Nghiên cứu quá trình hấp phụ và giải hấp phụ của probe biến đổi thiol trên điện cực vàng bằng phương pháp quét thế vòng tuần hoàn

Trong bài báo này chúng tôi nghiên cứu các tính chất điện hóa của lớp đơn tự tập hợp (SAM) được tạo bởi sự hấp phụ và giải hấp phụ của các alkanethiol trên bề mặt điện cực sợi nano vàng (AuNW) bằng phương

pháp CV. Kết quả phân tích cho thấy tính hiệu quả của quy trình giải hấp đạt hơn 90 %. Việc áp một hiệu điện thế âm gây ra sự giải hấp của SAM, kết quả là các SAM bị tách rời khỏi điện cực. Mục đích của chúng

tôi là nhằm tái sử dụng các điện cực AuNW sau khi chúng đã được chức năng hóa bởi SAM. Bên cạnh đó, kết quả của nghiên cứu này cũng giúp tránh cho SAM không bị giải hấp bởi sự điện hóa và nhờ vậy giúp bảo vệ mẫu hiệu quả hơn trong quá trình khảo sát.

Nghiên cứu quá trình hấp phụ và giải hấp phụ của probe biến đổi thiol trên điện cực vàng bằng phương pháp quét thế vòng tuần hoàn trang 1

Trang 1

Nghiên cứu quá trình hấp phụ và giải hấp phụ của probe biến đổi thiol trên điện cực vàng bằng phương pháp quét thế vòng tuần hoàn trang 2

Trang 2

Nghiên cứu quá trình hấp phụ và giải hấp phụ của probe biến đổi thiol trên điện cực vàng bằng phương pháp quét thế vòng tuần hoàn trang 3

Trang 3

Nghiên cứu quá trình hấp phụ và giải hấp phụ của probe biến đổi thiol trên điện cực vàng bằng phương pháp quét thế vòng tuần hoàn trang 4

Trang 4

Nghiên cứu quá trình hấp phụ và giải hấp phụ của probe biến đổi thiol trên điện cực vàng bằng phương pháp quét thế vòng tuần hoàn trang 5

Trang 5

Nghiên cứu quá trình hấp phụ và giải hấp phụ của probe biến đổi thiol trên điện cực vàng bằng phương pháp quét thế vòng tuần hoàn trang 6

Trang 6

Nghiên cứu quá trình hấp phụ và giải hấp phụ của probe biến đổi thiol trên điện cực vàng bằng phương pháp quét thế vòng tuần hoàn trang 7

Trang 7

Nghiên cứu quá trình hấp phụ và giải hấp phụ của probe biến đổi thiol trên điện cực vàng bằng phương pháp quét thế vòng tuần hoàn trang 8

Trang 8

Nghiên cứu quá trình hấp phụ và giải hấp phụ của probe biến đổi thiol trên điện cực vàng bằng phương pháp quét thế vòng tuần hoàn trang 9

Trang 9

pdf 9 trang Trúc Khang 08/01/2024 4920
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu quá trình hấp phụ và giải hấp phụ của probe biến đổi thiol trên điện cực vàng bằng phương pháp quét thế vòng tuần hoàn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu quá trình hấp phụ và giải hấp phụ của probe biến đổi thiol trên điện cực vàng bằng phương pháp quét thế vòng tuần hoàn

