Nghiên cứu về những ảnh hưởng của đặc điểm điệu tính Tiếng Việt đến việc phát âm tiếng Pháp

Bài báo trình bày tóm tắt những ý kiến chính của các nhà ngôn ngữ học về tầm quan trọng của đặc điểm điệu tính trong việc học một ngôn ngữ. Sau đó, bài báo trình bày nghiên cứu về những ảnh hưởng của đặc điểm điệu tính tiếng Việt đến việc học tiếng Pháp. Kết quả của nghiên cứu cho thấy đặc điểm điệu tính tiếng Việt gây nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến việc học tiếng Pháp. Cùng với nghiên cứu, bài báo còn nêu lên một số phương pháp học và sửa lỗi phát âm nhằm giúp sinh viên học tiếng Pháp tốt hơn.

Nghiên cứu về những ảnh hưởng của đặc điểm điệu tính Tiếng Việt đến việc phát âm tiếng Pháp trang 1

Trang 1

Nghiên cứu về những ảnh hưởng của đặc điểm điệu tính Tiếng Việt đến việc phát âm tiếng Pháp trang 2

Trang 2

Nghiên cứu về những ảnh hưởng của đặc điểm điệu tính Tiếng Việt đến việc phát âm tiếng Pháp trang 3

Trang 3

Nghiên cứu về những ảnh hưởng của đặc điểm điệu tính Tiếng Việt đến việc phát âm tiếng Pháp trang 4

Trang 4

Nghiên cứu về những ảnh hưởng của đặc điểm điệu tính Tiếng Việt đến việc phát âm tiếng Pháp trang 5

Trang 5

Nghiên cứu về những ảnh hưởng của đặc điểm điệu tính Tiếng Việt đến việc phát âm tiếng Pháp trang 6

Trang 6

Nghiên cứu về những ảnh hưởng của đặc điểm điệu tính Tiếng Việt đến việc phát âm tiếng Pháp trang 7

Trang 7

Nghiên cứu về những ảnh hưởng của đặc điểm điệu tính Tiếng Việt đến việc phát âm tiếng Pháp trang 8

Trang 8

Nghiên cứu về những ảnh hưởng của đặc điểm điệu tính Tiếng Việt đến việc phát âm tiếng Pháp trang 9

Trang 9

pdf 9 trang Trúc Khang 11/01/2024 4721
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu về những ảnh hưởng của đặc điểm điệu tính Tiếng Việt đến việc phát âm tiếng Pháp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu về những ảnh hưởng của đặc điểm điệu tính Tiếng Việt đến việc phát âm tiếng Pháp

