Nhạc sĩ Cao Văn Lầu và bài Dạ cổ hoài lang

Cao Văn Lầu sinh ngày 22 tháng 12 năm 1892

tại xóm Cái Cui, làng Chí Mỹ, sau sát nhập với

làng Thuận Lễ trở thành xã Thuận Mỹ, huyện

Vàm Cỏ, tỉnh Long An.

Cuộc đời ông đã trải qua những biến đổi sau:

Vào một đêm tối trời vào năm 1896, có 20 gia

đình nông dân ở xóm Cái Cui, vì không chịu nổi

cảnh nghèo và cảnh hà khắc của các thế lực ở

địa phương nên đã xuống ghe xuồng, chèo

chống về phía Nam để tìm nơi sinh sống. Trong

số này có gia đình Cao Văn Giỏi (Chín Giỏi),

gồm hai vợ chồng ông và sáu đứa con, trong

số đó có chú bé Cao Văn Lầu.

Buổi đầu, ông Chín Giỏi xin tá túc với một

người bà con ở Gia Hội (Bạc Liêu). Sau 9 tháng

đi làm mướn cật lực mà không đủ ăn, gia đình

ông lại phải lui ghe dời sang Xà Phiên (nay

thuộc Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang) để khai hoang

làm ruộng. Hơn một năm sau, hơn 40 công đất

do biết bao khó nhọc mới có được, bị địa chủ

tìm cách chiếm lấy. Nhờ một người quen giới

thiệu, gia đình ông Chín Giỏi dọn về Họng

Chàng Bè (Giá Rai, Bạc Liêu) để tiếp tục khai

khẩn đất hoang, nhưng rồi số đất ở đây về sau

cũng về tay kẻ khác.

Lâm cảnh trắng tay, nhưng thời may có một

người tốt bụng là hương sư Chơn ở làng Vĩnh

Lợi tổng Thạnh Hòa cho cất một căn chòi lá ở

trên đất công điền gần chùa Vĩnh Phước An

(nay thuộc phường hai, thị xã Bạc Liêu). Ở đó,

vợ chồng ông và các con phải đi làm thuê, đi

câu để chạy ăn từng bữa.

Hòa thượng Minh Bảo (? - 1912), trụ trì chùa

Vĩnh Phước An thấy gia đình ông Chín Giỏi vất

vả quá mà không đủ ăn, nên bàn với ông cho

Cao Văn Lầu, lúc đó mới 8 tuổi, vào ở chùa để

bớt đi một phần gánh nặng. Kể từ đó Cao Văn

Lầu, ngày tụng kinh và làm việc cho chùa, đêm

được nhà sư dạy chữ nho.

Năm 1903, ông Chín Giỏi đến xin sư trụ trì cho

Cao Văn Lầu trở về nhà để học chữ quốc ngữ.

Nhưng học đến "lớp nhì năm thứ hai" (Cours

moyen 2e année) tức lớp 4 ngày nay, thì ông

phải thôi học vì nhà gặp thêm cảnh khó: anh đi

ở rể, chị lấy chồng, cha già yếu.

Vậy là, năm 15 tuổi (1907), Cao Văn Lầu phải

thay cha và anh chị đi làm những việc nặng

nhọc để nuôi gia đình.

Nhạc sĩ Cao Văn Lầu và bài Dạ cổ hoài lang trang 1

Trang 1

Nhạc sĩ Cao Văn Lầu và bài Dạ cổ hoài lang trang 2

Trang 2

Nhạc sĩ Cao Văn Lầu và bài Dạ cổ hoài lang trang 3

Trang 3

Nhạc sĩ Cao Văn Lầu và bài Dạ cổ hoài lang trang 4

Trang 4

Nhạc sĩ Cao Văn Lầu và bài Dạ cổ hoài lang trang 5

Trang 5

Nhạc sĩ Cao Văn Lầu và bài Dạ cổ hoài lang trang 6

Trang 6

pdf 6 trang baonam 10320
Bạn đang xem tài liệu "Nhạc sĩ Cao Văn Lầu và bài Dạ cổ hoài lang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhạc sĩ Cao Văn Lầu và bài Dạ cổ hoài lang

