyên tắc và 17 giải pháp hỗ trợ, phát triển doanh nghiệp. Trong năm 2016, Chính phủ cũng đã ban hành 50 nghị định quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh với việc loại bỏ khoảng 3.500 điều kiện kinh doanh được ban hành chưa đúng thẩm quyền; trình Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Điều 6 và Phụ lục 4 về Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện của Luật Đầu tư nhằm xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh; ban hành Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/1/2017 nhằm điều chỉnh việc thi hành Luật Đất đai theo hướng tháo gỡ những vướng mắc trong thực hiện pháp luật về đất đai và tạo điều kiện để người dân, doanh nghiệp tiếp cận đất đai phục vụ sản xuất kinh doanh. Thứ hai, nhiều hành động quyết liệt nhằm cải thiện môi trường kinh doanh đã được xúc tiến như: tăng cường trực tiếp đối thoại, tiếp nhận kiến nghị, phản ánh của doanh nghiệp; yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương thực hiện chủ trương “3 đồng hành, 5 hỗ trợ”1 đối với doanh nghiệp mà không trái với điều ước quốc tế và phù hợp với nguồn lực của đất nước tại Lễ phát động phong trào “Doanh nghiệp Việt Nam hội nhập và phát triển”; yêu cầu chính quyền địa phương “đừng nói trước, quên sau” với doanh nghiệp tại Hội nghị xúc tiến đầu tư của Ninh Thuận; “khởi nghiệp là triết lý sống” khi nói chuyện tại Chương trình “Thanh niên khởi nghiệp”; “doanh nghiệp phải nói không với đưa hối lộ” khi phát động cuộc vận động “Xây dựng văn hóa doanh nghiệp Việt Nam”; yêu cầu “Chính quyền phải „3 cùng‟2 với doanh nghiệp” tại Hội nghị xúc tiến đầu tư tại Gia Lai; “Chấm điểm lãnh đạo địa phương qua phát triển doanh nghiệp” khi làm việc tại Nghệ n, Từ ngày 01/10/2016, website: doanhnghiep.chinhphu.vn đã bắt đầu hoạt động và từ ngày 05/10/2016 đã tiếp nhận phản ánh của doanh nghiệp báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Những thông điệp mạnh mẽ và hành động quyết liệt đó của Chính phủ đã nhận được sự phản hồi tích cực từ khu vực kinh tế tư nhân. Số lượng doanh 1 03 đồng hành là: Đồng hành cải cách hành chính, nâng cao năng lực cạnh tranh; Đồng hành trong hoàn thiện thể chế pháp luật,; Đồng hành xây dựng và thực hiện tốt cơ chế đối thoại, tham vấn ý kiến của doanh nhân ; 05 hỗ trợ là: Hỗ trợ khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo; Hỗ trợ nâng cao hiệu quả hoạt động; Hỗ trợ tạo môi trường kinh doanh thuận lợi; Hỗ trợ xây dựng thương hiệu sản phẩm gắn với doanh nghiệp; Hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực 2 03 cùng: Cùng lo, cùng làm, cùng chia sẻ thất bại và thành công 200 nghiệp thành lập mới tăng lên đạt kỷ lục, trong khi số lượng doanh nghiệp phải giải thể đã giảm đi. Số liệu ở Hình 1 cho thấy, cho thấy năm 2016 đã chứng kiến một con số “cao kỷ lục” và “chưa từng có” về số lượng doanh nghiệp đăng ký với hơn 110 nghìn doanh nghiệp, tăng 14% về số lượng doanh nghiệp và 48% về vốn đăng ký kinh doanh so với năm 2015. Bên cạnh đó, số lượng doanh nghiệp giải thể hoặc ngừng hoạt động đã giảm đi rõ rệt (với gần 61 nghìn doanh nghiệp). Theo phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tại Diễn đàn kinh tế mùa Thu năm 2016, cả Việt Nam hiện có 600 nghìn doanh nghiệp