Nghiên cứu phương pháp tiếp cận kế toán thực tế đối với tài sản di sản
Tài sản di sản là những TS có tính chất lịch sử, nghệ thuật, khoa học, công nghệ, địa lý
hoặc môi trường, được tổ chức và duy trì chủ yếu cho những đóng góp của chúng với tri thức,
văn hóa và mục đích của tổ chức giữ chúng (ASB, 2006). Phần lớn TSDS có được qua nhiều
năm và bằng các phương pháp khác nhau như mua, cho tặng, thừa kế, ví dụ như các di tích
lịch sử, di chỉ khảo cổ, các khu vực bảo tồn thiên nhiên, các tác phẩm nghệ thuật,. Việc xác
định giá trị vốn hóa TSDS giúp tăng giá trị ròng TS quốc gia và giá trị ròng của các tổ chức
nắm giữ chúng (Hassan, 2014). Dựa trên các thực tiễn Quản lý Công (NPM) mới, các đơn vị
sẽ phải báo cáo cho các bên liên quan về mô hình giá trị kinh tế cho TSDS thuộc quyền kiểm
soát của họ.
Nhiều học giả và các tổ chức học thuật quản lý TSDS cho rằng phải tiếp cận TSDS
đứng từ nhiều góc độ: từ góc độ thay thế, tài chính và phi tài chính (Mautz, 1988; Pallot,
1990; Carnegie và Wolnizer, 1995; Stanton và Stanton, 1997; Barton, 2005). Trên thực tế,
việc xác định, định giá và công nhận TSDS trong khu vực công không phải là nhiệm vụ dễ
dàng vì các tài sản này đã tồn tại hàng thập kỷ và đã được mua lại theo những cách khác nhau
(Ouda, 2005). Điều này làm cho quá trình xác định và đánh giá các tài sản đó trở nên khó
khăn hơn do tính chất và đặc điểm cụ thể của chúng. Cách tiếp cận kế toán hiện tại đối với
TSDS được xem xét tại một số nước như New Zealand, Anh, Úc, Mỹ và Canada bao gồm
SAC 4 (AASB, 1992), AAS 27 (AASB, 1996a), AAS 29 (AASB, 1996b), FRS 3 (2002)
nhưng nó không xem xét tác động của việc áp dụng các phương pháp kế toán trên Báo cáo kết
quả tài chính, nên không đảm bảo cung cấp thông tin hữu ích cho các loại hình quyết định liên
quan đến nhu cầu của các bên liên quan. Do đó, phải cung cấp các hình thức bổ sung thông tin
bằng phương pháp kế toán thực tế nhằm xử lý kế toán thống nhất và minh bạch đối với các
TSDS; xem xét có hạn chế pháp lý, văn hoá, xã hội đối với việc di chuyển TSDS để tránh sự
phóng đại của giá trị ròng và các thông tin trên báo cáo kết quả hoạt động (Wild, 2013, Pallot,
1990, Carnegie and Wolnizer, 1995; Barton, 1999 & 2005, Hooper and Kearins, 2003, West
and Carenie 2010).