Nghiên cứu quá trình hấp phụ và giải hấp phụ của probe biến đổi thiol trên điện cực vàng bằng phương pháp quét thế vòng tuần hoàn
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ T1 - 2015 
Trang 5 
Nghiên cứu quá trình hấp phụ và giải 
hấp phụ của probe biến đổi thiol trên 
điện cực vàng bằng phương pháp quét 
thế vòng tuần hoàn 
 Cao Hữu Tiến 
 Nguyễn Quang Thiện 
 Hà Vân Linh 
 Lê Văn Hiếu 
 Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG-HCM 
( Bài nhận ngày 23 tháng 09 năm 2014, nhận đăng ngày 03 tháng 08 năm 2015) 
TÓM TẮT 
Trong bài báo này chúng tôi nghiên cứu 
các tính chất điện hóa của lớp đơn tự tập 
hợp (SAM) được tạo bởi sự hấp phụ và giải 
hấp phụ của các alkanethiol trên bề mặt điện 
cực sợi nano vàng (AuNW) bằng phương 
pháp CV. Kết quả phân tích cho thấy tính 
hiệu quả của quy trình giải hấp đạt hơn 
90 %. Việc áp một hiệu điện thế âm gây ra 
sự giải hấp của SAM, kết quả là các SAM bị 
tách rời khỏi điện cực. Mục đích của chúng 
tôi là nhằm tái sử dụng các điện cực AuNW 
sau khi chúng đã được chức năng hóa bởi 
SAM. Bên cạnh đó, kết quả của nghiên cứu 
này cũng giúp tránh cho SAM không bị giải 
hấp bởi sự điện hóa và nhờ vậy giúp bảo vệ 
mẫu hiệu quả hơn trong quá trình khảo sát. 
Từ khóa: SAM, cảm biến sinh học, quét thế vòng tuần hoàn, hấp phụ, giải hấp phụ. 
MỞ ĐẦU 
Các đơn lớp thiol trên các chất nền 
(substrates) khác nhau, đặc biệt trên vàng, tỏ ra 
ưu việt với những đặc tính tự tập hợp của chúng. 
Phân tử thiol được gắn lên bề mặt của chất nền 
thông qua liên kết hóa học giữa nguyên tử chất 
nền và nguyên tử thiol trong alkanethiol. Tương 
tác kỵ nước của các chuỗi alkyl với nhau chủ yếu 
là do tương tác van der Waals [1]. Tính chất này 
cho phép sự hấp phụ hóa học của các alkylthiol 
lên bề mặt của chất nền (kim loại, bán dẫn), tạo 
thành đơn lớp. Lớp đơn tạo thành này được gọi là 
lớp đơn tự tập hợp (SAM). 
Những SAM của thiol đã được nghiên cứu từ 
những năm 1980 của thế kỉ 20 [2, 3] vì phạm vi 
ứng dụng rộng rãi cho nhiều bề mặt khác nhau. 
Hơn nữa, SAM có các tính chất vật lí và hóa học 
rất tốt, chúng kháng được quá trình ăn mòn, có 
tác dụng như tác nhân cản quang trong quang 
khắc và có thể biến đổi với những nhóm chức 
năng khác nhau (thí dụ như –COOH, –OH, –CH3, 
–CF3). Tùy thuộc vào nhóm chức năng ở đầu của 
SAM mà có thể ứng dụng phù hợp cho các cảm 
biến hóa học và quang học. Hầu hết các nghiên 
cứu có liên quan đến lớp có thành phần là thiol 
béo (aliphatic thiol). Các tính chất điện hóa bị 
thay đổi đáng kể khi các phân tử thiol được hấp 
phụ hóa học lên bề mặt điện cực. Tính chất điện 
hóa của điện cực bị biến đổi bề mặt cũng phụ 
thuộc vào tính chất của bán phân tử hữu cơ [4, 5]. 
Chiều dài của chuỗi hydrocarbon có thể điều 
chỉnh tính chất vật lí và hóa học của các thiol 
SAM tạo ra trên bề mặt kim loại. 
Science & Technology Development, Vol 18, No.T1- 2015 
Trang 6 
Quá trình hấp phụ/giải hấp phụ đã được 
nghiên cứu bằng nhiều phương pháp bao gồm các 
kỹ thuật điện hóa [6-15], biến đổi Fourier quang 
phổ hồng ngoại (Fourier transform infrared 
spectroscopy (FT - IR) [13, 15, 16], 
electrochemical quartz crystal microbalance 
(EQCM) [17 - 19] và kính hiển vi quét xuyên 
hầm tại chỗ (in situ scanning tunneling 
microscope (STM)) [20 - 23]. Một trong những 
kỹ thuật quan trọng nhất cho quá trình nghiên 