Nhạc sĩ Cao Văn Lầu và bài Dạ cổ hoài lang
 Hòa thượng Minh Bảo (? - 1912), trụ trì chùa 
 Vĩnh Phước An thấy gia đình ông Chín Giỏi vất 
 vả quá mà không đủ ăn, nên bàn với ông cho 
 Nhạc sĩ Cao Văn Lầu Cao Văn Lầu, lúc đó mới 8 tuổi, vào ở chùa để 
 và bài Dạ cổ hoài lang bớt đi một phần gánh nặng. Kể từ đó Cao Văn 
 Lầu, ngày tụng kinh và làm việc cho chùa, đêm 
 Bùi Thụy Đào Nguyên được nhà sư dạy chữ nho. 
 Năm 1903, ông Chín Giỏi đến xin sư trụ trì cho 
 Cao Văn Lầu trở về nhà để học chữ quốc ngữ. 
 Cao Văn Lầu (Sáu Lầu) là nhạc sĩ và là tác giả Nhưng học đến "lớp nhì năm thứ hai" (Cours 
 bài Dạ cổ hoài lang, một bài ca độc đáo và nổi moyen 2e année) tức lớp 4 ngày nay, thì ông 
tiếng nhất trong nghệ thuật ca Cải lương Việt phải thôi học vì nhà gặp thêm cảnh khó: anh đi 
Nam. ở rể, chị lấy chồng, cha già yếu... 
 Vậy là, năm 15 tuổi (1907), Cao Văn Lầu phải 
 Phần I - Nhạc sĩ Cao Văn Lầu thay cha và anh chị đi làm những việc nặng 
 Cao Văn Lầu sinh ngày 22 tháng 12 năm 1892 nhọc để nuôi gia đình. 
tại xóm Cái Cui, làng Chí Mỹ, sau sát nhập với Lúc bấy giờ tại xóm Rạch Ông Bổn có một thầy 
làng Thuận Lễ trở thành xã Thuận Mỹ, huyện đàn nổi tiếng tên Lê Tài Khí, tục gọi Hai Khị hay 
Vàm Cỏ, tỉnh Long An. Nhạc Khị. Ông thầy này bị mù cả hai mắt thêm 
Cuộc đời ông đã trải qua những biến đổi sau: có tật ở chân (1) nhưng ngón đàn của ông thật 
 điêu luyện. 
Vào một đêm tối trời vào năm 1896, có 20 gia 
đình nông dân ở xóm Cái Cui, vì không chịu nổi Năm 1908, Cao Văn Lầu nhờ cha dẫn đến thầy 
cảnh nghèo và cảnh hà khắc của các thế lực ở Hai Khị để xin học đàn mỗi đêm. 
địa phương nên đã xuống ghe xuồng, chèo Nhờ yêu thích và siêng năng, ông mau chóng 
chống về phía Nam để tìm nơi sinh sống. Trong sử dụng thành thạo các loại nhạc cụ như đàn 
số này có gia đình Cao Văn Giỏi (Chín Giỏi), tranh, cò, kìm, trống lễ; và trở thành một nhạc 
gồm hai vợ chồng ông và sáu đứa con, trong sĩ nồng cốt trong ban cổ nhạc của thầy. 
số đó có chú bé Cao Văn Lầu. 
 Năm 1912, ông bắt đầu đi hát với Sáu Thìn và 
Buổi đầu, ông Chín Giỏi xin tá túc với một cô Phấn với bài Tứ đại oán "Bùi Kiệm thi rớt". 
người bà con ở Gia Hội (Bạc Liêu). Sau 9 tháng 
đi làm mướn cật lực mà không đủ ăn, gia đình Năm 21 tuổi (1913), Cao Văn Lầu vâng lệnh 
ông lại phải lui ghe dời sang Xà Phiên (nay cha mẹ đi cưới vợ, đó là cô Trần Thị Tấn, một 
thuộc Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang) để khai hoang cô gái nết na ở điền Tư Ô (Chung Bá Khánh). 
làm ruộng. Hơn một năm sau, hơn 40 công đất Khoảng thời gian này, ông sáng tác được một 
do biết bao khó nhọc mới có được, bị địa chủ bản ngắn mang tên ''Bá điểu'' sau đổi lại ''Thu 
tìm cách chiếm lấy. Nhờ một người quen giới phong'' gồm tám câu nhịp bốn. Bản này sau đó 
thiệu, gia đình ông Chín Giỏi dọn về Họng được soạn giả Trịnh Thiên Tư đặt lời ca Mừng 