đang hoạt động và trên 3,5 triệu hộ kinh doanh cá thể. Có thể nói, năm 2016 là năm mà Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp đã dồn sức để vượt qua những điểm nghẽn đã tồn tại từ nhiều năm trước. Sự quyết liệt hành động của Chính phủ đã thắp lên ngọn lửa niềm tin từ cộng đồng doanh nghiệp. Dẫn lời của ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch VCCI (Thanh Ngọc, 2017), người dân đã bỏ phiếu cho Thủ tướng bằng sự phản hồi tích cực của mình trong sản xuất, kinh doanh. Hình 1: Số lƣợng doanh nghiệp đăng ký thành lập và ngừng hoạt động giai đoạn 2010 - 2016 Nguồn: Cục Quản lý đăng ký kinh doanh - Bộ KH&ĐT 2.4. Về phát huy dân chủ trong xã hội để đưa Nhà nước đến gần dân hơn Nguyên tắc công khai, minh bạch và đảm bảo sự tham gia được ghi nhận trong nhiều đạo luật quan trọng như Luật NSNN, Luật Đầu tư công, Luật Đấu thầu, Luật Tiếp công dân, Luật Phòng, chống tham nhũng, và tiếp tục được thực 201 hiện nghiêm túc trong năm 2016. Trong các chỉ thị, nghị quyết của Chính phủ, phát huy sự tham gia, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của người dân, doanh nghiệp được ghi nhận như là một giải pháp, nhiệm vụ của các cấp chính quyền nhằm xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển, đặc biệt là trong Nghị quyết 35, Chỉ thị 26/CT- TTg ngày 05/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan Hành chính Nhà nước các cấp,. Kể từ khi nhậm chức (04/2016) đến nay, Thủ tướng đã có trên 500 hoạt động cụ thể, trong đó phần lớn là dành ưu tiên cho việc tiếp xúc, lắng nghe, đối thoại, chỉ đạo, định hướng rất cụ thể để từ đó đưa ra giải pháp xử lý, khắc phục hoặc thực hiện, đặc biệt là tại các điểm nóng, thời điểm nóng. Nhờ đó, bước đầu đáp ứng nguyện vọng của người dân, doanh nghiệp. Ví dụ: việc họp bàn, thị sát nhằm tìm kiếm giải pháp cho tình trạng xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long; khắc phục sự cố ô nhiễm môi trường biển miền Trung; tình hình vệ sinh, an toàn thực phẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh và Thành phố Hà Nội; việc chỉ đạo, nắm tình hình để đưa ra biện pháp xử lý theo phản ánh về việc bổ nhiệm người thân của lãnh đạo địa phương vào các vị trí lãnh đạo, quản lý chủ chốt tại một số địa phương; chỉ đạo, xử lý vụ việc liên quan đến Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam công bố kết quả sai lệch về việc kiểm tra 150 mẫu nước mắm và nhiều vụ việc khác. 3. Tiếp tục cải cách: Nhiệm vụ đặt ra cho những năm tiếp theo Mặc dù đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ, cũng cần nhận thức rõ rằng, quá trình xây dựng Nhà nước kiến tạo mới chỉ là bước đầu. Nhiều vấn đề cần tiếp tục thực hiện trong những năm tiếp theo. Thứ nhất, tạo sự chuyển biến đồng bộ trong cả hệ thống chính trị là một nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu của những năm tới. Diễn biến năm 2016 cho thấy dường như sự chuyển biến trong hệ thống các cơ quan lập pháp và tư pháp dường như vẫn chưa theo kịp với sự đổi mới mạnh mẽ trong hệ thống hành pháp. Vai trò của Đoàn đại biểu Quốc hội ở các địa phương chưa rõ nét, đặc biệt trong việc tiếp xúc, giám sát các vụ việc nóng, địa bàn nóng và vào những thời điểm nóng. Việc thực hiện quyền sáng kiến lập pháp