Nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết trong trường hợp thay đổi thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp

Ngày 9/3/2018, Việt Nam chính thức ký kết

Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái

Bình Dương (Comprehensive and Progressive

Agreement for Trans-Pacific Partnership

(CPTPP)), cùng với đó là hàng loạt cải cách thuế

liên quan, đặc biệt là những chính sách thuế suất

và ưu đãi thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp

cho các lĩnh vực công nghệ mới và xu hướng giảm

thuế suất là tất yếu và phù hợp với tiến trình của

các quốc gia Châu Á [9]. Điều này kéo theo những

hành vi quản trị của doanh nghiệp cũng sẽ thay

đổi theo trong đó có hành vi điều chỉnh lợi nhuận

của doanh nghiệp.

Hành vi điều chỉnh lợi nhuận của doanh

nghiệp được đề cập đầu tiên trong nghiên cứu của

Hepworth (1953) khi chỉ ra hành vi và cách thức

mà nhà quản trị sử dụng để san đều lợi nhuận giữa

các năm nhằm giảm mức độ đánh giá rủi ro của nhà

đầu tư đối với doanh nghiệp [7], [8]. Đây được xem

là khởi đầu cho khái niệm về hành vi điều chỉnh

lợi nhuận dựa trên cơ sở dồn tích.

Nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết trong trường hợp thay đổi thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp trang 1

Trang 1

Nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết trong trường hợp thay đổi thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp trang 2

Trang 2

Nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết trong trường hợp thay đổi thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp trang 3

Trang 3

Nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết trong trường hợp thay đổi thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp trang 4

Trang 4

Nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết trong trường hợp thay đổi thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp trang 5

Trang 5

Nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết trong trường hợp thay đổi thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp trang 6

Trang 6

Nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết trong trường hợp thay đổi thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp trang 7

Trang 7

Nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết trong trường hợp thay đổi thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp trang 8

Trang 8

Nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết trong trường hợp thay đổi thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp trang 9

Trang 9

pdf 9 trang baonam 9620
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết trong trường hợp thay đổi thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết trong trường hợp thay đổi thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp

Nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết trong trường hợp thay đổi thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp
112
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 39 (08-2019)
NGHIÊN CỨU HÀNH VI ĐIỀU CHỈNH LỢI NHUẬN 
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NIÊM YẾT TRONG TRƯỜNG HỢP THAY ĐỔI
THUẾ SUẤT THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP
 y Trương Thùy Vân(*)
Tóm tắt
Với mục tiêu kiểm tra mối liên hệ giữa hành vi điều chỉnh lợi nhuận của doanh nghiệp niêm yết 
trong trường hợp thay đổi thuế suất, nghiên cứu dựa vào mô hình của Kothari và các cộng sự (2005) 
để tính toán và kiểm tra hành vi điều chỉnh lợi nhuận của doanh nghiệp niêm yết (tăng, giảm hay không 
có điều chỉnh lợi nhuận). Kết quả nghiên cứu trên 39 doanh nghiệp niêm yết trong thời gian từ 2007 
đến 2015 cho thấy, tất cả các doanh nghiệp đưa vào mẫu đều có hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Hành vi 
điều chỉnh tăng nhiều hơn giảm nhưng quy mô điều chỉnh thấp hơn. Tiếp tục sử dụng mô hình dữ liệu 
bảng để kiểm tra ảnh hưởng của thay đổi thuế suất đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận, kết quả cho thấy 
việc thay đổi thuế suất có ảnh hưởng đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận nhưng bằng chứng đưa ra chưa 
thật sự rõ ràng.
Từ khóa: Điều chỉnh lợi nhuận, doanh nghiệp niêm yết, thuế thu nhập doanh nghiệp.
1. Đặt vấn đề
Ngày 9/3/2018, Việt Nam chính thức ký kết 
Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái 
Bình Dương (Comprehensive and Progressive 
Agreement for Trans-Pacific Partnership 
(CPTPP)), cùng với đó là hàng loạt cải cách thuế 
liên quan, đặc biệt là những chính sách thuế suất 
và ưu đãi thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 
cho các lĩnh vực công nghệ mới và xu hướng giảm 
thuế suất là tất yếu và phù hợp với tiến trình của 
các quốc gia Châu Á [9]. Điều này kéo theo những 
hành vi quản trị của doanh nghiệp cũng sẽ thay 
đổi theo trong đó có hành vi điều chỉnh lợi nhuận 
của doanh nghiệp. 
Hành vi điều chỉnh lợi nhuận của doanh 
nghiệp được đề cập đầu tiên trong nghiên cứu của 
Hepworth (1953) khi chỉ ra hành vi và cách thức 
mà nhà quản trị sử dụng để san đều lợi nhuận giữa 
các năm nhằm giảm mức độ đánh giá rủi ro của nhà 
đầu tư đối với doanh nghiệp [7], [8]. Đây được xem 
là khởi đầu cho khái niệm về hành vi điều chỉnh 
lợi nhuận dựa trên cơ sở dồn tích.
Theo lý thuyết đại diện (Agency theory) được 
phát triển bởi Jensen & Meckling (1976), nhà quản 
lý sẽ có những biện pháp tác động vào thông tin 
công bố theo hướng có lợi cho doanh nghiệp nhất, 
trong khi các tổ chức bên ngoài như cơ quan thuế 
lại tìm cách để tối đa khoản thu cho nhà nước trong 
đó có chi phí tuân thủ về thuế. Bên cạnh đó, theo lý 
thuyết chi phí chính trị, những thay đổi trong chính 
sách của nhà nước (các chính sách thuế) sẽ ảnh 
hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp, từ đó dẫn 
đến khả năng nhà quản trị sử dụng các biện pháp kế 
toán nhằm tăng hoặc giảm lợi nhuận doanh nghiệp 
sao cho có lợi cho doanh nghiệp nhất [10]. Từ hai 
lý thuyết cơ bản nêu trên, có thể thấy những thay 
đổi trong chính sách thuế sẽ tác động đến hành vi 
điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản trị sao cho có 
lợi nhất. Một trong những biểu hiện của thay đổi 
chính sách thuế đó là về tỷ suất thuế thu nhập doanh 