Chàng Bè (Giá Rai, Bạc Liêu) để tiếp tục khai khi gặp bạn và đã ghi lại trong sách ''Ca nhạc 
khẩn đất hoang, nhưng rồi số đất ở đây về sau cổ điển''. 
cũng về tay kẻ khác. 
 Năm 1917, ông sáng tác thêm một khúc gồm 
Lâm cảnh trắng tay, nhưng thời may có một 22 câu, theo một chủ đề của thầy Nhạc Khị đề 
người tốt bụng là hương sư Chơn ở làng Vĩnh xướng là "Chinh phụ vọng chinh phu" (chủ đề 
Lợi tổng Thạnh Hòa cho cất một căn chòi lá ở được rút ra từ bản Nam ai "Tô Huệ chức cẩm 
trên đất công điền gần chùa Vĩnh Phước An hồi văn") nhưng chưa kịp sửa chữa và trình 
 (nay thuộc phường hai, thị xã Bạc Liêu). Ở đó, thầy thì gặp nghịch cảnh đau lòng. Vợ ông đã 
vợ chồng ông và các con phải đi làm thuê, đi ba năm mà vẫn chưa có dấu hiệu thai nghén, 
câu để chạy ăn từng bữa. 
 1 
 theo tục xưa, cha mẹ buộc ông phải trả vợ về Từ 1918 đến năm 1974, ngoài bản ''Dạ cổ hoài 
nhà cha mẹ ruột. lang'', mà sau này phát triển thành bản "vọng 
 cổ", làm thay đổi một phần bộ mặt Cải lương; 
Khoảng một năm trôi qua, kể từ ngày vợ ra đi, 
 ông Cao Văn Lầu còn sáng tác thêm 10 bản 
Sáu Lầu vẫn như kẻ mất hồn. Sau, vì quá nhớ 
 nữa, nhưng đa phần chỉ lưu hành ở Bạc Liêu. 
thương, vợ chồng ông thi thoảng vẫn lén lút 
gặp nhau. Nhờ vậy, cả hai cũng vơi đi phần Ông mất lúc 13 giờ ngày 13 tháng 8 năm 1976 
nào nỗi buồn tủi (ít lâu sau vợ ông thụ thai, hai tại Thành phố Hồ Chí Minh, thọ 84 tuổi. 
người mới được phép xum họp). Trong tâm 
trạng đó, bản nhạc 22 câu viết dở dang từ năm Chú thích: 
trước, được đem ra soạn lại. Được một bạn (1) Chép theo Trần Đức Thuận. Vương Hồng 
đồng môn tên Ba Chột, ông bỏ bớt 2 câu trùng Sển nói ông có tật ở tay. Và ông cũng cho biết: 
lắp, bài nhạc còn chẵn 20 câu nhịp đôi. ''Nếu phải kể công đầu, đáng làm hậu tổ cải 
 Tết Trung thu năm 1918 (15 tháng 8 âm lịch lương, đó là ông Hai Khị ở Bạc Liêu. Nghe đâu 
 năm Mậu Ngọ, nhằm ngày 19 tháng 9 năm ông sống lối năm 1915 ... Ông đau cổ xạ, ngón 
1918. Ghi theo ''Bàn về thời điểm ra đời và tay co rút và ngo ngoe rất khó. Thế mà ông có 
nguồn gốc của bản Dạ cổ hoài lang'' và ''Từ tài riêng, không ai bắt chước được. Ai muốn 
điển nhân vật lịch sử'', sẽ nói thêm ở phần Dạ thử tài cứ đến nhà, ba ... ng làm cách nào mà được 
phụ công dạy dỗ...'' 
 vậy, quả là diệu thuật.''(sách ghi ở mục tài liệu, 
Đêm đó có nhà sư Nguyệt Chiếu cùng tham tr. 46) 
dự, thầy Nhạc Khị liền nhờ nhà sư đặt tên cho 
 (2) Tô Huệ tự '''Nhược Lan''', người đất Thần 
bản nhạc. Nhà sư nói: 
 Châu đời nhà Tấn (265-419). Nàng dung nhan 
'-...Bản nhạc và lời ca của cháu Lầu tuy cũng kiều mị, tài đức song toàn, văn chương xuất 
còn vài điểm bất nhất, nhưng cái chung vẫn chúng. Khi Tô được 20 tuổi cha mẹ đính gả cho 
diễn tả được tâm tư của nàng Tô Huệ (2). Vậy hàn sĩ Đậu Thao, người cùng quê. 
cứ theo tích này mà đặt tên chung cho cả bản 
 Sau Đậu Thao đỗ đạt làm quan, may mắn được 