Nghiên cứu về những ảnh hưởng của đặc điểm điệu tính Tiếng Việt đến việc phát âm tiếng Pháp
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM Huỳnh Thị Thu Toàn 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
NGHIÊN CỨU VỀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG 
CỦA ĐẶC ĐIỂM ĐIỆU TÍNH TIẾNG VIỆT 
ĐẾN VIỆC PHÁT ÂM TIẾNG PHÁP 
HUỲNH THỊ THU TOÀN* 
TÓM TẮT 
Bài báo trình bày tóm tắt những ý kiến chính của các nhà ngôn ngữ học về tầm quan 
trọng của đặc điểm điệu tính trong việc học một ngôn ngữ. Sau đó, bài báo trình bày 
nghiên cứu về những ảnh hưởng của đặc điểm điệu tính tiếng Việt đến việc học tiếng Pháp. 
Kết quả của nghiên cứu cho thấy đặc điểm điệu tính tiếng Việt gây nhiều ảnh hưởng tiêu 
cực đến việc học tiếng Pháp. Cùng với nghiên cứu, bài báo còn nêu lên một số phương 
pháp học và sửa lỗi phát âm nhằm giúp sinh viên học tiếng Pháp tốt hơn. 
Từ khóa: đặc điểm điệu tính, ngữ điệu, thanh điệu, ảnh hưởng, trọng âm, nhịp điệu, 
phát âm. 
ABSTRACT 
Investigating the influence of characteristics of Vietnamese intonation 
in learning French 
Firstly, the paper is about a brief of some linguists’ viewpoints on the importance of 
intonation characteristics in language learning. Then it is about the reports of a survey on 
the influence of Vietnamese intonation characteristics in learning French. The findings 
indicate that Vietnamese intonation characteristics bring considerable negative effects on 
learning French. In addition, the author makes some suggestions to help students 
pronounce French better. 
Keywords: intonation characteristics, intonation, tones, influence, accent, rhythm, 
pronunciation. 
1. Mở đầu 
Trong quá trình tiếp thu một ngoại 
ngữ, người học không chỉ học phát âm 
đúng mà còn học nói đúng ngữ điệu, 
nhấn đúng trọng âm và ngắt đúng nhịp 
trong câu, bởi vì nói sai ngữ điệu có thể 
dẫn đến sự hiểu lầm, gây trở ngại đến quá 
trình giao tiếp. Về vấn đề này, M. 
Freland-Ricard đã khẳng định “Đặc điểm 
điệu tính đóng vai trò quyết định đối với 
việc hiểu một phát ngôn, một phát ngôn 
không thể không tính đến các đặc điểm 
* ThS, Trường Đại học Quy Nhơn 
điệu tính bởi vì chúng là nền tảng của 
ngôn ngữ lời nói” [6, tr. 97]. Tiếng Việt 
và tiếng Pháp thuộc hai hệ thống ngôn 
ngữ khác nhau, do đó có hệ thống âm 
thanh và đặc điểm điệu tính khác nhau. 
Tiếng Pháp là ngôn ngữ thuộc loại hình 
ngôn ngữ đa lập âm tiết, trọng âm thường 
rơi vào âm tiết cuối của từ. Dựa vào trọng 
âm người ta có thể biết được đâu là chỗ 
bắt đầu hay kết thúc của một từ. Trong 
khi đó, tiếng Việt là ngôn ngữ thuộc loại 
hình ngôn ngữ đơn lập âm tiết. Trong 
tiếng Việt cùng với âm chính, thanh điệu 
là thành phần cốt lõi của âm tiết. Mỗi âm 
 43
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM Số 29 năm 2011 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
tiết bao giờ cũng gắn liền với một thanh 
điệu. Thanh điệu tiếng Việt là một “âm 
vị” siêu đoạn tính có chức năng khu biệt 
nghĩa. Vì vậy, trong tiếng Việt trọng âm 
thường xuất hiện với tư cách là hiện 
tượng ngôn điệu. Do có sự khác nhau này 
trong quá trình tiếp thu tiếng Pháp, người 
học bị ảnh hưởng cách phát âm tiếng Việt 
lên tiếng Pháp. 
Thực tế giảng dạy tiếng Pháp cho 
sinh viên (SV) Việt Nam cho thấy sinh 
viên gặp nhiều lỗi phát âm điệu tính tiếng 