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu phương pháp tiếp cận kế toán thực tế đối với tài sản di sản
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 540 NGHIÊN CỨU PHƢƠNG PHÁP TIẾP CẬN KẾ TOÁN THỰC TẾ ĐỐI VỚI TÀI SẢN DI SẢN ThS. Nguyễn Hồng Nga Khoa Kế toán Kiểm toán, Trƣờng Đại học Thƣơng mại TÓM TẮT Tài sản di sản (TSDS) là loại tài sản (TS) đặc biệt mang tính chất lịch sử, nghệ thuật, công nghệ, địa lý và môi trường, là TS có giá trị lớn, có tuổi đời hàng trăm năm, rất khó xác định giá trị, nhiều TSDS là vô giá. Tuy nhiên, TSDS đặc biệt có ý nghĩa trong phát triển ngành công nghiệp không khói (du lịch), việc kế toán TSDS sẽ làm thay đổi tư duy trong quản lý và bảo tồn TSDS và đem lại lợi ích cho quốc gia, hay tổ chức đang sở hữu chúng. Trong những năm gần đây đã có nhiều nghiên cứu để đưa các tài sản văn hoá này vào các báo cáo tài chính hàng năm nhưng việc đo lường giá trị TSDS còn gặp rất nhiều khó khăn. Hiện nay, cách tiếp cận kế toán hiện tại đối với TSDS chưa đáp ứng nhu cầu cung cấp thông tin hữu ích cho các bên liên quan. Do đó, bài viết sau sẽ giới thiệu về cách tiếp cận kế toán thực tế đối với TSDS nhằm mục tiêu xem xét liệu có những hạn chế pháp lý, văn hoá hay xã hội về việc xử lý TSDS hay không, việc xử lý kế toán TSDS trên báo cáo kết quả hoạt động như thế nào và nghiên cứu ảnh hưởng của nó đến độ tin cậy của thông tin được trình bày trong báo cáo tài chính. Từ khóa: tài sản di sản, kế toán thực tế, báo cáo tài chính, thông tin hữu ích 1. MỞ ĐẦU Tài sản di sản là những TS có tính chất lịch sử, nghệ thuật, khoa học, công nghệ, địa lý hoặc môi trường, được tổ chức và duy trì chủ yếu cho những đóng góp của chúng với tri thức, văn hóa và mục đích của tổ chức giữ chúng (ASB, 2006). Phần lớn TSDS có được qua nhiều năm và bằng các phương pháp khác nhau như mua, cho tặng, thừa kế, ví dụ như các di tích lịch sử, di chỉ khảo cổ, các khu vực bảo tồn thiên nhiên, các tác phẩm nghệ thuật,... Việc xác định giá trị vốn hóa TSDS giúp tăng giá trị ròng TS quốc gia và giá trị ròng của các tổ chức nắm giữ chúng (Hassan, 2014). Dựa trên các thực tiễn Quản lý Công (NPM) mới, các đơn vị sẽ phải báo cáo cho các bên liên quan về mô hình giá trị kinh tế cho TSDS thuộc quyền kiểm soát của họ. Nhiều học giả và các tổ chức học thuật quản lý TSDS cho rằng phải tiếp cận TSDS đứng từ nhiều góc độ: từ góc độ thay thế, tài chính và phi tài chính (Mautz, 1988; Pallot, 1990; Carnegie và Wolnizer, 1995; Stanton và Stanton, 1997; Barton, 2005). Trên thực tế, việc xác định, định giá và công nhận TSDS trong khu vực công không phải là nhiệm vụ dễ dàng vì các tài sản này đã tồn tại hàng thập kỷ và đã được mua lại theo những cách khác nhau (Ouda, 2005). Điều này làm cho quá trình xác định và đánh giá các tài sản đó trở nên khó khăn hơn do tính chất và đặc điểm cụ thể của chúng. Cách tiếp cận kế toán hiện tại đối với TSDS được xem xét tại một số nước như New Zealand, Anh, Úc, Mỹ và Canada bao gồm SAC 4 (AASB, 1992), AAS 27 (AASB, 1996a), AAS 29 (AASB, 1996b), FRS 3 (2002) nhưng nó không xem xét tác động của việc áp dụng các phương pháp kế toán trên Báo cáo kết quả tài chính, nên không đảm bảo cung cấp thông tin hữu ích cho các loại hình quyết định liên quan đến nhu cầu của các bên liên quan. Do đó, phải cung cấp các hình thức bổ sung thông tin bằng phương pháp kế toán thực tế nhằm xử lý kế toán thống nhất và minh bạch đối với các TSDS; xem xét có hạn chế pháp lý, văn hoá, xã hội đối với việc di chuyển TSDS để tránh sự phóng đại của giá trị ròng và các thông tin trên báo cáo kết quả hoạt động (Wild, 2013, Pallot, 1990, Carnegie and Wolnizer, 1995; Barton, 1999 & 2005, Hooper and Kearins, 2003, West and Carenie 2010). 