cứu hấp phụ và giải hấp phụ của SAM là phương 
pháp quét thế vòng tuần hoàn (CV). Phương pháp 
này cung cấp thông tin về chất lượng của màng 
đơn lớp. Phương pháp CV đã được sử dụng để 
khảo sát tính chất điện môi của SAM trên bề mặt 
vàng. Có thể thấy rằng các alkylthiol với chuỗi 
alkyl dài hơn làm chuyển đổi peak khử sang thế 
âm hơn. Điều này phản ánh thông qua tương tác 
van der Waals mạnh mẽ giữa các chuỗi alkyl của 
phân tử thiol [6]. Quá trình giải hấp SAM được 
bắt đầu từ những sai hỏng trong đơn lớp thiol, 
chẳng hạn như khuyết các hàng và rìa của các lỗ 
trống nằm tách biệt. Các phân tử alkylthiol đã 
giải hấp kết tập lại trong dung dịch H2SO4 [25]. 
Widrig và cs [6] đã mô tả sự giải hấp của các 
phân tử alkanethiol khỏi bề mặt vàng vào trong 
dung dịch có tính kiềm như quá trình khử một 
điện tử theo phản ứng sau: 
Au-SR + e
- → Au + RS- (*) 
Diện tích của peak, hình dạng peak cực âm 
cho việc khử giải hấp và peak thế cung cấp thông 
tin hữu ích của SAM, chẳng hạn như là số lượng 
hấp phụ, độ ổn định, năng lượng hấp phụ, sự định 
hướng, hình thái bề mặt [6-23]. Một nghiên cứu 
chi tiết của sự khử giải hấp và oxi hóa tái lắng 
động của các thiol SAM nhằm khẳng định rằng 
peak thế của sự khử giải hấp là tùy thuộc vào 
chiều dài của chuỗi hydrocarbon, nhóm chức 
năng ở đầu và các tinh thể bề mặt của vàng [15]. 
Người ta tìm thấy rằng lớp hấp phụ của các phân 
tử hữu cơ được giải hấp khỏi bề mặt điện cực 
thông qua một quá trình tạo lỗ (poration process), 
hoặc tạo ra sai hỏng trong lớp hấp phụ khi điện 
thế trở nên âm hơn. Mục đích của bài báo này là 
để nghiên cứu quá trình hấp phụ/giải hấp phụ của 
SAM trên bề mặt vàng bằng phương pháp CV 
với bề mặt điện cực vàng được biến đổi bởi DNA 
pr ... áp 
vào và tuân theo định luật Nernst. CV được thực 
hiện bằng thế vòng của điện cực làm việc và đo 
dòng điện được tạo ra. 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ T1 - 2015 
Trang 7 
Hình 1. Biểu diễn quá trình khử xảy ra khi quét theo 
chiều âm từ (a) đến (d) và quá trình oxy hóa xảy ra khi 
quét theo chiều dương từ (d) đến (g). Quét thế vòng 
tuần hoàn thu được kết quả về dòng điện ở điện cực 
làm việc trong quá trình quét thế. 
 Hình 2. Đặc trưng CV của hệ oxy hóa khử thuận 
nghịch O + ne- ⇄ R. 
Khi quét theo hướng tới, điện thế sẽ quét 
theo chiều âm bắt đầu ở điện thế cao (a) và kết 
thúc ở điện thế thấp (d) và điện thế tại (d) gọi là 
thế chuyển, tại đây quá trình quét thế sẽ đảo 
ngược lại, quét từ (d) đến (g) và thế được quét 
theo chiều dương (Hình 1). 
Quá trình khử xảy ra khi quét theo chiều âm 
từ (a) đến (d), điện cực sẽ nhận điện tử và trở 
thành chất khử, kết quả xuất hiện dòng catod, 
dòng catod tăng nhanh đến khi nồng độ chất oxi 
hóa trên bề mặt điện cực bằng không, lúc đó 
dòng catod sẽ đạt cực đại, tại đó nồng độ chất 
oxy hóa trên bề mặt điện cực bằng 0. Sau đó sẽ 
giảm dần do nồng độ chất oxy hóa ngay sát bề 
mặt điện cực bị triệt tiêu. Sau khi chất khử được 
tạo thành, quá trình quét thế sẽ đảo ngược lại 
(quét theo chiều dương). Mặc dù quét theo chiều 
dương nhưng dòng catod vẫn còn từ quá trình 
khử, khi điện cực trở thành chất oxy hoá mạnh thì 
dòng anod xuất hiện và tăng nhanh cho đến khi 
nồng độ của chất khử trên bề mặt điện cực bằng 
0, lúc đó có được dòng anod cực đại. Sau đó sẽ 
giảm dần do chất khử trong dung dịch tại vùng 