Pháp. Đặc biệt là vì phần đông sinh viên 
không nắm kỹ sự khác nhau giữa tiếng 
Pháp và tiếng Việt nên trong quá trình 
học, tiếng mẹ đẻ ảnh hưởng tiêu cực đến 
việc học tiếng Pháp. Để tìm hiểu cụ thể 
sự ảnh hưởng của tiếng Việt đến việc 
phát âm tiếng Pháp và để tìm ra giải pháp 
cho vấn đề này người viết đã tiến hành 
điều tra, phân tích và thảo luận những lỗi 
phát âm tiếng Pháp do ảnh hưởng của 
tiếng Việt. 
2. Khung lí thuyết 
2.1. Trọng âm 
Liên quan đến trọng âm trong tiếng 
Pháp có nhiều quan niệm khác nhau, tuy 
không đối nghịch nhau nhưng cách lí 
giải, miêu tả, tổng hợp, phân tích không 
hoàn toàn giống nhau. Theo P. Léon, 
“Nhấn âm là sự nhô lên về năng lượng 
được thể hiện bởi sự tăng độ dài, độ 
mạnh phát âm và thường xuyên là sự 
thay đổi từ âm tiết không mang trọng âm 
và/hoặc đang diễn ra sự tiến triển của âm 
tiết mang trọng âm” [8, tr.107]. Quan 
điểm của F. Marchand cũng đồng nhất 
với P. Léon khi cho rằng trọng âm là sự 
lên giọng của âm tiết được nhấn âm và 
độ dài của nguyên âm được nhấn mạnh 
[10, tr.46]. Theo E. Guimbretière, trọng 
âm là sự nhô lên của một âm tiết, luôn là 
âm tiết cuối cùng của một đơn vị nhịp 
điệu [7, tr.34]. Còn theo B. Malmberg, 
“Một vài phần trong ngữ lưu có thể được 
nhấn mạnh dưới sự phụ thuộc những 
thành phần khác. Thông thường những 
âm tiết này đối lập với những âm tiết 
khác bởi một số tính chất nào đó được 
gọi là trọng âm” [7, tr.91]. Tác giả còn 
khẳng định một âm vị không cho phép 
xác định trọng âm mà phải là một chuỗi 
âm vị. 
Như vậy, về trọng âm tiếng Pháp, 
có nhiều cách tiếp cận, phân tích không 
hoàn toàn giống nhau nhưng chung quy 
lại chúng ta có thể kết luận â ...  một câu hỏi 
trong các sản phẩm đọc của SV sau đó sử 
dụng phần mềm sóng âm NERO 6.6 để 
phân tích. Phần mềm này cho thấy sự nhô 
lên và kéo dài của âm tiết mang trọng âm, 
sự khác nhau trong cách đọc câu hỏi và 
câu khẳng định. Để có thể so sánh cách 
đọc của SV với cách đọc của người bản 
xứ, tác giả đã trích cách đọc hai câu này 
ở phần mềm học tiếng Pháp, sau đó cũng 
chuyển sang phần mềm sóng âm NERO 
6.6. Việc phân tích lỗi dựa trên mô hình 
phân tích lỗi của S.P.Corder [2]. Theo tác 
giả, phương pháp phân tích lỗi gồm 3 
bước: 
2.3. Nhóm nhịp điệu 
Một phát ngôn có thể được chia 
thành từng nhóm từ gọi là nhóm nhịp 
điệu, vốn là đơn vị hoàn chỉnh về ngữ 
nghĩa trong một văn cảnh nhất định. Theo 
E. Lhote, “Bất kỳ ở ngôn ngữ nào người 
nói cũng có khuynh hướng chia phát 
ngôn thành những đơn vị nhỏ mang 
nghĩa, để làm phát ngôn của mình dễ 
hiểu hơn” [9, tr.138]. Trong tiếng Pháp, 
câu được phân ra thành những nhóm, 
gồm những từ không có trọng âm tập hợp 
xung quanh một từ có trọng âm và được 
gọi là nhóm nhịp điệu. Âm tiết cuối của 
mỗi đơn vị nhịp điệu được đọc cao giọng. 
Khi nói chậm người nói có thể ngắt câu 
bao nhiêu nhóm là tùy ý, tùy theo chỗ 
người đó coi đâu là những điểm thông tin 
quan trọng ở trong câu. Nhưng nhìn 
chung, nhóm nhịp điệu trong tiếng Pháp 
thường không dài, từ 3 đến 4 âm tiết. E. 
Guimbretière cho rằng “Trong một phát 
ngôn thông thường, mỗi nhóm nhịp điệu 
thường từ 3 đến 4 âm tiết không nhấn âm 
và một âm tiết nhấn âm”. [7, tr.37] 
- Xác định câu có lỗi; 
- Phân tích, đối chiếu với câu được 
xem là đúng chuẩn; 
- Giải thích nguyên nhân dẫn đến 