nghiệp danh nghĩa (Statutory Tax Rate). Xét về mặt 
lý thuyết, khi thay đổi tỷ suất thuế danh nghĩa theo 
hướng giảm tỷ suất thuế thì lợi nhuận ở thời điểm 
trước thay đổi thuế suất sẽ được điều chỉnh giảm 
xuống và sẽ điều chỉnh tăng lên sau thời điểm thay 
đổi thuế suất.
Như vậy, xét về mặt lý thuyết, khi có sự thay 
đổi trong chính sách thuế sẽ tác động đến hành vi 
điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản trị trong doanh 
nghiệp. Để kiểm chứng điều này, nghiên cứu sẽ sử 
dụng phương pháp định lượng thông qua mô hình 
hồi quy nhằm kiểm tra các giả thuyết về ảnh hưởng 
của thay đổi thuế suất đến hành vi điều chỉnh lợi 
nhuận (xem xét hành vi điều chỉnh lợi nhuận dựa 
trên cơ sở dồn tích) của các doanh nghiệp niêm yết 
trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
2. Cơ sở lý thuyết
Cơ sở kế toán dồn tích là một trong các nguyên (*) Trường Đại học Quảng Bình.
113
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 39 (08-2019)
tắc kế toán cơ bản nhất chi phối các phương pháp 
kế toán cụ thể trong kế toán. Theo đó, mọi giao dịch 
kinh tế liên quan đến tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn 
chủ sở hữu, doanh thu và chi phí được ghi nhận tại 
thời điểm phát sinh giao dịch, không quan tâm đến 
thời điểm thực tế thu hoặc chi tiền [1]. Vì việc ghi 
nhận doanh thu và chi phí có ảnh hưởng quyết định 
đến báo cáo lợi nhuận của doanh nghiệp trong một 
kỳ, cơ sở kế toán dồn tích được xem là một nguyên 
tắc chính yếu đối với việc xác định lợi nhuận của 
doanh nghiệp. Lợi nhuận theo cơ sở dồn tích là 
phần chênh lệch giữa doanh thu và chi phí, từ đó, 
báo cáo tài chính nói chung và báo cáo kết quả hoạt 
động kinh doanh nói riêng phải được lập trên cơ sở 
dồn tích. Điều này mang lại cơ hội cho nhà quản 
trị thực hiện hành động quản trị lợi nhuận thông 
qua các giao dịch không bằng tiền nhằm đạt được 
một mục tiêu nào đó. Trong khi đó, kế toán theo 
cơ sở tiền được sử dụng để  ... bbe (2010); 
Avi-Yonah&Lahav (2011); 
Armstrong et al (2012)
116
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 39 (08-2019)
4 Quy mô A Kiểu số Giá trị tổng tài sản của doanh nghiệp đầu kỳ
Tran (1997); Lin et al 
(2014)
5 Tài sản cố định FA Kiểu số Là tỷ lệ của TSCĐ thuần chia cho tổng tài sản đầu kỳ
Crabbe (2010); Dyreng et 
al (2010)
6 Chi phí thuế Taxfee Kiểu số Xác định bằng cách lấy chi phí thuế chia cho tổng tài sản
Cazier et al (2010); 
Armstrong et al (2012); 
Crabbe (2010)
7 Đòn bẫy tài chính Leverage Kiểu số
Xác định bằng cách lấy giá trị 
nợ dài hạn chia tổng tài sản 
đầu kỳ
 Dyreng et al (2010); 
Crabbe (2010); Armstrong 
et al, 2012; Tang (2015); 
Lin et al (2014)
8 Năm có biến động thuế suất Year Nhị phân
Biến year nhận giá trị 1 nếu 
năm quan sát có sự thay đổi về 
thuế suất và bằng 0 nếu không 
có thay đổi
Kiểm tra sự thay đổi thuế 
suất ảnh hưởng như thế 
nào đến biến dồn tích
9 Thời gian 2008 → 2016 Phân loại
Có 9 biến giả đại diện cho 10 
năm nghiên cứu, nhận giá trị 1 
nếu thuộc năm t và 0 nếu khác
Kiểm tra sự thay đổi theo 
thời gian
Nguồn: Tác giả tổng hợp.
4. Kết quả nghiên cứu 
Tính toán biến dồn tích và kiểm tra hành vi điều 
chỉnh lợi nhuận của các doanh nghiệp trong mẫu.
Khi chạy mô hình 3 cho từng doanh nghiệp 
trong mẫu để tính toán biến NDA của tất cả 39 
doanh nghiệp, chỉ có 11 doanh nghiệp có các hệ 
số giải thích được độ biến thiên của NDA, đảm 