2. NỘI DUNG 2.1 Khái quát về t i sản di sản Hội đồng Tiêu chuẩn Kế toán Anh (ASB) đã cung cấp định nghĩa sau cho tài sản di sản trong Tiêu cuẩn Báo cáo Tài chính (FRS) 30 (ASB, 2009, trang 2): TSDS là tài sản hữu TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 541 hình có phẩm chất lịch sử, nghệ thuật, khoa học, công nghệ, địa vật lý hoặc môi trường được duy trì vì sự đóng góp kiến thức và văn hoá. Chúng được duy trì và kiểm soát bởi chính phủ vì mục đích văn hoá, lịch sử, vui chơi giải trí và các mục đích cộng đồng khác chứ không nhằm mục đích tạo thu nhập (Barton, 2000). Ví dụ về tài sản di sản bao gồm các tác phẩm nghệ thuật, cổ vật, sưu tập sách hiếm, di tích lịch sử, khu bảo tồn, di tích lịch sử, địa điểm khảo cổ và khu bảo tồn thiên nhiên. Các tài sản di sản phải được bảo tồn và duy trì ở một trạng thái tốt để bảo đảm cuộc sống lâu dài và vô hạn, chúng được coi là hàng hoá công cộng và cung cấp cho công chúng và có thể được tài trợ bằng thuế hoặc các khoản đóng góp cá nhân (Barton, 2005). Đối với các mục đích kế toán, các đặc điểm quan trọng sau đây của tài sản di sản đã được UK-ASB (2006) xác định: - Giá trị của chúng trong các điều khoản văn hoá, môi trường, giáo dục và lịch sử dường như không được phản ánh đầy đủ trong một giá trị tài chính dựa hoàn toàn vào giá thị trường; - Các nghĩa vụ pháp lý và / hoặc theo luật định có ... các hạn chế pháp lý, văn hoá hoặc xã hội đối với việc di chuyển tài sản di sản và thông tin về chi phí và giá trị của tài sản di sản có sẵn thì việc vốn hóa các tài sản di sản sẽ không gây hiểu nhầm cho các bên liên quan vì chúng có thể được kết hợp đến các khoản nợ (tài sản di sản không hạn chế). Ngoài ra, cách tiếp cận thực tế nhận thấy những hậu quả của việc xử lý kế toán tài sản di sản trên báo cáo kết quả hoạt động và ảnh hưởng của nó đến độ tin cậy của thông tin tài chính được trình bày trong báo cáo tài chính. Do đó, phương pháp tiếp cận thực tế sẽ dựa trên hai hướng tiếp cận sau: - Thứ nhất, phương pháp kết hợp tài sản-nợ: Tận dụng các thông tin về chi phí hoặc giá trị của tài sản di sản và các tài sản di sản có thể được xử lý, và do đó chúng có thể được được sử dụng để khớp các khoản nợ (Tài sản Di sản Không hạn chế). Theo cách tiếp cận này, các tài sản di sản cần được đưa vào báo cáo tình hình tài chính và doanh thu của chúng phải được bao gồm trong báo cáo kết quả hoạt động tài chính. - Thứ hai, phương pháp tiếp cận không liên quan tới nợ không phải là tài sản- nợ: Không phải là đầu tư nếu thông tin về chi phí hoặc giá trị không có sẵn hoặc không có sẵn, nhưng các tài sản di sản không thể được xử lý, và do đó chúng không thể được sử dụng để khớp các khoản nợ (Tài sản di sản bị hạn chế). Theo cách tiếp cận này, tài sản di sản không nên được đưa vào báo cáo về tình hình tài chính và phải được coi là tài sản ủy thác / đại lý. Do đó, mỗi nước nên tạo một Báo cáo Tài sản Tín thác / Đại lý, trong đó các tài sản di sản được ghi trong tuyên bố này trong các đơn vị thể chất không có giá trị tài chính. Vì vậy, để hạch toán các khoản thu và chi phí liên quan đến tài sản di sản, mỗi quận nên tạo một Quỹ Ủy thác (Quỹ Đại lý). Quỹ này sẽ bao gồm tất cả các khoản thu và chi phí liên quan đến tài sản di sản ở mỗi quốc gia. Số dư của quỹ ủy thác sẽ được báo cáo như là một khoản nợ hoặc một tài sản trong bảng cân đối kế toán. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 546 Sơ đồ 1: Phƣơng pháp tiếp cận kế toán thực tế đối với TSDS dựa trên cơ sở dồn tích (Nguồn: Accounting Standard Board (ASB), London, January 2006) 3. TRAO ĐỔI, ĐỀ XUẤT Thứ nhất, phải xác định làm rõ TSDS đáp ứng định nghĩa Tài sản: Theo ASB-FRS 30, dựa trên tiềm năng dịch vụ mà chúng cung cấp, tài sản di sản đáp ứng được định nghĩa về tài sản; nghĩa là chúng cung cấp quyền hoặc quyền tiếp cận khác đối với những lợi ích kinh tế trong tương lai do một thực thể kiểm soát do các giao dịch hoặc sự kiện trong quá khứ. Do đó, có thể suy ra rằng tài sản di sản đáp ứng được định nghĩa về tài sản vì chúng có thể mang lại lợi ích kinh tế trong tương lai dưới hình thức tiềm năng dịch vụ và được giữ và duy trì chủ yếu vì sự đóng góp của chúng vào kiến thức và văn hoá và mục đích này là trọng tâm của các mục tiêu thực thể (ví dụ bảo tàng) giữ chúng. Thứ hai, TSDS phải được coi là một loại tài sản riêng biệt chứ không phải là một loại tài sản, thiết bị và thiết bị riêng biệt. Một số tác giả cho rằng tài sản di sản là tài sản của cộng đồng (ví dụ như Pallot, 1990 và 1992), mặc dù tài sản của cộng đồng bao gồm một số tài sản không phải là tài sản di truyền thuần túy như công viên đô thị và sân thể thao; tài sản cơ sở hạ tầng công cộng; các công viên quốc gia; hệ thống đường sắt và đường sắt công cộng. Về cơ bản, tài sản của cộng đồng là một thuật ngữ rộng và chúng ta cần phải phân biệt tài sản di sản từ những tài sản cộng đồng có thể bán và sử dụng cho các mục đích kinh tế, ví dụ, nhiều công viên quốc gia ở Ai Cập đã được sử dụng cho các mục đích khác như xây dựng nhà ở cho thanh niên. Do đó, các tài sản di sản thuần túy (như các bộ sưu tập bảo tàng và bộ sưu tập, các tác phẩm nghệ thuật khác, lưu trữ quốc gia, các di tích khảo cổ, di tích, di tích, di tích, di tích và pho tượng) cần được phân biệt với các tài sản khác của cộng đồng (như vườn quốc gia, và hệ thống đường sắt). Tài sản di sản không thể thay thế hoặc bán do sự tồn tại của các hạn chế Phương pháp tiếp cận kế toán thực tế đối với TSDS TS không hạn chế Phương pháp kết hợp tài sản-nợ TS hạn chế Phương pháp không kết hợp tài sản-nợ Ghi trên Báo cáo tình hình tài chính Doanh thu, chi phí Báo cáo kết quả hoạt động TSDS có thời hạn TSDS vô thời hạn Suy giảm giá trị Khấu hao Không đưa TSDS vào Báo cáo tình hình tài chính Doanh thu, chi phí Tạo một Quỹ Ủy thác/ Đại lý. Số dư của quỹ ủy thác sẽ được báo cáo như là một khoản nợ hoặc một tài sản trong bảng báo cáo tình tình tài chính Nợ phải trả (thâm hụt). Phản ánh giá trị ròng như tài sản khác Tài sản (dư quỹ). Phản ánh giá trị ròng của TSDS TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 547 pháp lý, xã hội hoặc văn hoá. Trên thực tế, cần xem tài sản di sản như một loại tài sản riêng biệt chứ không phải là một loại tài sản, nhà máy và thiết bị riêng biệt. Tài sản di sản phải là sản phẩm của