hiện tượng phạm lỗi. 
3.2. Phân tích dữ liệu và thảo luận 
Kết quả khảo sát cho thấy rằng đa 
số SV không tuân thủ nguyên tắc nhấn 
3. Khảo sát âm và ngắt nhịp trong tiếng Pháp.
 45
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM Số 29 năm 2011 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
Biểu đồ 2.1. Lỗi do nhấn sai trọng âm, ngắt sai nhịp 
Tỉ lệ (%)
93
87
46
36
24
0
20
40
60
80
100
Nhấn sai
trọng âm
Ngắt sai
nhịp
Lên giọng ở
câu khẳng
định
Xuống giọng
ở câu hỏi
Lên giọng ở
mỗi từ
SV có khuynh hướng nhấn âm những âm tiết không mang trọng âm, không nhấn 
âm những âm tiết mang trọng âm (93%). Lỗi lớn thứ hai là SV không ngắt đúng nhịp 
trong câu (87%). 46% SV đọc lên giọng ở cuối câu khẳng định. 36% SV đọc xuống 
giọng ở câu hỏi. 24% SV còn nhấn giọng ở mỗi từ trong khi đọc chứ không phải nhấn 
giọng ở cuối mỗi đơn vị nhịp điệu. Chúng ta có thể thấy rõ những lỗi phát âm này qua 
quan sát kết quả biểu diễn sóng âm của người bản ngữ và của SV như ở hình 2.1 và 2.2 
sau đây: 
Je peux mettre ma valise dans le coffre? 
 Hình 2.1. Sóng âm thể hiện cách đọc câu hỏi của người bản ngữ 
Je peux mettre ma valise dans le coffre?
 Hình 2.2. Sóng âm thể hiện cách đọc câu hỏi của sinh viên 
 46 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM Huỳnh Thị Thu Toàn 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
đầu và giữa mỗi đơn vị nhịp điệu. Cho 
nên những âm tiết này có đường nét ngữ 
điệu cao hơn và dài hơn so với những âm 
tiết mang trọng âm. Hình biểu diễn sóng 
âm còn cho thấy ở câu hỏi, âm tiết cuối 
không được đọc cao giọng và kéo dài. SV 
có xu hướng ngắt nhịp từ 1 đến 3 âm tiết 
Je peux/ mettre/ ma valise/ dans/ le 
coffre? Đặc biệt kết quả tri nhận còn cho 
thấy SV đọc tách bạch từng âm tiết hoặc 
từng từ. 
Qua phân tích câu hỏi có thể thấy 
rằng câu được chia thành 3 đơn vị nhịp 
điệu Je peux mettre/ ma valise/ dans le 
coffre? Các âm tiết cuối của mỗi đơn vị 
nhịp điệu được đọc lên giọng, nên có 
đường nét ngữ điệu dài hơn và có sự nổi 
trội về trọng âm. Những âm tiết ở vị trí 
đầu và giữa của mỗi đơn vị nhịp điệu có 
đường nét ngữ điệu ngắn hơn và không 
có sự nổi trội về trọng âm. Đây là câu hỏi 
nên ở cuối câu ngữ điệu đi lên. 
Quan sát kết quả đọc của SV cho 
thấy điều ngược lại: SV không nhấn âm ở 
những âm tiết cuối của mỗi đơn vị nhịp 
điệu mà ở những âm tiết không mang 
trọng âm, có nghĩa là ở những âm tiết ở 
Hình biểu diễn sóng âm câu khẳng 
định Je réponds à vos questions stupides 
cho thấy câu được chia thành hai đơn vị 
nhịp điệu. Cuối câu giọng đi xuống cho 
nên đường nét ngữ điệu ở những âm tiết 
cuối thấp. 
Je réponds à vos questions stupides. 
 Hình 2.3. Sóng âm thể hiện cách đọc câu khẳng định của người bản ngữ
Nhưng kết quả thu được từ SV cho thấy các âm tiết gần như được đọc tách bạch 
với nhau, có đường nét ngữ điệu gần giống nhau. Đặc biệt, âm tiết cuối được đọc cao 
giọng và kéo dài làm cho người nghe liên tưởng đến câu hỏi. 
Je réponds à vos questions stupides 
 Hình 2.4. Sóng âm thể hiện cách đọc câu khẳng định của sinh viên 
 47
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM Số 29 năm 2011 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
Để nhận định nguyên nhân của 
những lỗi này, phải thấy rằng tiếng Việt 
và tiếng Pháp thuộc hai hệ thống ngôn 