bảo ý nghĩa thống kê (sig 
< 0,1), còn lại 28 doanh 
nghiệp trong mẫu không 
đảm bảo ý nghĩa thống kê. 
Để phục vụ cho việc 
tính toán biến dồn tích 
- DA, 28 doanh nghiệp 
không đảm bảo ý nghĩa 
thống kê khi tính toán các 
hệ số α sẽ không được sử 
dụng để tính toán biến 
DA. Còn lại 11 doanh 
nghiệp sẽ được tính toán 
biến DA (bảng 2). 
Kết quả tính toán 
biến dồn tích được tiến 
hành theo phương trình 
4 được tổng hợp cho 390 
quan sát và theo năm được 
trình bày trong bảng 3. 
Theo bảng 3 có thể thấy 
chênh lệch điều chỉnh lợi nhuận qua các năm không 
đáng kể, tuy nhiên có thể thấy có sự thay đổi trong 
số lượng các quan sát có giá trị biến dồn tích dương 
giảm từ 61,64% xuống 58,97% năm 2010, 53,85% 
năm 2011, 2012 và 46,15% năm 2013; đến năm 
2014 tỷ lệ này lại tăng lên 61,54% và các năm sau 
đều tăng. 
Bảng 3. Tổng hợp các doanh nghiệp có hành vi điều chỉnh lợi nhuận 
qua các năm
Năm
Số doanh 
nghiệp có 
hành vi 
điều chỉnh 
lợi nhuận
Điều chỉnh 
lợi nhuận dương
Điều chỉnh 
lợi nhuận âm
Tần số Tần suất (%) Tần số
Tần suất 
(%)
2007 39 25 64,10 14 35,90
2008 39 26 66,67 13 33,33
2009 39 24 61,54 15 38,46
2010 39 23 58,97 16 41,03
2011 39 21 53,85 18 46,15
2012 39 21 53,85 18 46,15
2013 39 18 46,15 21 53,85
2014 39 24 61,54 15 38,46
2015 39 22 56,41 17 43,59
2016 39 25 64,10 14 35,90
Tổng 390 229 - 161 -
 Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả trên MS. Excel.
117
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 39 (08-2019)
Qua kết quả này có thể thấy, mặc dù sự thay 
đổi không rõ rệt, nhưng vẫn có sự giảm xuống trong 
hành vi điều chỉnh lợi nhuận dương và hành vi điều 
chỉnh lợi nhuận âm tăng lên từ năm 2009 (thời điểm 
này có sự thay đổi thuế suất từ 28% xuống 25%); 
đến năm 2014 (năm có sự điều chỉnh thuế suất từ 
25% xuống 22%) xu hướng này lại có sự thay đổi, 
điều chỉnh lợi nhuận dương giảm xuống từ 2014 
sang 2015 và lại tăng lên từ 2015 sang 2016 (thời 
điểm điều chỉnh giảm thuế từ 22% xuống 20%) 
ngược lại điều chỉnh lợi nhuận âm tăng lên từ 2014 
sang 2015 và lại giảm từ 2015 sang 2016. 
Tiếp tục xem xét đối với 11 doanh nghiệp 
trình bày trong bảng 2, bảng 4 tổng hợp kết quả 
tính toán biến dồn tích đối với 110 quan sát có kết 
quả tổng hợp như sau:
Bảng 4. Tổng hợp kết quả DA của các doanh nghiệp 
theo từng năm
Chỉ tiêu
Số lượng 
doanh 
nghiệp/
năm 
(quan sát)
Tần suất 
(%)
Giá trị tối đa, 
trung bình, tối 
thiểu 
(triệu đồng)
DA > 0 74 67,27 1.907.911 (max)
DA = 0 0 0 - 264.047 (medium)
DA < 0 36 32,73 -8.092.344 (min)
Tổng 110 100 -
Nguồn: Tổng hợp từ MS. Excel.
Kết quả tổng hợp cho thấy, có 74 quan sát có 
DA dương (chiếm 67,27%), trong khi đó chỉ có 36 
quan sát có DA âm (chiếm 32,73%) với giá trị tối 
đa lên tới 1.907.911 triệu đồng và giá trị điều chỉnh 
giảm lên tới -8.092.344 triệu đồng. 
Qua kết quả trên, có thể kết luận bác bỏ giả 
thuyết H01, hầu như tất cả các doanh nghiệp trong 
mẫu đều có hành vi quản trị lợi nhuận. Hành vi 
điều chỉnh lợi nhuận tăng chiếm đa số, tuy nhiên 
với lượng điều chỉnh thấp hơn so với hành vi điều 
chỉnh lợi nhuận giảm của các doanh nghiệp. Hình 
1 và hình 2 cho thấy đa số các doanh nghiệp điều 
chỉnh lợi nhuận tăng, với mức độ khác nhau theo 
các năm, một số điều chỉnh lợi nhuận giảm, xét 
về mối liên hệ, doanh nghiệp sẽ có xu hướng điều 
chỉnh lợi nhuận giảm xuống vào trước thời điểm 
thay đổi thuế suất và có xu hướng điều chỉnh lợi 