tiếp giáp bề mặt điện cực triệt tiêu dần bởi phản 
ứng oxy hóa. Chu kỳ quét đầu tiên kết thúc khi 
điện thế quay về giá trị ban đầu. 
Trong hệ oxy hóa khử thuận nghịch, đỉnh 
dòng Ipc và Ipa sẽ ngang bằng nhau. Tuy nhiên, 
khi tốc độ quét tăng thì đỉnh dòng Ipc và Ipa sẽ 
không bằng nhau nữa, với một tốc độ đủ lớn thì 
hệ sẽ trở nên bất thuận nghịch. Các peak cao 
trong giản đồ tăng tuyến tính với tốc độ quét và 
độ dốc tỉ lệ với hệ số khuếch tán (Hình 2). Một sự 
thay đổi về nồng độ hay chất điện giải cũng có 
thể làm ảnh hưởng đến kết quả của các thí 
nghiệm. Các thông số cần quan tâm khi thực hiện 
phép đo CV: tốc độ quét thế, nhiệt độ thí nghiệm, 
nồng độ của các chất hay là số lượng ion của chất 
điện giải. 
Một hạn chế của CV là nó sẽ tạo ra điện 
dung lớn ở dòng nền. Đỉnh dòng Faradiac phụ 
thuộc vào sự trao đổi điện tích và tốc độ của các 
chất oxy hóa khử khuếch tán, nồng độ của các 
chất oxy tại bề mặt sẽ giảm khi điện thế càng âm 
và bề mặt điện cực bị nhiễm bẩn cũng ảnh hưởng 
đến hệ thống đo. 
Science & Technology Development, Vol 18, No.T1- 2015 
Trang 8 
Phép đo CV đã được tiến hành bằng cách sử 
dụng một thiết bị đo điện hóa AUTOLAB 
PGSTAT12/30/302 (Netherlands). Tất cả các 
phép đo đều được thực hiện trong hệ ba điện cực 
với Ag/AgCl/3M KCl làm điện cực so sánh, sợi 
platinum làm điện cực đối và điện cực sợi nano 
vàng (AuNW) như là một điện cực làm việc. 
Trước khi tiến hành ủ với probe (quá trình 
hấp phụ) các điện cực phải trải qua quá trình xử lí 
làm sạch ban đầu bằng cách quét thế CV trong 
H2SO4 0,005 M (thế áp dụng từ 0 V đến 1,6 V). 
Vùng hoạt động điện hóa được ước tính từ peak 
oxi hóa khử [25]. Từ dung dịch probe (100 µM) 
đã được khử lần đầu tiên trong TCEP 10 mM; 
dung dịch này được giữ ở 4 oC khoảng 2 giờ để 
khử các liên kết disulfide giữa các DNA probe. 
Dung dịch trên được pha loãng với PBS 10 mM 
(pH 7,4) (PBS được sử dụng trong tất cả các thí 
nghiệm trừ khi có ghi chú khác). Các điện cực 
sau khi làm sạch được ngâm trong dung dịch 
probe đã qua xử lí có nồng độ thích hợp trong 36 
giờ. Sau quá trình ủ và hình thành lớp đơn tự tập 
hợp (SAM), tiến hành loại bỏ bất kỳ DNA probe 
nào không được hấp phụ tốt trên bề mặt điện cực 
bằng cách rửa với nước cất khử ion trong khoảng 
30 s ở nhiệt độ phòng. Tại thời điểm này, DNA 
probe sẽ gắn với bề mặt điện cực thông qua sự 
hình thành SAM bởi liên kết giữa thiol với vàng. 
Nồng độ probe được sử dụng trong bước này là 
500 nM. Điện cực sau khi sửa đổi được làm khô 
bằng khí nitrogen và ngay lập tức chuyển vào 
dung dịch MCH 2 mM ủ khoảng 2 giờ tại nhiệt 
độ phòng, tránh ánh sáng [26]. Rửa sạch MCH 
hấp phụ vật lý trên bề mặt điện cực bằng nước 
khử ion trong 1 phút ở nhiệt độ phòng. Nhẹ 
nhàng lau khô các vết nước quanh điện cực 
(không sử dụng nitrogen). Chuyển điện cực trực 
tiếp vào PBS để bảo quản. 
Để kiểm tra hiệu quả hấp phụ và giải hấp phụ 
chúng tôi tiến hành quét CV trong dung môi 
K3Fe(CN)6 0,5 M/ PBS 0,1 M, thế quét từ -0,2 V 
đến 0,6 V. Phương pháp giải hấp được tiến hành 
bằng phép đo CV trong PBS 0,1 M, thế quét từ -
0,2 V đến -1,7 V [27]. Tất cả các thí nghiệm đã 
được tiến hành ở điều kiện áp suất và nhiệt độ 
phòng. 
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
Hiệu quả làm sạch điện cực được thấy rõ khi 
các chu kì quét thế sau gần như lặp lại chu kì quét 