nhạc và lời ca của cháu là '''Dạ cổ hoài lang''' 
 nhậm chức tại Thần Châu, không phải đi xa. 
(Nghe tiếng trống đêm nhớ chồng).'' 
 Đang yên ấm, nhưng rồi vì công vụ cần thiết, 
Lập tức, bài ca được nhanh chóng loan truyền 
 nhà vua truyền Đậu Thao ra trấn nhậm đất Lưu 
bởi giai điệu bài ca toát ra không chỉ là tình cảm 
 Sa. 
nhớ mong chồng mà còn là nỗi buồn lớn của 
thời đại, tâm tư của người dân Nam Bộ khi Ba năm xa cách với nỗi thương nhớ triền miên, 
phong trào Cần vương thất bại. nàng lấy gấm vuông độ chừng một thước, dùng 
 chỉ ngũ sắc thêu 10 bài tứ tuyệt do mình làm. 
Năm 1919, làm nhạc công trong gánh hát cải 
lương của Ba Xú (Bạc Liêu). Nàng thêu theo hình trôn ốc, từ ngoài xoáy tròn 
 vào trung tâm bức gấm. 
Cách mạng tháng Tám thành công, ông tham 
gia ''Mặt trận Liên Việt'' ở ấp Vĩnh Phước, xã Xong nàng tự tay dâng lên nhà vua, nhưng cả 
Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu. triều đình không ai đọc được. 
Năm 1947, ông nhận nhiệm vụ đặc biệt là cứu Được vua cho phép, nàng Tô Huệ đứng giữa 
và đã cứu được một số cán bộ bị thực dân triều cất tiếng ngâm với một giọng bi thiết bài 
Pháp bắt. ''Chức cẩm hồi văn''. 
 2 
 Nhà vua quá cảm động, vội hạ chiếu cho gọi đàn nắn nót đôi câu bớt cơn phiền muộn. Ông 
 Đậu Thao về ngay. thừa hiểu người bạn đời cũng đau xót như ông. 
 Bản ''Dạ cổ hoài lang'' ra đời trong bối cảnh 
 Tài liệu tham khảo: như thế. 
 -Vương Hồng Sển, ''Hồi ký năm mươi năm mê Trong thời gian tác phẩm chưa hoàn chỉnh, 
 hát'', Nxb Trẻ, 2007. nhạc sĩ Sáu Lầu cùng anh em tài tử địa 
 -Trần Đức Thuận,'' Cuộc đời Cao Văn Lầu và phương đàn tới đàn lui bản này...và được anh 
nguyên nhân ra đời bản Dạ cổ hoài lang'', in em đề nghị thêm hai chữ "dạ cổ" (tiếng trống về 
trong ''Nam Bộ - Đất & Người tập 2'', Nxb Trẻ, đêm) cho ý nghĩa thêm sâu đậm, vì thế bản 
2004, tr.269-265. nhạc có tên hoàn chỉnh là "Dạ cổ hoài lang", 
 tức "Đêm nghe tiếng trống nhớ chồng"... 
-Trần Phước Thuận, ''Bàn về thời điểm ra đời 
và nguồn gốc của Bản Dạ cổ hoài lang'' in trong Tác giả Trung Tín trong một bài viết (2) cho biết 
 ''Nam Bộ - Đất & Người tập 2'', Nxb Trẻ, 2004, thêm hai lời kể nữa: 
tr.266-271. Lời kể của nhạc sĩ Hai Ngưu (năm 1978, ông 
-Nguyễn Q. Thắng & Nguyễn Bá Thế, ''Từ điển Sáu Lầu có lên Sài Gòn, trú tại nhà ông Hai 
nhân vật lịch sử'', Nxb KHXH, 1992, tr. 74-75. Ngưu): 
 "Trong một đêm ông Sáu Lầu trực gác tại Nhà 
 Phần II - Dạ cổ hoài lang đèn Bạc Liêu vào năm 1920, do đau khổ trong 
 hoàn cảnh nợ duyên ngang trái, ông xúc cảm 
 Giải thích tên gọi: "Hoài'' là nhớ, ''lang'' là người viết thành bản nhạc lòng Dạ cổ hoài lang (Đêm 
 trai (ở đây là người chồng), ''hoài lang'' là nhớ khuya nghe tiếng trống nhớ chồng). Sau khi 
 chàng, ''dạ'' là đêm, ''cổ'' là trống, ''dạ cổ'' là bản Dạ cổ hoài lang ra đời... ít lâu sau (nhờ vợ 
 ''nghe tiếng trống về đêm'' (? cổ, nghĩa là trống ông có thai) hai vợ chồng ông được tái hợp, để 