của các đại biểu Quốc hội còn hạn chế; kết quả hoạt động chất vấn và giám sát của Quốc hội chưa phản ánh thái độ rõ nét về hiệu quả làm việc của những chức vụ do Quốc hội bầu, phê chuẩn, chưa gắn với những chế tài cụ thể. Bên cạnh đó, hệ thống tư pháp còn chậm đổi mới, đặc biệt là việc triển khai các quy định mới của một số đạo luật quan trọng 202 mới được Quốc hội thông qua. Tinh thần cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính tư pháp chưa được triển khai đồng bộ với các yêu cầu, điều kiện tổ chức thực hiện cụ thể như nguồn lực con người và cơ sở vật chất, nhất là liên quan đến mô hình tố tụng điện tử sẽ được triển khai. Cơ chế và hình thức giám sát, xử lý kỷ luật đối với thẩm phán và các chức danh tư pháp khác có hành vi vi phạm quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp và pháp luật còn chưa rõ ràng, chưa cụ thể. Thứ hai, đổi mới mạnh mẽ phương thức điều hành phát triển kinh tế - xã hội truyền thống của Chính phủ, chuyển mạnh sang điều hành theo các chức năng của Chính phủ kiến tạo. Cách điều hành hiện nay về cơ bản vẫn dựa trên lối tư duy về cách giải quyết mang tính sự vụ. Khuôn khổ pháp lý truyền thống trong điều hành kinh tế - xã hội của chúng ta vẫn là các nghị quyết của Quốc hội, của Chính phủ, các Chỉ thị và quyết định của Thủ tướng Chính phủ hay các chỉ đạo, điều hành cụ thể của Chính phủ và các thành viên Chính phủ. Số lượng văn bản điều hành hàng năm rất nhiều, trong đó chủ yếu là các quyết định hành chính cá biệt. Trong giai đoạn đầu, việc ban hành những quyết định hành chính cá biệt để khắc phục sức ì của hệ thống là cần thiết, nhưng về lâu dài cần chuyển dần sang điều hành bằng cơ chế, chính sách áp dụng chung, phổ biến cho tất cả các đối tượng trong các trường hợp tương tự. Thứ ba, nhanh chóng hình thành một cơ quan hoạch định chiến lược phát triển với sự hội tụ của một đội ngũ chiến lược gia tinh hoa trong các lĩnh vực trọng yếu. Công việc hoạch định chiến lược hiện nay ở Việt Nam vẫn do các cơ quan hành chính và đội ngũ công chức hành chính đảm nhiệm. Do vậy, tính chuyên nghiệp và không chi phối bởi lợi ích (của các bộ ngành, vùng miền) rất hạn chế, nhất là trong lĩnh vực xác định mục tiêu ưu tiên và phân bổ nguồn lực. Nếu thiếu một bộ máy có tính độc lập tương đối với các cơ quan hành chính thì Nhà nước khó có thể đảm nhiệm được vai trò chèo lái của Nhà nước kiến tạo. Thứ tư, khắc phục tình trạng thể chế “phân mảnh”, nhất là trong khâu xây dựng và ban hành chính sách, pháp luật. Việc đề xuất, xây dựng các văn bản chính sách, pháp luật hiện nay vẫn “khép kín” trong hệ thống Nhà nước từ khâu soạn thảo, thu thập và giải trình việc tiếp thu ý kiến của các cơ quan Nhà nước và cộng đồng, đến đánh giá tác động của chính sách, Vì thế, việc đan xen, lồng ghép lợi ích của bộ ngành soạn thảo trong các văn bản này là không tránh khỏi, và sự phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong xây dựng thực thi, luật pháp rất hạn chế. Kết quả là hệ thống thể chế sẽ mất đi tính trung lập, khách quan cần có để tạo dựng một môi trường kiến tạo phát triển, và tình trạng “trên bảo dưới 203 không nghe” có nguy cơ triệt tiêu tất cả xung lực của làn sóng cải cách mà Chính phủ đã rất vất vả dấy lên. Thứ năm, nhanh