nhuận tăng lên sau thời điểm thay đổi thuế suất. Mặt 
khác dấu hiệu tăng giảm qua các năm được trình 
bày trong bảng 3 và bảng 4 cũng thể hiện được có 
căn cứ để chứng minh cho việc các doanh nghiệp 
có xu hướng điều chỉnh lợi nhuận tăng trước thời 
điểm thay đổi thuế suất và điều chỉnh lợi nhuận 
giảm sau thời điểm này.
Nguồn: STATA 14.0.
Hình 2. Đường đồ thị biểu diễn phân phối biến dồn 
tích theo năm
Kiểm tra sự tác động của thay đổi thuế suất 
đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận của doanh nghiệp
Từ mô hình đề xuất - mô hình 5, nghiên cứu 
kiểm tra ảnh hưởng của các biến độc lập đến biến 
phụ thuộc Accrual, kết quả được trình bày trong 
bảng 5: 
Bảng 5. Kết quả chạy mô hình dữ liệu bảng
Accual Coef. Std. Err. z P>|z|
ROA -0,3125152 0,5167875 -0,60 0,545 
ETR -0,2065722 0,3022946 -0,68 0,494
At1 -5,97e-08 1,67e-08 -3,57 0,000
FA -0,7656902 0,2252776 -3,40 0,001
Taxfee 2,09372 2,683327 0,78 0,435
Leverage 2,011661 0,4662475 4,31 0,000
Year -0,2879504 0,1206806 -2,39 0,017
118
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 39 (08-2019)
Năm
- 2008 -0,193754 0,1109562 -1,75 0,081 
- 2009 -0,0487917 0,1163664 -0,42 0,675
- 2010 -0,2803269 0,1124414 -2,49 0,013
- 2011 -0,2625793 0,1134042 -2,32 0,021
- 2012 -0,2522078 0,1176446 -2,14 0,032
- 2013 -0,2756833 0,1185927 -2,32 0,020 
- 2014 0,0221095 0,1095017 0,20 0,840
- 2015 -0,2917028 0,1199987 -2,43 0,015
- 2016 0 (omitted)
_cons | 0,5748739 0,1246392 4,61 0,000
sigma_u | 0,09430077
 sigma_e | 0,20734309
 rho | 0,17139523 (fraction of variance due to u_i)
 Random-effects GLS regression 
Group variable: DN1 
 Number of obs = 110
Number of groups = 11
 R-sq = 0,7009
Prob > chi2 = 0,0000Wald chi2(15) = 52,92
corr(u_i, X) = 0 (assumed) 
Nguồn: Kết quả phân tích từ STATA 14.0.
Qua bảng 5 ta thấy, mô hình được đánh giá 
theo tác động ngẫu nhiên và có R2 bằng 70,09% 
và P-value bé hơn 0,05 chứng tỏ các biến trong 
mô hình giải thích được 70,09% sự biến thiên của 
biến dồn tích (Accrual) đảm bảo ý nghĩa thống kê. 
Trong đó biến thể hiện sự biến động thuế suất có 
tác động nghịch chiều với biến dồn tích, khi có 
biến động tăng lên 1 đơn vị thì biến dồn tích giảm 
xuống 0,2879504 với p-value bằng 0,017 (bé hơn 
0,05) đảm bảo ý nghĩa thống kê.
Đa số các biến còn lại trong mô hình đều 
tác động nghịch chiều đến biến dồn tích, chỉ có 
biến Taxfee và Leverage là tác động thuận chiều. 
Ngoài ra, chỉ có biến A, FA, Levarage và Year là 
đảm bảo ý nghĩa thống kê đối với mô hình với 
p-value < 0,05, các biến còn lại mặc dù p-value 
> 0,05 nhưng vẫn được giữ nguyên trong mô 
hình để đánh giá kết quả (do khi loại các nhóm 
biến này làm cho ý nghĩa thống kê của mô hình 
không đảm bảo). Khi xem xét các biến giả theo 
năm cho thấy, hệ số độ dốc biến thiên đa số là 
tác động nghịch chiều với p-value < 0,05, chỉ có 
các năm 2008, 2009, 2014, và 2016 là không xem 
xét, các năm này rơi vào những thời điểm có sự 
thay đổi thuế suất.
Như vậy, qua kết quả hồi quy của mô hình, có 
thể kết luận bác bỏ giả thuyết H02, kết luận là việc 
thay đổi thuế suất có làm ảnh hưởng đến hành vi 
điều chỉnh lợi nhuận của doanh nghiệp.
5. Kết luận và kiến nghị
5.1. Kết luận
Với mục tiêu kiểm tra mối liên hệ giữa hành 
vi điều chỉnh lợi nhuận của doanh nghiệp trong 
trường hợp thay đổi thuế suất của các doanh nghiệp 
niêm yết, nghiên cứu đã đạt được những kết quả 
nhất định. 