ngữ khác nhau. Tiếng Pháp là một ngôn 
ngữ đa lập âm tiết. Tiếng Việt là một 
ngôn ngữ đơn lập âm tiết, mỗi âm tiết 
gắn liền với một thanh điệu. Do có đặc 
điểm này nên ngữ điệu câu tiếng Việt 
phức tạp hơn câu tiếng Pháp; nó phụ 
thuộc vào hai yếu tố: vi mô (sự thay đổi 
thanh điệu của mỗi từ), vĩ mô (sự biến 
đổi ngữ điệu trong câu). Giống như ngữ 
điệu, trọng âm trong tiếng Việt cũng chịu 
sự ảnh hưởng của thanh điệu. Mỗi từ 
trong cụm từ, trong câu luôn giữ trọng 
âm nhất định. Vì vậy, khoảng cách giữa 
hai điểm trọng âm luôn thay đổi. Do có 
những thói quen này nên khi đọc tiếng 
Pháp, SV vận dụng quy tắc nhấn âm 
tiếng Việt. Nhất là SV không có thói 
quen đọc nhiều âm tiết cùng một lúc nên 
khi đọc tiếng Pháp, SV có thể ngừng ở 
bất kì âm tiết nào trong từ, trong ngữ 
đoạn để lấy hơi đọc tiếp âm tiết tiếp theo 
sau. Tất cả điều này cho phép giải thích 
vì sao SV hay ngắt sai nhịp điệu, nhấn sai 
trọng âm, đọc tách bạch từng từ hay từng 
âm tiết trong tiếng Pháp. 
Câu hỏi trong tiếng Việt không phải 
bao giờ cũng được đọc cao giọng ở cuối 
câu. Ngược lại, câu khẳng định trong 
tiếng Việt cũng không luôn đòi hỏi xuống 
giọng ở cuối câu vì nó phụ thuộc vào từ 
đệm ở cuối câu. Cách dùng từ đệm này 
phụ thuộc nhiều yếu tố như thói quen, 
ngữ cảnh, thái độ, đối tượng giao tiếp, 
Vì vậy, khi đọc câu hỏi hay câu khẳng 
định trong tiếng Pháp, SV vận dụng các 
quy tắc phát âm câu hỏi, câu khẳng định 
trong tiếng Việt nên không phải lúc nào 
cũng lên giọng ở cuối câu hỏi hoặc xuống 
giọng ở cuối câu khẳng định. 
Lỗi do thêm thanh điệu tiếng Việt: 
trong các sản phẩm đọc của SV còn xuất 
hiện thanh điệu tiếng Việt trên một số từ, 
nhiều nhất là SV thêm thanh sắc và thanh 
huyền; 54% SV thêm thanh sắc ở những 
từ có dấu “ / ”(accent aigu) trong tiếng 
Pháp; 47% SV thêm thanh huyền trên 
những âm tiết có dấu “ \ ”(accent grave); 
39 % SV thêm thanh sắc ở âm tiết cuối của 
câu hỏi; 30% SV thêm thanh huyền ở âm 
tiết cuối của câu khẳng định. Một số SV còn 
thêm thanh huyền hoặc nặng trước sự kết 
hợp /vc/ (nguyên âm (v) và phụ âm (c)) 
mà c là một trong 3 âm tố /p/, /t/, /k/ (21%). 
Biểu đồ 2.2. Lỗi do thêm thanh điệu tiếng Việt 
Tỉ lệ (%)
54
47
39
30
21
0
10
20
30
40
50
60
Thêm thanh
sắc
Thêm thanh
huyền
Thêm thanh
sắc ở câu hỏi
Thêm thanh
huyền ở câu
khẳng định
Thêm thanh
nặng
 48 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM Huỳnh Thị Thu Toàn 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
Về những nguyên nhân của những 
lỗi này có thể lí giải như sau: trong tiếng 
Việt sự phân bố của các thanh điệu phải 
được xem xét trong mối tương quan với 
các thành phần âm tiết. Nhưng nhìn 
chung, tần số sử dụng của thanh huyền và 
thanh sắc nhiều hơn so với các thanh 
khác, điều đó giải thích vì sao trong khi 
đọc tiếng Pháp SV thường thêm hai thanh 
này. Hơn nữa, trong tiếng Pháp những từ 
có dấu “ / ”, “ \ ” giống như thanh sắc và 
thanh huyền của tiếng Việt nên khi đọc 
tiếng Pháp SV có xu hướng thêm hai 
thanh này trên các âm tiết mang dấu 
trong tiếng Pháp. Ngoài ra, trong câu hỏi 
tiếng Pháp âm tiết cuối cùng được đọc 
cao giọng và kéo dài. Sự cao giọng này 
làm cho một số SV liên tưởng đến thanh 
sắc vì thanh sắc có âm vực cao, có đường 
nét đi vút lên. Trong câu khẳng định 
tiếng Pháp, âm tiết cuối được đọc xuống 