trước đó (Hình 3), cường độ dòng peak khử của 
Au tại 0,8 V khi quét thế trong dung dịch H2SO4 
của là -0,67 µA. Sau khi giải hấp (Hình 4B), 
cường độ dòng peak khử này là -2 µA. Điều này 
giúp nhận thấy SAM trên bề mặt điện cực vẫn 
chưa được giải hấp hoàn toàn. Để cải thiện hiệu 
quả giải hấp, chúng tôi tiến hành lặp lại thêm vài 
chu kỳ quét thế CV trong PBS. Bên cạch đó việc 
thay mới dung môi cũng là một yếu tố khá quan 
trọng nhằm tránh hiện tượng tái hấp phụ SAM. 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ T1 - 2015 
Trang 9 
Hình 3. Kết quả làm sạch điện cực trần bằng CV trong 0,005 M H2SO4. 
Hình 4. (A) Đường quét thế giải hấp SAM bằng phương pháp CV trong PBS với thế áp dụng là từ -0,2 V đến -1,7 
V. (B) Kết quả làm sạch điện cực trong 0,005 M H2SO4 sau khi giải hấp. 
Tại thế -1,3 V chúng ta nhận thấy peak khử 
giảm đi rõ rệt sau vòng quét đầu tiên, ở giá trị thế 
này các probe sẽ được giải hấp khỏi bề mặt điện 
cực. Tại thời điểm này phân tử lưu huỳnh nhận 
một điện tử từ điện cực vàng và do đó liên kết 
Au-S sẽ bị phá vỡ (*). Quá trình này bắt đầu diễn 
ra tại những vị trí có mật độ probe thấp, những 
khuyết hỏng ở bề mặt điện cực. Thời gian diễn ra 
nhanh hay chậm là tùy thuộc vào độ đồng nhất về 
cấu trúc, mức độ khuyết hỏng bề mặt, v.v. 
A B 
Science & Technology Development, Vol 18, No.T1- 2015 
Trang 10 
Hình 5. Hiệu quả giải hấp lớp màng SAM. (A), (B) cường độ dòng khi gắn probe lần 1 và lần 2; (C), (D) cường độ 
dòng khi lai với mục tiêu lần 1 và lần 2. 
Hiệu quả gắn probe sau khi tái sử dụng điện 
cực (B) đạt được 95,2 % ứng với cường độ dòng 
đạt 2,08 µA so với cường độ dòng gắn probe lần 
đầu tiên (a) (2,12 µA). Qua đường (C) và (D) ta 
thấy hiệu suất lai hóa lần 2 giảm còn khoảng 
82,8 % so với lần 1 (Hình 5). Với những kết quả 
ban đầu chúng tôi nhận thấy quá trình hấp phụ và 
giải hấp phụ tuân theo cơ chế thuận nghịch như 
trong phương trình (*). 
KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu này cho thấy một cơ sở cho 
việc tái sử dụng/ cấu trúc lại bề mặt cảm biến 
sinh học bằng cách sử dụng quá trình khử giải 
hấp bằng điện hóa để loại bỏ các phân tử SAM 
gắn kết với bề mặt điện cực. Bằng việc sử dụng 
phương pháp điện hóa quét thế vòng tuần hoàn 
(CV) chúng tôi có thể khảo sát được quá trình 
hấp phụ và giải hấp phụ của SAM trên điện cực 
AuNW. Bên cạnh đó phương pháp này cũng có 
thể áp dụng cho những loại cảm biến có sử dụng 
liên kết Au-S để cố định các thụ thể sinh học. 
. 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ T1 - 2015 
Trang 11 
Study on the adsorption and desorption 
process of thiol-modified probe on gold 
electrodes using cyclic voltammetric 
method 
 Cao Huu Tien 
 Nguyen Quang Thien 
 Ha Van Linh 
 Le Van Hieu 
 University of Science, VNU-HCM 
ABSTRACT 
In this paper, we study the 
electrochemical properties of self-
assembling monolayers (SAM) created by 
the adsorption and desorption of the 
alkanethiol at the gold nanowires (AuNW) 
electrode surface by using the CV method. 
The analysis results show that the 
effectiveness of the desorption process 
reached over 90 %. The adoption of a 
negative voltage caused SAM desorption 
which resulted in the separation of SAM from 
the electrode. Our purpose is to reuse gold 
electrodes after they have been 
functionalized by SAM. Besides, results of 