Thứ nhất, đã vận dụng và tính toán được các 
giá trị dồn tích của các doanh nghiệp niêm yết qua 
các năm, từ kết quả này đã chứng minh việc vận 
dụng mô hình của Kothari et al (2005) để tính toán 
hành vi điều chỉnh lợi nhuận của doanh nghiệp ở 
Việt Nam là phù hợp, kết quả cũng đã cho thấy có 
11 doanh nghiệp đảm bảo ý nghĩa thống kê khi kiểm 
tra biến dồn tích bằng việc chạy mô hình trong 10 
năm (từ 2007 đến 2015). Kết quả cũng chỉ ra các 
doanh nghiệp đều có hành vi điều chỉnh lợi nhuận 
dương hoặc âm, số quan sát có hành vi điều chỉnh 
lợi nhuận dương chiếm ưu thế hơn nhưng quy mô 
điều chỉnh lợi nhuận âm lại lớn hơn. 
119
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 39 (08-2019)
Thứ hai, nghiên cứu đã kiểm tra liên hệ giữa 
biến dồn tích với năm có biến động thuế suất 
và các biến liên quan đến kiểm soát của doanh 
nghiệp và đi đến kết luận là hành vi điều chỉnh 
lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết có liên 
quan đến thay đổi thuế suất. Kết quả cho thấy 
một số các nhân tố liên quan đến kiểm soát doanh 
nghiệp có ý nghĩa thống kê như: tổng tài sản, tài 
sản cố định hữu hình và năm có biến động thuế 
suất là các yếu tố làm giảm biến dồn tích (hành 
vi điều chỉnh lợi nhuận giảm), trong khi đòn bẫy 
tài chính có tác động điều chỉnh tăng biến dồn 
tích. Kiểm tra tác động của thời gian thì các năm 
có biến động thuế suất lại có những biểu hiện bất 
thường hơn so với các năm không có biến động 
thuế suất, mặc dù bằng chứng cụ thể về mức độ 
ảnh hưởng chưa được chỉ rõ, nhưng mối liên hệ 
giữa năm có thay đổi thuế suất với việc tăng giảm 
biến dồn tích là thấy rõ.
Tuy nhiên, nghiên cứu vẫn tồn tại một số 
khoảng trống cần khắc phục. Đầu tiên phải kể đến 
là việc chạy mô hình 3 trong 10 năm là chưa đảm 
bảo có số lượng quan sát yêu cầu trong thống kê 
(N>=30); tiếp theo là việc đề xuất mô hình 9 dựa 
trên những mô hình tác động đối với các biến kế 
toán liên quan, chưa thật sự có mô hình được kiểm 
chứng, vì vậy việc kiểm định mô hình và xây dựng 
mô hình là cần thiết trước khi sử dụng để phân tích. 
Ngoài ra chưa kiểm tra được tác động cố định và 
kiểm định Hausman về các mô hình tác động ngẫu 
nhiên và cố định đối với mô hình dữ liệu bảng do 
quy mô nhóm chưa đủ (groups >=12).
5.2. Kiến nghị giải pháp
Với những kết quả đã nên, có thể thấy việc 
kiểm soát lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm 
yết cần thắt chặt hơn trong tương lai, đặc biệt là 
trong những trường hợp có biến động thuế suất 
của Nhà nước. Tuy nhiên, xét về mức thuế suất của 
Việt Nam so với mặt bằng chung các nước Châu 
Á thì tỷ lệ này còn cao, điều này không tránh khỏi 
việc các doanh nghiệp đối phó nhằm hạn chế các 
khoản phải nộp nhà nước hoặc vì mục đích thu 
hút vốn đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, hậu quả 
từ các hành vi điều chỉnh lợi nhuận có thể gây ra 
tình trạng mất cân đối về thông tin khi công bố gây 
khó khăn cho nỗ lực minh bạch và phát triển thị 
trường vốn của Nhà nước. Để hạn chế tình trạng 
này, cần thắt chặt thông tin và quy định của Nhà 
nước về công bố thông tin trên thị trường chứng 
khoán, hoàn thiện các quy định, chế độ, chuẩn 
mực kế toán và báo cáo tài chính theo chuẩn mực 
báo cáo tài chính quốc tế. Thúc đẩy vai trò của các 
tổ chức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán nhằm hỗ 
trợ trong việc kiểm tra thông tin công bố trên thị 