nền văn minh của đất nước và phải được thực hiện trên đất của đất nước và tồn tại hơn 100 năm. Chúng phải có giá trị về khảo cổ học hoặc nghệ thuật hoặc có tầm quan trọng lịch sử và chúng phải được sản xuất và trồng trên đất của đất nước. Ngoài ra, có thể lập luận rằng hầu hết tài sản đã tồn tại trong hơn 100 năm, chi phí của chúng đã bị khấu hao. Do đó, khi các tài sản này chuyển vào tài sản di sản, không có giá trị sổ sách vì giá trị của chúng đã bị khấu hao trong suốt 100 năm qua. Hơn nữa, hầu hết các nhà lập chuẩn kế toán (như IFAC, 2006, ASB, 2009 và IPSAS 17) đã thảo luận một số đặc điểm cụ thể, có thể nâng cao lập luận nói trên khi xem tài sản di sản như là một loại tài sản riêng biệt hơn là một loại tài sản, nhà máy và thiết bị riêng biệt vì: • Chúng thường không thể thay thế được và giá trị của chúng có thể tăng theo thời gian ngay cả khi tình trạng thể chất của chúng xấu đi; • Chúng hiếm khi được giữ bởi khả năng tạo ra dòng tiền thu được hoặc doanh số bán hàng và có thể có những trở ngại pháp lý hoặc xã hội để sử dụng chúng cho các mục đích đó; • Có thể khó ước tính tuổi thọ hữu ích của chúng, trong một số trường hợp có thể là vài trăm năm và chúng có thể phải chịu chi phí cao để duy trì chúng; • Chúng thường được mô tả là không thể chuyển nhượng, nghĩa là đơn vị không thể loại bỏ chúng nếu không có sự đồng ý từ bên ngoài. Thứ ba, cần xem xét việc tính giá TSDS và hạch toán như một TS cố định. Theo Chuẩn mực kế toán Anh (ASB, 2006), giá ghi sổ năm trước được xác định, dựa vào thu nhập và chi khi TSDS phát sinh. Trong đó, thu nhập là từ các khoản thương mại hoá, xã hội hoá và các khoản tài trợ, chi phí là giá mua (hay giá tương đương trên thị trường hoặc giá do đấu giá) và các chi phí bảo trì sửa chữa di sản. Chêch lệch thu chi chính là giá trị được ghi nhận TSDS được (mất) của năm tài chính. Trong quá trình giao dịch TSDS xác định các khoản tăng từ thu do thanh lý TSDS, còn khoản chi chính là số tiền bỏ ra có tải sản. Ghi nhận giá trị TSDS thay đổi bằng giá trị TSDS của năm tài chính cộng với khoản thu trừ đi khoản chi của giao dịch TSDS đó. Ví dụ, tổ chức A có TSDS 1.600 USD (mua, được tài trợ theo giá trị tương đương trên thị trường hoặc qua đấu giá), thu từ thanh lý TSDS 700 USD. Các khoản thu thương mại hoá (thu từ hoạt động du lịch) 7.000 USD, khoản thu xã hội hoá 150 USD, khoản tài trợ bảo trì TSDS 5.000 USD. Các khoản chi phí quản lý TSDS 2.200 USD, cho phí bảo trì sửa chữa 300 USD. Vậy giá trị TSDS thay đổi được ghi sổ là 8.850 USD được tính như bảng 3. Bảng 3: Bảng xác định giá ghi sổ TS di sản Chỉ tiêu Số tiền (USD) 1. Thu nhập của TS di sản + Thu từ thương mại hóa (thu từ hoạt động du lịch) + Tài trợ để bảo trì TS di sản + Xã hội hóa 12.150 7.000 5.000 150 2. Chi phí của TS di sản + Chi phí quản lý + Chi phí bảo dưỡng phục hồi sửa chữa (2.500) (2.200) (300) 3. Chênh lệch thu chi 9.650 4. Ghi nhận thay đổi TS di sản + Ghi nhận giá trị TS di sản được (mất) của năm TC + Giao dịch TS di sản - Giá trị của TS di sản (qua mua, đấu giá) - Thanh lý TS di sản 800 (1.500) 700 5. Sự thay đổi trong việc ghi nhận TS di sản 8.850 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 548 (Nguồn: Tác giả tự tổng hợp) 4. KẾT LUẬN Những thay đổi gần đây về các yêu cầu kế toán đối với tài sản di sản đã yêu cầu việc đo lường giá trị