this study also help to eliminate the 
electrochemical methods that make SAM 
eluted and therefore protect samples more 
effectively in the survey process. 
Key words: SAM, biosensor, CV, adsorption, desorption. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. C.A. Canaria, J. So, J.R. Maloney, C.J. Yu, 
J.O. Smith, M.L. Roukes, R. Lansford, 
Formation and removal of alkylthiolate self-
assembled monolayers on gold in aqueous 
solutions, Lab on a Chip, 6, 2, 289-295 
(2006). 
[2]. Y. Sato, B.L. Frey, R.M. Corn, K. Uosaki, 
Polarization modulation fourier transform 
infrared studies of the effects of self-
assembly time on the order and 
orientation of 11-Ferrocenyl-1-
undecanethiol Monolayers on Gold, Bulletin 
of the Chemical Society of Japan, 67(1), 21-
25 (1994). 
[3]. F. Bensebaa, R. Voicu, L. Huron, T.H. Ellis, 
E. Kruus, Kinetics of formation of long-
chain n-alkanethiolate monolayers on 
polycrystalline gold, Langmuir, 13(20), 
5335-5340 (1997). 
[4]. K. Shimazu, I. Yagi, Y. Sato, K. Uosaki, In 
situ and dynamic monitoring of the self-
assembling and redox processes of a 
ferrocenylundecanethiol monolayer by 
electrochemical quartz crystal 
microbalance, Langmuir, 8, 5, 1385-1387 
(1992). 
[5]. D.S. Karpovich, G.J. Blanchard, Direct 
measurement of the adsorption kinetics of 
alkanethiolate self-assembled monolayers 
on a microcrystalline gold surface, 
Langmuir, 10, 9, 3315-3322 (1994). 
[6]. C.A. Widrig, C. Chung, M.D. Porter, The 
electrochemical desorption of n-alkanethiol 
monolayers from polycrystalline Au and Ag 
Science & Technology Development, Vol 18, No.T1- 2015 
Trang 12 
electrodes, Journal of Electroanalytical 
Chemistry and Interfacial Electrochemistry, 
310, 1, 335-359 (1994). 
[7]. M.M. Walczak, D.D. Popenoe, R.S. 
Deinhammer, B.D. Lamp, C. Chung, M.D. 
Porter, Reductive desorption of 
alkanethiolate monolayers at gold: a 
measure of surface coverage, Langmuir, 7, 
11, 2687-2693 (1991). 
[8]. M.M. Walczak, C.A. Alves, B.D. Lamp, 
M.D. Porter, Electrochemical and X-ray 
photoelectron spectroscopic evidence for 
differences in the binding sites of 
alkanethiolate monolayers chemisorbed at 
gold, Journal of Electroanalytical 
Chemistry, 396, 1, 103-114 (1995). 
[9]. C.J. Zhong, J. Zak, M.D. Porter, 
Voltammetric reductive desorption 
characteristics of alkanethiolate monolayers 
at single crystal Au (111) and (110) 
electrode surfaces, Journal of 
Electroanalytical Chemistry, 421, 1, 9-13 
(1997). 
[10]. C.J. Zhong, N.T. Woods, G.B. Dawson, 
M.D. Porter, Formation of thiol-based 
monolayers on gold: implications from open 
circuit potential measurements, 
Electrochemistry Communications, 1, 1, 
17-21 (1999). 
[11]. D.F. Yang, C.P. Wilde, M. Morin, 
Electrochemical desorption and adsorption 
of nonylmercaptan at gold single crystal 
electrode surfaces, Langmuir, 12, 26, 6570-
6577 (1996). 
[12]. D.F. Yang, C.P. Wilde, M. Morin, Studies 
of the electrochemical removal and efficient 
re-formation of a monolayer of 
hexadecanethiol self-assembled at an Au 
(111) single crystal in aqueous solutions, 
Langmuir, 13, 2, 243-249 (1997). 
[13]. D.F. Yang, H. Al-Maznai, M. Morin, 
Vibrational study of the fast reductive and 
the slow oxidative desorptions of a 
nonanethiol self-assembled monolayer from 
a Au (111) single crystal electrode, The 