trường chứng khoán. 
Ngoài ra, các đơn vị kiểm toán, thanh tra 
thuế và các tổ chức nghề nghiệp kế toán cần phát 
huy vai trò trách nhiệm của mình trong việc minh 
bạch, công khai và trung thực trong việc báo cáo 
tài chính. Tránh các hành vi điều chỉnh lợi nhuận 
quá cao dẫn đến đánh giá sai lệch thông tin và tình 
hình hiện tại của doanh nghiệp, gây ảnh hưởng đến 
nhà đầu tư và các đối tượng sử dụng thông tin trên 
báo cáo tài chính của doanh nghiệp./
Tài liệu tham khảo
[1]. Bộ Tài chính (2006), Hệ thống Chuẩn mực kế toán Việt Nam, NXB Tài chính, Hà Nội.
[2]. DeAngelo, L. (1986), “Accounting numbers as market valuation subsitutes: A study of 
management buyouts of public stockholders”, The Accounting review, (Vol 61), pp. 400-420.
[3]. Dechow, P. M., Sloan, R. G., & Sweeney, A. P. (1995), “Detecting earnings management”, 
Accounting review, (Vol 70), pp. 193-225.
[4]. Nguyễn Anh Hiền & Phạm Thanh Trung (2015), “Kiểm định và nhận diện mô hình nghiên cứu 
hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các công ty niêm yết tại Việt Nam”, Tạp chí phát triển Khoa học và 
Công nghệ, (Số 18(3)), tr. 7-17.
[5]. Jones, J. (1991), “Earnings management during import relief investigations”, Journal of 
accounting research, (Vol 29(2)), pp. 193-228.
[6]. Kothari, S. P., Leone, A. J. and Wasley, C. E. (2005), “Performance matched discretionary 
accrual measures”, Journal of accounting and economics, (Vol 39(1)), pp. 163-197.
120
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 39 (08-2019)
[7]. Nguyễn Thị Phượng Loan & Nguyễn Minh Thao (2016), “Nhận diện hành vi quản trị lợi nhuận 
thực tế của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam”, Tạp chí phát triển Khoa 
học và Công nghệ, (Số 19(4)), tr. 81-93.
[8]. Nguyễn Thị Uyên Phương & Nguyễn Công Phương (2014), “Nghiên cứu hành động quản trị 
lợi nhuận trong trường hợp phát hành thêm cổ phiếu của các công ty niêm yết trên thị trường chứng 
khoán Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Kinh tế, (Số 2(06)), tr.91-101.
[9]. Lê Quang Thuận (2013), “Xu hướng cải cách thuế thu nhập doanh nghiệp trên thế giới”, Tạp 
chí Tài chính, (Số 04), 
cach-thue-thu-nhap-doanh-nghiep-tren-the-gioi-24777.html.
[10]. Watts, R. L., & Zimmerman, J. L. (1978), “Towards a positive theory of the determination of 
accounting standards”, Accounting review, (Vol 53(1)), pp. 112-134.
INVESTIGATING THE PROFIT MANAGEMENT OF LISTED ENTERPRISES IN 
RESPONSE TO CORPORATE TAX RATE CHANGE
Summary
 Investigating the profi t management of listed enterprises in response to changes in corporate tax 
rate, this study was based on Kothari et al. (2005)’s model for calculating and examining their profi t 
management (increase, decrease or no adjustment). On collected data from 39 listed enterprises during 
the 2007 – 2015 period, the results show that all of the studied enterprised manipulated their profi t 
management with more increase than decrease but lower scale. Then, using panal data to examine the 
effects of tax rate change on profi t management, it shows that tax rate change affected profi t management, 
but not very evident. 
Keywords: Profi t management, listed enterprises, corporate tax rate.
Ngày nhận bài: 11/4/2018; Ngày nhận lại: 18/6/2018; Ngày duyệt đăng: 21/6/2019.

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_hanh_vi_dieu_chinh_loi_nhuan_cua_cac_doanh_nghiep.pdf