 hoặc đánh trống). Đây là một bản nhạc cổ do rồi sau đó hai ông bà đã có với nhau 6 người 
nhạc sĩ Cao Văn Lầu (1892-1976) sáng tác, nói con ..." 
về tâm sự người vợ nhớ chồng lúc về đêm. 
 Và lời kể của nhà giáo Trịnh Thiên Tư với ông 
Từ bản ''Dạ cổ hoài lang'' mỗ i câu 2 nhịp, các Chín Tâm (nguyên giảng viên trường Quốc gia 
nghệ sĩ sau này chuyển lên 4 nhịp rồi 8 nhịp, âm nhạc và kịch nghệ Sài Gòn): 
 mà thành bài vọng cổ đầu tiên... 
 "Năm ông Sáu Lầu 28 tuổi (1820), ông được 
2. 1. Nguyên nhân ra đời lệnh mẹ phải thôi vợ vì lý do "tam niên vô tự bất 
Theo một bài viết trên báo Thanh Niên (1), thành thê". Ông Sáu Lầu đau khổ nhưng không 
không đề tên tác giả, thì: dám cãi lời mẹ dạy. Chiều chiều ông ôm cây 
 đàn kìm ra sau vườn làm bạn tâm tình� 
Ông Cao Văn Lầu (1892-1976) đã thổ lộ với 
bạn thân: Bài này lúc đầu có 22 câu và ông đặt tên là 
"Tôi đặt bài này bởi tôi rất thương vợ. Năm viết Hoài lang. Danh ca Bảy Kiên nhận thấy có vài 
bản ''Dạ cổ hoài lang'', tôi đã ăn ở với vợ tôi câu trùng ý, đề nghị rút lại còn 20 câu. Đồng 
được 3 năm mà không có con...Tiếng ra, tiếng thời ông Kiên còn thêm vào hai chữ "dạ cổ", 
vào của gia đình buộc tôi phải thôi vợ, nhưng thành ra "Dạ cổ hoài lang". Về lời ca, nhạc sĩ 
tôi không đành. Tôi âm thầm chống lại nghiêm Sáu Lầu phóng tác theo bài thơ "Chinh phụ 
lệnh của gia đình, không đem vợ trả về cho cha thán" của nhạc sư Nguyệt Chiếu - trụ trì chùa 
mẹ mà đem gởi đến một gia đình có tấm lòng Phật Hòa Bình ở Bạc Liêu. Bài thơ mang âm 
nhân hậu..." hưởng tích "Tô Huệ Chức Cẩm Hồi Văn" đời 
 nhà Tần bên Tàu.'' 
Tác giả bài báo kể tiếp: 
 Nhưng theo lời kể của ông Trần Tấn Hưng 
Trong thời gian dài, phu thê phải cam chịu cảnh (Năm Nhỏ) và những người đồng môn với ông 
"đêm đông gối chiếc cô phòng", nên nhạc sĩ 
Cao Văn Lầu (Sáu Lầu) đêm đêm mượn tiếng 
 3 
 Cao Văn Lầu, thì Sáu Lầu đã soạn được phần 2.2 Thời điểm ra đời 
nhạc trước khi xa vợ. 
 Thời điểm ''Dạ cổ hoài lang'' ra đời, ngoài 
Ông Hưng kể: những chi tiết khá khác nhau trong lời kể ở 
 phần trên, còn có nhiều ý kiến chưa tương 
Ông Cao Văn Lầu cùng các bạn học đồng thời 
 đồng nữa, kể cả ông Cao Kiến Thiết và Cao 
đã được thầy là nhạc sư Lê Tài Khí (Nhạc Khị) 
 Văn Bỉnh, là hai người con của cố nhạc sĩ Cao 
hướng dẫn sáng tác theo một chủ đề là "Chinh 
 Văn Lầu cũng chưa xác định được thời điểm, vì 
phụ vọng chinh phu", được rút ra từ bản Nam ai 
 có lúc hai ông nói năm 1919 là năm ra đời bản 
Tô Huệ chức cẩm hồi văn. Lúc đó có nhiều 
 Dạ cổ, có lúc hai ông lại nói năm 1919 là năm 
người sáng tác, riêng ông Cao Văn Lầu trong 
 đổi tên Dạ cổ thành Vọng cổ. (3) 
năm Đinh Tỵ (1917) đã sáng tác một bản nhạc 
22 câu, nhưng gặp phải hoàn cảnh vợ chồng ly Và theo các nhà nghiên cứu khác, thì: 
tán�Vì quá đau buồn nên ông không thể tiếp -Ông Thành Châu (báo Văn học nghệ thuật, 