kinh tế của chúng và đưa chúng vào các báo cáo và báo cáo tài chính hàng năm. Mặc dù việc bán tài sản di sản của các cơ quan chức năng địa phương đã trở nên phổ biến trong những năm thay đổi kế toán đối với các tài sản di sản, nhưng thật khó để biết được điều gì đã thúc đẩy doanh số bán hàng. Nghiên cứu này nhấn mạnh rằng việc xem xét nhiều hơn về cách di sản văn hoá ngoài các giá trị tài chính (thị trường) là rất quan trọng. Do đó, cần phải xây dựng một phương pháp tiếp cận kế toán mới tập trung vào việc xử lý kế toán thống nhất và minh bạch đối với các tài sản di sản để xem xét có hạn chế pháp lý, văn hoá và xã hội đối với việc di chuyển tài sản di sản hay không và để tránh sự phóng đại của giá trị ròng và sự méo mó của báo cáo kết quả hoạt động. Cách tiếp cận này được được làm rõ trong bài viết, được gọi là phương pháp kế toán thực tế đối với tài sản di sản dựa trên cơ sở dồn tích. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. AASB (1992), Definition and Recognition of Elements of Financial Statements, SAC 4, AASB, Melbourne. 2. AASB (1996a), Financial Reporting by Local Governments, AAS 27, AASB, Melbourne. AASB (1996b), Financial Reporting by Government Departments, AAS 29, AASB, Melbourne. 3. Accounting Standard Board (ASB), (2006), "Heritage assets can accounting do better"? Discussion paper, Accounting Standards Board, London, pp.89, January. 4. Barker, P., (2006), “Heritage Assets: can accounting do better?” Accounting Irland, August 2006, Vol.38 No.4, pp, 48-50. 5. Barton, A. (1999a), “Public and Private Sector Accounting – the Non-identical twins”. Australian Accounting Review, 9 (2), 22-31. 6. Barton, A.D. (2000), “Accounting for public heritage facilities – assets or liabilities of the government?”, Accounting, Auditing & Accountability Journal, Vol. 13 No. 2, pp. 219-35. 7. Barton, A.D. (2005), “The conceptual arguments concerning accounting for public heritage assets: a note”, Accounting, Auditing & Accountability Journal, Vol. 18 No. 3, 2005, pp. 434-440. 8. Carnegie, G.D. and Wolnizer, P.W. (1995), “The financial value of cultural, heritage and scientific collections: an accounting fiction”, Australian Accounting Review, Vol.5 No. 1, pp. 31-47. 9. Carnegie, C.D. and Wolnizer, P.W. (1996), “Enabling accountability in museums”, Accounting, Auditing & Accountability Journal, Vol. 9 No. 5. 10. FASAB (2005), “Heritage assets and Stewardshio land”, Statement of Federal Financial Accounting Standards 29, Federal Accounting Stabdards Advisory Board, Washington, DC. 11. FRS 3 (2002), Accounting for Property, Plant and Equipment, ICANZ, Wellington. 12. Hassan A. G. Ouda (2014) A Practical Accounting Approach for Heritage Assets under Accrual Accounting: With Special Focus on Egypt, German University in Cairo (GUC) 13. Hood, C. (1991),“A Public Management for Ail Seasons?”, Public Administration (1991) pp. 3-19. 14. Hood, C. (1995), “The „New Public Management‟ in the 1980‟s: variations on a theme”, Accounting, Organizations and Society, Vol. 20, No. 2/3, pp. 93-109. 15. Hooper, K.C. and Kearins, K.N. (2005), “Knowing the price of everything and the value of nothing: Accounting for heritage assets”, Accounting, Auditing and Accountability Journal, 62 (4), 181-184. 