chóng xây dựng một cơ chế minh bạch, hữu hiệu để tuyển dụng người tài vào các cơ quan Nhà nước. Một yếu tố bắt buộc của Nhà nước kiến tạo, đó là cơ chế tuyển dụng và đãi ngộ người tài. Hệ thống tuyển dụng thiếu minh bạch, thi tuyển dựa trên các tiêu chí bằng cấp chứ không phải thực tài, chế độ đãi ngộ thiếu hấp dẫn sẽ tiếp tục là một trở ngại lớn cho việc xây dựng năng lực thể chế Nhà nước vững mạnh ở nước ta. Tóm lại, trong một khoảng thời gian ngắn chưa thể kỳ vọng có một sự đổi mới toàn diện và ngay lập tức ở tất cả các khâu, các bộ phận trong hệ thống. Những kết quả đạt được trong năm 2016 rất đáng quý, nhưng đó mới chỉ là thành quả bước đầu. Quá trình xây dựng một Nhà nước kiến tạo còn nhiều chông gai, đòi hỏi bản lĩnh và quyết tâm chính trị của cả bộ máy, một đường hướng chiến lược mạch lạc, bài bản để từng bước tạo ra sự chuyển mình. Trong quá trình đó, liệu Chính phủ có thể vượt qua những cản trở do lợi ích nhóm, tham nhũng, tha hóa quyền lực hay không sẽ quyết định thành công của cải cách. Nhen ngọn lửa cải cách đã khó, giữ được nhiệt của cuộc cải cách đó còn khó hơn. Niềm tin của người dân và doanh nghiệp sẽ phụ thuộc vào những bước đi tiếp theo của Chính phủ trong nỗ lực xây dựng Nhà nước kiến tạo. Tài liệu tham khảo 1. Acemoglu, D. và Robinson, JA. (2012), Tại sao các quốc gia thất bại?, bản dịch của NXB Trẻ năm 2013. 2. Chính phủ (2016), Nghị định số 123/2016/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ. 3. Chính phủ (2016), Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020. 4. Chính phủ (2016). Nghị quyết 09/2016/NQ-CP về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2016-2017, định hướng đến năm 2020. 5. Chính phủ (2016a), Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 7/1/2016 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2016, Hà Nội. 204 6. Chính phủ (2016b), Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020, Hà Nội. 7. Ngân hàng Thế giới (1997), Nhà nước trong một thế giới chuyển đổi, Báo cáo phát triển thế giới. 8. Ngân hàng Thế giới (2016), Việt Nam 2035: Hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ. 9. Nguyễn Đình Cung (2017), Đổi mới điều hành phát triển kinh tế - xã hội hướng tới Nhà nước kiến tạo, Báo cáo đề dẫn hội thảo Đổi mới điều hành phát triển kinh tế xã hội. 10. Nguyễn Kế Tuấn (2016), Phát triển đất nước thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, Tạp chí Kinh tế và phát triển số 233, tháng 11/2016. 11. Nguyễn Tấn Dũng (2014), Thông điệp năm mới của Thủ tướng, đăng trên báo điện tử của Chính phủ. 12. North, D. (1990), Thể chế, thay đổi thể chế và thành quả kinh tế, Cambridge University Press. 13. Thanh Ngọc, Kỳ vọng Chính phủ kiến tạo, hành động, bài trả lời phỏng vấn báo Năng lượng của ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch VCCI, truy cập ngày 8/2/2017 tại 491609.html 14. Thủ tướng Chính phủ (2016), Chỉ thị số 12/CT-TTg ngày 28/4/2016 về tăng cường công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng. 15. Thủ tướng Chính phủ (2016), Chỉ thị số 26/CT-TTg về tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan hành chính Nhà nước các cấp.
File đính kèm:
- nhin_lai_mot_nam_thuc_hien_quyet_tam_xay_dung_chinh_phu_kien.pdf