tục đặt lời ca, mãi đến năm sau vợ chồng hàn tháng 8 năm 1977), nhà thơ kiêm soạn giả cải 
gắn (theo ông Trần Đức Thuận: vì quá nhớ lương Kiên Giang (Báo Long An, ngày 18 tháng 
thương, vợ chồng ông thi thoảng vẫn lén lút gặp 7 năm 1986), đồng cho rằng bài Dạ cổ hoài 
nhau, chứ hai người chưa chính thức xum họp. lang ra đời 1917. 
Xem lại phần Cao Văn Lầu) lại ông mới có đủ -Nhạc sĩ Trọng Nguyễn (Kỷ yếu Từ Dạ cổ hoài 
tinh thần chỉnh lý bản nhạc. Ông đã theo lời 
 lang, tr.40) Nghệ sĩ nhân dân Ba Vân tức Lê 
khuyên của bạn đồng môn là Ba Chột (tác giả 
 Long Vân (Kể chuyện cải lương, 1988, tr. 67), 
 bản Liêu Giang, tác phẩm được sáng tác cùng nhà nghiên cứu Đắc Nhẫn (Tìm hiểu âm nhạc 
thời và cùng một chủ đề vừa nêu trên) bỏ bớt 2 cải lương, Nxb TP. HCM, 1987, tr. 41), hai nhà 
câu trùng lắp còn lại 20 câu và tiếp tục đặt lời sử học Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế 
ca..." (Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nxb KHXH, 
Và cũng theo ông Hưng, cái tên Dạ cổ hoài 1992) không cho biết năm khởi thảo, nhưng 
lang là của một nhà sư đặt cho bản nhạc: đều nói bài Dạ cổ hoài lang ra đời năm 1818. 
"Bản nhạc và lời ca đã sáng tác xong nhưng -Nhạc sĩ Trương Bỉnh Tòng (Kỷ yếu Từ Dạ cổ 
chưa có tên. Lại vừa đến rằm Trung thu (Mậu hoài lang, Nxb Mũi Cà Mau, 1992, tr. 50), Lâm 
 Ngọ 1918) ông Lầu cùng các bạn đến thăm Tường Vân (Đặc san Quí Dậu 1993, Hội Ái hữu 
thầy luôn tiện đem bản nhạc ra trình. Ông Lầu Bạc Liêu Nam Cali, tr. 28), Nguyễn Tư Quang 
đã dùng chiếc đàn tranh vừa độc tấu một lần và (Tạp chí Bách Khoa số 63'', Sài Gòn, 1959) thì 
vừa đàn vừa ca thêm một lần nữa. Lúc đó, năm sinh của bài Dạ cổ hoài lang là năm 1919. 
ngoài các thầy trò còn có mặt nhà sư Nguyệt *Nhà nghiên cứu Toan Ánh nói "vào khoảng 
Chiếu (một người rất tinh thâm Hán học và năm 1920" (Tìm hiểu nghệ thuật cầm ca, Nxb 
nhạc cổ truyền), chính thầy Nhạc Khị đã nhờ 
 Đồng Tháp, 1998, tr. 207-208) 
nhà sư đặt tên cho bản nhạc vừa tấu và nhà sư 
đã đặt tên là Dạ cổ hoài lang. Vậy, bản Dạ cổ -Ông Anh Đệ (Nghệ thuật sân khấu, Viện sân 
hoài lang 20 câu nhịp đôi đã chính thức ra đời khấu, 1987, tr. 59) cho rằng năm sinh của bài 
kể từ đêm đó.'' Dạ cổ hoài lang là 1915. 
Trần Đức Thuận ở Hội Khoa học lịch sử Bạc Tuy nhiên, ý kiến cho rằng bài ''Dạ cổ hoài 
Liêu, trong một bài viết (sách ghi bên dưới) đã lang'' ra đời ngày 15 tháng 8 (âm lịch) năm Mậu 
kết luận: Ngọ (nhằm ngày 19 tháng 9 năm 1918) được 
 đa số nghệ sĩ Bạc Liêu (4) và nhiều người đồng 
"Bản Dạ cổ hoài lang về nguyên nhân sáng tác thuận hơn. 
tuy có dính líu một phần nào với hoàn cảnh 
chia ly của vợ chồng Cao Văn Lầu, nhưng 2.3 Nghi vấn 
nguyên nhân chính vẫn là nhờ sự hướng dẫn Ông Nguyễn Tư Quang, tác giả bài báo ''Thử 
sáng tác của thầy Nhạc Khị với một tiêu đề định tìm xuất xứ bài Vọng cổ'' cho biết: 
sẵn�" 
 4 