16. IFAC-IPSASB, (2006), “Accounting for heritage assets under the accrual accounting basis of accounting”, Consultation paper, February, 2006. 17. Mautz, R.K. (1988), “Editorial: monuments, mistakes and opportunities”, Accounting Horizons, Vol. 2 No. 2, pp. 123-8. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 549 18. Micallef, F. and Peirson, G. (1997), “Financial reproting of cultural, heritage, scientific and community collections”, Australian Accounting Review, 7 (13), 31-7. 19. Ouda, H. (2005) Transition to Accrual Accounting in the Public Sector of Developed and Developing Countries: Problems and Requirements, With special focus on the Netherlands and Egypt, p.405, Universal Press, Veenendaal, the Netherlands. 20. Pallot, J. (1990), “The nature of public sector assets: a response to Mautz”, Accounting Horizons, Vol. 4 No. 2, pp. 79-85. 21. Pallot, J. (1992), “Elements of a theoretical framework for public sector accounting”, Accounting, Auditing & Accountability Journal, Vol. 5 No. 1, pp. 38-59. 22. Rowles, T. (1991), “Infrastructure and heritage asset accounting”, Australian Accountant, 61(6), 69-74. 23. Rowles, T. (1992), “Financial reporting on infrastructure and heritage assets by public sector entities”, AARf Discussion paper 17, Australian accounting research foundation, Melbourne. 24. Stanton, P.J. and Stanton, P.A. (1997), “Governmental accounting for heritage assets: economic, social implications”, International Journal of Social Economics, Vol. 24, No. 7, pp. 988- 1006. 25. Strőm, S. (1997), “Accounting for assets in public sector – Ifs and Hows, unpublished paper, Stockholm, Sweden, April 1997. 26. Wild, S. (2013), “Accounting for Heritage, Cultural and community Assets- An Alternative Metrics from a New Zealand Maori education Institution”, Australasian Accounting Business and Finance Journal (AABFJ). 7(1), 2013, 3-22. STUDYING THE APPROPRIATION METHODOLOGY OF ACTUAL ACCOUNTING FOR HERITAGE ASSETS ABSTRACT Heritage asset is a special property of historical, artistic, technological, geographic and environmental characteristics. It is a valuable asset with hundreds of years. It is difficult to determine the value, many heritage assets are priceless. However, heritage assets are particularly significant in the development of the non-smoke industry (tourism). The accounting of heritage assets will change the mindset in managing and preserving heritage assets, bring benefit the country or the organization that owns them. In recent years, there have been many studies to include these cultural assets in annual financial reports, but the measurement of the value of heritage assets is very difficult. Currently, the current accounting approach to heritage assets does not meet the need to provide useful information to stakeholders. The following article will give introductions the practical accounting approach to heritage assets that seeks to determine whether there are legal, cultural or social constraints on the treatment of heritage asset, how does the estate accounting treatment work on the performance report and how does it affect the reliability of the information presented in the financial statements. Keywords: heritage assets, practical accounting approach, financial reports, useful information
File đính kèm:
- nghien_cuu_phuong_phap_tiep_can_ke_toan_thuc_te_doi_voi_tai.pdf