giọng. Điều này làm SV liên tưởng đến 
thanh huyền trong tiếng Việt vì thanh 
huyền có âm vực thấp, đi xuống thoai 
thoải. 
Trong tiếng Việt có 3 phụ âm tắt vô 
thanh /p/, /t/, /k/. Trước sự kết hợp giữa 
nguyên âm (v) và phụ âm (c) /vc/, mà c 
là một trong 3 âm tố trên thì chỉ được kết 
hợp với hai thanh là thanh sắc và thanh 
nặng. Vì vậy, trong tiếng Pháp, trước sự 
kết hợp của /vc/ mà c là một trong 3 
âm tố trên thì SV cũng có thói quen thêm 
thanh sắc hoặc nặng. Nếu không, họ cứ 
nghĩ sẽ không đọc được các âm tiết có 
chứa những âm này. 
4. Kết luận và gợi ý giải pháp 
Khi học một ngoại ngữ, người học 
đã trải qua nhiều năm sử dụng tiếng mẹ 
đẻ; thói quen và kĩ năng sử dụng tiếng 
mẹ đẻ đã ăn sâu vào người học, gây trở 
ngại đến quá trình tiếp thu những kiến 
thức mới. Kết quả nghiên cứu đã khẳng 
định SV gặp rất nhiều khó khăn trong 
việc tiếp thu các đặc điểm điệu tính tiếng 
Pháp do có thói quen đối với hệ thống 
ngữ điệu, nhấn âm của tiếng Việt. Từ 
thực tế này, tác giả xin đề ra một số giải 
pháp như sau: 
- Do ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ, SV 
phạm nhiều lỗi phát âm. Vì vậy, giúp SV 
nâng cao ý thức về sự khác biệt giữa hai 
ngôn ngữ là điều quan trọng và cần thiết. 
Việc giúp xây dựng ý thức về sự khác 
nhau nên áp dụng ngay từ giai đoạn đầu 
của quá trình tiếp thu ngôn ngữ vì một 
khi thói quen đã hình thành thì sẽ rất khó 
khắc phục trong các giai đoạn tiếp theo 
của quá trình học. 
- Thực tế giảng dạy cho SV không 
chuyên cho thấy nhiều SV chỉ chú trọng 
đến phát âm của các âm, các từ, không để 
ý hoặc coi nhẹ việc nói đúng ngữ điệu, 
nhấn đúng trọng âm. Vì vậy, trong quá 
trình truyền đạt ngoại ngữ, người dạy cần 
thường xuyên nhắc đến vai trò quan trọng 
của các đơn vị siêu đoạn tính trong phát 
ngôn. 
- Luyện SV phát âm các đặc điểm 
điệu tính trong tiếng Pháp bằng các 
phương pháp sau đây: 
+ Dùng cử chỉ: để dạy một đơn vị 
nhịp điệu, người dạy có thể sử dụng tiếng 
vỗ tay hay gõ thước. Các cử động của 
ngón tay theo sự lên giọng hay xuống 
giọng cũng rất bổ ích. 
 49
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM Số 29 năm 2011 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
+ Dùng từ vô nghĩa: hình thức này 
bỏ qua phát âm và các yếu tố khác của 
ngôn ngữ, chỉ chú trọng đến ngữ điệu. 
Ví dụ: Câu Donnez - moi de 
l’argent pour l’acheter có thể được luyện 
với phương pháp này như sau: 
+ Ngắt câu theo hướng giảm dần và 
tăng dần: theo hướng giảm dần thì trọng 
âm ở vị trí cuối của đơn vị nhịp điệu. Còn 
theo hướng tăng dần trọng âm ở đầu của 
đơn vị nhịp điệu. 
Ví dụ: Câu Tu pars à Paris jeudi 
soir? được ngắt theo hướng tăng dần như 
sau: Tu pars? Tu pars à Paris? Tu pars à 
Paris jeudi? Tu pars à Paris jeudi soir?; 
được ngắt theo hướng giảm dần như sau: 
Jeudi? Jeudi soir? Paris, jeudi soir? Pars 
à Paris jeudi soir? Tu pars à Paris jeudi 
soir? 
+ Đếm cao giọng: phương pháp này 
cho phép người học đếm từ 1 đến N (N là 
số lượng âm tiết trong phát ngôn cần 
nhắc lại). 
Ví dụ: 1 - 2È Ça marcheÈ; 1 - 2 - 
3 È Ça marche bien ; 1 - 2 - 3Ç 1 – 2 
È Ça marche bien ÇmerciÈ 
+ Sử dụng phần mềm học tiếng: 
ngày nay cùng với sự tiến bộ của khoa 
học kỹ thuật, SV có nhiều cơ hội để 
luyện tập phát âm nhờ các phần mềm học 
tiếng. Đặc biệt với sự ứng dụng của công 
nghệ nhận dạng tiếng nói vào việc học 