Journal of Physical Chemistry B, 101, 7, 
1158-1166 (1997). 
[14]. D.F. Yang, M. Morin, Chronoamperometric 
study of the reductive desorption of 
alkanethiol self-assembled monolayers, 
Journal of Electroanalytical Chemistry, 
441, 1, 173-181 (1998). 
[15]. M. Byloos, H. Al-Maznai, M. Morin, 
Formation of a self-assembled monolayer 
via the electrospreading of physisorbed 
micelles of thiolates, The Journal of 
Physical Chemistry B, 103, 31, 6554-6561 
(1999). 
[16]. M. Byloos, H. Al-Maznai, M. Morin, Phase 
transitions of alkanethiol self-assembled 
monolayers at an electrified gold surface, 
The Journal of Physical Chemistry B, 105, 
25, 5900-5905 (2001). 
[17]. T.W. Schneider, D.A. Buttry, 
Electrochemical quartz crystal microbalance 
studies of adsorption and desorption of self-
assembled monolayers of alkyl thiols on 
gold, Journal of the American Chemical 
Society, 115, 26, 12391-12397 (1993). 
[18]. T. Kawaguchi, H. Yasuda, K. Shimazu, 
M.D. Porter, Electrochemical quartz crystal 
microbalance investigation of the reductive 
desorption of self-assembled monolayers of 
alkanethiols and mercaptoalkanoic acids on 
Au, Langmuir, 16, 25, 9830-9840 (2000). 
[19]. D. Qu, M. Morin, An EQCM study of the 
oxidative deposition of alkylthiolates on 
gold, Journal of Electroanalytical 
Chemistry, 517, 1, 45-53 (2001). 
[20]. D. Hobara, K. Miyake, S.I. Imabayashi, K. 
Niki, T. Kakiuchi, In-situ scanning 
tunneling microscopy imaging of the 
reductive desorption process of alkanethiols 
on Au (111), Langmuir, 14, 13, 3590-3596 
(1998). 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ T1 - 2015 
Trang 13 
[21]. T. Kakiuchi, H. Usui, D. Hobara, M. 
Yamamoto, Voltammetric properties of the 
reductive desorption of alkanethiol self-
assembled monolayers from a metal surface, 
Langmuir, 18, 13, 5231-5238 (2002). 
[22]. C. Vericat, G. Andreasen, M.E. Vela, H. 
Martin, R.C. Salvarezza, Following 
transformation in self-assembled alkanethiol 
monolayers on Au (111) by in situ scanning 
tunneling microscopy, The Journal of 
Chemical Physics, 115, 14, 6672-6678 
(2001). 
[23]. T. Sumi, H. Wano, K. Uosaki, 
Electrochemical oxidative adsorption and 
reductive desorption of a self-assembled 
monolayer of decanethiol on the Au (111) 
surface in KOH
ethanol solution, Journal of 
Electroanalytical Chemistry, 550, 321-325 
(2003). 
[24]. F. Wei, J. Wang, W. Liao, B.G. 
Zimmermann, D.T. Wong, C.M. Ho, 
Electrochemical detection of low-copy 
number salivary RNA based on specific 
signal amplification with a hairpin probe, 
Nucleic Acids Research, 36, 11, e65-e65 
(2008). 
[25]. H.O. Finklea, D.A. Snider, J. Fedyk, 
Passivation of pinholes in octadecanethiol 
monolayers on gold electrodes by 
electrochemical polymerization of phenol, 
Langmuir, 6, 2, 371-376 (1990). 
[26]. D. Kang, X. Zuo, R. Yang, F. Xia, K.W. 
Plaxco, R.J. White, Comparing the 
properties of electrochemical-based DNA 
sensors employing different redox tags, 
Analytical Chemistry, 81, 21, 9109-9113 
(2009). 
[27]. Z. Nováková, R. Oriňáková, A. Oriňák, P. 
Hvizdoš, A.S. Fedorková, Elimination 
Voltammetry as a New method for studying 
the SAM formation, Int. J. Electrochem. 
Sci., 9, 3846-3863 (2014). 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_qua_trinh_hap_phu_va_giai_hap_phu_cua_probe_bien.pdf