 ''...Thoát thai của bản nhạc vốn là bài thơ có nhà sư Nguyệt Chiếu để sáng tác ra bản Dạ cổ 
dạng như là một bài phú 20 câu lấy nhan đề là hoài lang năm 1919" là hoàn toàn không có căn 
''Dạ cổ hoài lang''. Bài này do một nhà sư có cứ." 
pháp danh Nguyệt Chiếu, không rõ họ tên thật, 
 2. 4 Lời bài ca 
tu trong một ngôi chùa ở làng Hòa Bình, tỉnh 
Bạc Liêu. Bài Dạ cổ ra đời năm 1919...''(tạp chí Từ là từ phu tướng, 
Bách Khoa số 63, 1959, tr. 65) Bảo kiếm sắc phong lên đàng. 
 Vào ra luống trông tin chàng. 
Ý kiến này được nhà nghiên cứu Toan Ánh 
 Năm canh mơ màng. 
đồng thuận, ông viết: 
 Em luống trông tin chàng, 
"Ở chùa Hòa Bình tỉnh Bạc Liêu, có một nhà sư Ôi gan vàng quặn đau. 
pháp danh là Nguyệt Chiếu. Thấy nhà sư nho Đường dù xa ong bướm, 
học uyên thâm với tư tưởng ẩn dật, người ta Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang. 
đoán chừng là một văn nhân chống Pháp trong Đêm luống trông tin chàng, 
thời Cần Vương, nay thất thời nên tạm lánh Ngày mỏi mòn như đá Vọng phu. 
mình vào cửa Phật...Tuy đã đi tu nhưng vẫn Vọng phu vọng luống trông tin chàng. 
mang nặng tình non nước�nên nhà sư mới Sao nỡ phũ phàng... 
 Chàng là chàng có hay? 
đem tâm sự mình ký gủi vào bài từ, đề là Dạ cổ 
 Đêm thiếp nằm luống những sầu tây. 
hoài lang. Và bài thơ này được ông Sáu Lầu 
 Bao thuở đó đây sum vầy, 
phổ ra nhạc...'' (Toan Ánh, Tìm hiểu nghệ thuật 
 Duyên sắc cầm lạt phai. 
cầm ca, NXB Đồng Tháp, 1998, tr. 207-208.) 
 Là nguyện cho chàng 
Năm 1989, tại cuộc hội thảo ở Bạc Liêu, nhạc Hai chữ an bình an. 
sĩ Trương Bỉnh Tòng cũng đã phát biểu: Mau trở lại gia đàng, 
 Cho én nhạn hiệp đôi. 
"Vào những năm 1950-1952, nhóm sưu tầm 
nghiên cứu dân ca và cổ nhạc Nam Bộ gồm Ông Trần Đức Thuận nhận xét: 
nhạc sĩ Quách Vũ, Ngọc Cung và ông. Rất tiếc 
 "Bản Dạ cổ hoài lang không dừng lại ở nguyên 
là lúc ấy ông Cao Văn Lầu đang bệnh không ra 
 dạng như các bản nhạc cổ khác mà dần dần 
được vùng giải phóng. Nhưng cũng may là 
 biến đổi hình thức, phát triển thành bản Vọng 
nhóm tài tử ở Long Điền có người biết rành cho 
 cổ làm thay đổi một phần lớn bộ mặt Cải lương. 
hay ông Sáu đã dựa vào bài thơ của nhà sư 
 Đây cũng là điều tối ưu của nó, có lẽ là do tiếng 
Nguyệt Chiếu mà phổ nhạc. Nhạc của nó là sự 
 nhạc du dương và lời ca bình dị rất hợp với 
 kết hợp giữa hai bài Hành Vân và Xuân nữ.(Từ 
 người Nam Bộ; hình ảnh người chinh phụ ở 
 Dạ cổ hoài lang, Nxb Mũi Cà Mau, 1992, tr.52-
 đây đã hòa nhập thực sự vào cuộc đời thường, 
53.) 
 phản ảnh đúng tâm trạng yếu đuối của người 
Nhưng qua tìm hiểu của ông Trần Phước phụ nữ khi xa chồng, nhất là trong những hoàn 
Thuận ở Hội khoa học lịch sử Bạc Liêu (sách cảnh bắt buộc phải chia duyên rẽ thúy. Có lẽ 
ghi bên dưới), thì: chính cái "tính thường" này đã làm rung cảm 
 người nghe..." 
"Ở Bạc Liêu chỉ có một nhà sư pháp danh là 
Đạt Bảo tự Nguyệt Chiếu (1882-1947), trước ở 2.5 Thông tin thêm 