ngoại ngữ sẽ giúp SV phát âm tốt hơn và 
làm cho việc học thú vị nhờ có sự so sánh 
kết quả phát âm của mình với phát âm 
của người bản xứ. Sự so sánh được thực 
hiện không chỉ bằng thính giác mà còn 
bằng thị giác bằng cách nhìn biểu đồ âm 
thanh mô tả cả tần số cũng như ngữ điệu 
của lời nói. 
_ 
m 
_ 
m 
_ 
m
Những đóng góp của bài nghiên 
cứu này có thể còn hạn chế và việc khảo 
sát được thực hiện ở quy mô nhỏ, chưa 
đánh giá hết được những ảnh hưởng của 
tiếng Việt nhất là của thanh điệu tiếng 
Việt đến việc phát âm tiếng Pháp. Tuy 
vậy, cùng với kết quả nghiên cứu bước 
đầu, hy vọng rằng việc áp dụng những 
biện pháp nêu trên sẽ đem lại hiệu quả 
khả quan hơn trong việc dạy và học ngữ 
âm tiếng Pháp. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Hoàng Cao Cương (1985), “Bước đầu nhận xét về đặc điểm ngữ điệu tiếng Việt (trên 
cứ liệu thực nghiệm)”, Ngôn ngữ, (3). 
2. Đoàn Thiện Thuật (2003), Ngữ âm tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 
3. Nguyễn Lân Trung (2006), Questions de linguistique contrastive du vietnamien et du 
français, Ha Noi. 
4. Champagne - Muzar C, Bourdages J.S (1998), Le point sur la phonétique, Clé 
International, Paris. 
5. Corder S. Pit. (1980) “Que signifient les erreurs des apprenants?”, Langages, (57), 
Larousse, Paris. 
6. Freland-Ricard M(1996), “Mal formés ou mal informés ?”, Revue de phonétique 
appliquée, (118-119), Didier, Bruxelles. 
_ 
m 
_ 
m 
_ 
m 
_ 
m
_ 
m
_ 
m
_ 
m 
 50 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM Huỳnh Thị Thu Toàn 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
7. Lhote E. (1995), Enseigner l’oral en interaction, Hachette, Paris. 
8. Guimbretière E.(1994), Phonétique et enseignement de l’oral, Didier/Hatier, Paris 
(coll. Didactique du français). 
9. Léon P. R. (1992), Phonétisme et prononciation du français, Nathan, Paris (coll. 
Fac). 
10. Marchand F. (1975), “Phonétique et éducation des sons” , Leif J. (Dir.), Tome 2, 
Delagrave, Evreux. 
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 27-5-2011; ngày chấp nhận đăng: 07-6-2011) 
MÙA THU TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU 
(Tiếp theo trang 37) 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Cao Hữu Công, Mai Tổ Lân (2000), Nghệ thuật ngôn ngữ thơ Đường, Nxb Văn học, 
Hà Nội. 
2. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2006), Từ điển thuật 
ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
3. Mai Quốc Liên, Nguyễn Quảng Tuân (chủ biên) (2001), Nguyễn Du toàn tập (tập1), 
Nxb Văn học, Hà Nội. 
4. Trần Đình Sử (2005), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
5. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia 
Hà Nội, Hà Nội. 
6. I. X. Lixêvich (2003), Tư tưởng văn học cổ Trung Quốc, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
7. Lê Thu Yến (1999), Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb Thanh niên, 
TP HCM. 
8. Lê Thu Yến (2001), “Thơ thu Nguyễn Du”, in trong Văn học trung đại Việt Nam, 
những công trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục, TP HCM. 
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 06-5-2011; ngày chấp nhận đăng: 10-6-2011) 
 51

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_ve_nhung_anh_huong_cua_dac_diem_dieu_tinh_tieng_v.pdf