chùa Vĩnh Phước An sau dời về chùa Vĩnh 
 - Bài này được đưa lên sân khấu lần đầu bởi 
Đức, hiện mồ mả của nhà sư nằm ở sau chùa 
 gánh hát Năm Tú ở Mỹ Tho, rồi sau đó được 
Vĩnh Đức. Không có chùa nào mang tên Hòa 
 sử dụng rộng rãi, nhất là trong tuồng cải lương. 
Bình như các tài liệu trên đã ghi. Ông vốn là 
 Và cũng vì thế, bản ''Dạ cổ hoài lang'' được 
tiền bối về nhạc lễ cổ truyền nhưng ông chưa 
 chuyển dần thành nhiều nhịp. Năm 1924, tăng 
bao giờ làm thơ. Các đệ tử của ông hiện còn 
 lên nhịp bốn. Từ khoảng 1934 đến 1944, tăng 
sống đều xác nhận như vậy và chẳng ai nghe 
 lên nhịp tám. Từ khoảng 1944 đến 1954, ''Vọng 
thầy nói gì về bài thơ trên. Như vậy, cái thuyết 
 cổ'' tăng lên nhịp 16. Từ 1955 đến 1964, tăng 
cho rằng "ông sáu Lầu đã dựa vào bài thơ của 
 lên nhịp 32 rồi nhịp 64 từ năm 1965 đến nay. 
 5 
 -Nhạc sĩ Cao Văn Lầu là cha đẻ ''Dạ cổ hoài (4) Ở Bạc Liêu từ nhiều năm nay, đang lưu 
lang'' khởi điểm từ nhịp hai. Bản ''Vọng cổ'' từ hành trong giới đàn ca tài tử một bài Văn Thiên 
nhịp bốn trở đi, trên những chặng đường phát Trường (đủ ba lớp) nhan đề là "Cuộc đời Cao 
triển, thuộc công trình chung của tài tử bốn Văn Lầu", trong đó câu 7 và câu 8 như sau: 
phương. Và ông tổ cải lương không phải là Cao ''Bản Dạ cổ hoài lang thương nhớ mơ màng, 
Văn Lầu, vì bản ''Dạ cổ hoài lang'' chào đời gan vàng khắc sâu. Chẳng bao lâu trong tim 
năm 1918, trong khi sân khấu cải lương ra đời người nhụy nở hoa khai, bực sắc tài nào dễ 
khoảng năm 1916. mấy ai, năm một ngàn chín trăm mười tám 
 chính thức ra đời...'' 
Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu 
Long Xuyên, tháng 10 năm 2008. Tài liệu tham khảo: 
 Ngoài những trang web và tài liệu đã dẫn trong 
Chú thích: 
 bài, người soạn còn tham khảo thêm: 
(1) Bài Cao Văn Lầu có phải ông tổ ngành Cải 
 -Trần Phước Thuận, ''Bàn về thời điểm ra đời 
lương? (báo Thanh Niên) tại địa chỉ: 
 và nguồn gốc của bản Dạ cổ hoài lang'', in 
 trong Nam Bộ - Đất và Người tập 2, Nxb trẻ, 
phai-ong-to-nganh-cai-luong/10869813/107/ 
 2004, tr 266-271. 
(2) Bài Bản Dạ cổ hoài lang (nhịp 2) đã ra đời 
 -Trần Đức Thuận, ''Cuộc đời Cao Văn Lầu và 
như thế nào ? của Trung Tín tại địa chỉ: 
 nguyên nhân ra đời bản Dạ cổ hoài lang'', in 
 trong ''Nam Bộ - Đất và Người'', tập 2, NXB Trẻ, 
etail-lichsu.tpl/ 2004, tr.259-265. 
(3) Năm 1919 là năm đổi tên Dạ cổ thành Vọng 
 Nguồn: Chim Việt Cành Nam 
cổ. YÙ kiến này được nhà thơ kiêm soạn giả 
cải lương Kiên Giang đồng thuận (Báo Long 
An'', ngày 18 tháng 7 năm 1986). Tuy nhiên, 
 theo bài viết trên báo Thanh Niên (dẫn bên 
 trên), thì: ''Trên những chặng đường phát triển, 
khi Vọng cổ hoài lang được nâng lên nhịp 8 (từ 
khoảng năm 1934 đến 1944) thì nó có tên mới 
là Vọng cổ, không còn đuôi hoài lang''. 
 6 

File đính kèm:

  • pdfnhac_si_cao_van_lau_va_bai_da_co_hoai_lang.pdf