Nghiên cứu giải pháp kỹ thuật trữ nước ngọt cho phục vụ nuôi trồng thủy sản vùng ven biển đồng bằng sông Cửu Long

Khai thác nước ngầm quá mức phục vụ nuôi trồng thủy sản và cấp nước sinh hoạt ngày

càng lớn đang là thách thức cho các tỉnh ven biển vùng đồng bằng sông Cửu Long, đây là nguyên

nhân chính làm cạn kiệt và hạ thấp nguồn tài nguyên nước ngầm, gây sụt lún đất cho vùng đồng

bằng sông Cửu Long ngày càng trũng thấp. Vì vậy, mục tiêu chính của nghiên cứu này tập trung

vào vấn đề về giải quyết nguồn nước cho phát triển thủy sản bằng việc khai thác sử dụng nước

mưa, trữ nước mưa phục vụ cho nuôi trồng thủy sản vùng ven biển đồng bằng sông Cửu Long. Kết

quả nghiên cứu đã xác định rằng, tổng lượng nước cần cấp bù cho 1 ha diện tích nuôi trồng thủy

sản dao động trong khoảng 2200 m3/ha đến 3900 m3/ha, lượng nước ngọt cần cấp bù sẽ dao động

trong khoảng 1100 m3/ha đến 1950 m3/ha, bình quân là 1656 m3/ha. Như vậy 1 ha nuôi trồng thủy

sản cần bố trí một diện tích vào khoảng 600 m2 đến 1100 m2 để xây dựng bể chứa, tương đương với

6% đến 11% diện tích khu nuôi. Kết quả nghiên cứu cung cấp cho các nhà quy hoạch, quản lý đưa

ra chính sách và chiến lược khai thác và sử dụng nguồn nước mưa nhằm phát triển bền vững vùng

nuôi trồng thủy sản và chống lún sụt lún đất do tác động việc khai thác nước ngầm quá mức vùng

ven biển đồng bằng sông Cửu Long.

Nghiên cứu giải pháp kỹ thuật trữ nước ngọt cho phục vụ nuôi trồng thủy sản vùng ven biển đồng bằng sông Cửu Long trang 1

Trang 1

Nghiên cứu giải pháp kỹ thuật trữ nước ngọt cho phục vụ nuôi trồng thủy sản vùng ven biển đồng bằng sông Cửu Long trang 2

Trang 2

Nghiên cứu giải pháp kỹ thuật trữ nước ngọt cho phục vụ nuôi trồng thủy sản vùng ven biển đồng bằng sông Cửu Long trang 3

Trang 3

Nghiên cứu giải pháp kỹ thuật trữ nước ngọt cho phục vụ nuôi trồng thủy sản vùng ven biển đồng bằng sông Cửu Long trang 4

Trang 4

Nghiên cứu giải pháp kỹ thuật trữ nước ngọt cho phục vụ nuôi trồng thủy sản vùng ven biển đồng bằng sông Cửu Long trang 5

Trang 5

Nghiên cứu giải pháp kỹ thuật trữ nước ngọt cho phục vụ nuôi trồng thủy sản vùng ven biển đồng bằng sông Cửu Long trang 6

Trang 6

Nghiên cứu giải pháp kỹ thuật trữ nước ngọt cho phục vụ nuôi trồng thủy sản vùng ven biển đồng bằng sông Cửu Long trang 7

Trang 7

pdf 7 trang baonam 6160
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu giải pháp kỹ thuật trữ nước ngọt cho phục vụ nuôi trồng thủy sản vùng ven biển đồng bằng sông Cửu Long", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu giải pháp kỹ thuật trữ nước ngọt cho phục vụ nuôi trồng thủy sản vùng ven biển đồng bằng sông Cửu Long

Nghiên cứu giải pháp kỹ thuật trữ nước ngọt cho phục vụ nuôi trồng thủy sản vùng ven biển đồng bằng sông Cửu Long
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 53 (6/2016) 67
BÀI BÁO KHOA HỌC 
NGHIÊN CỨU GIẢI PHÁP KỸ THUẬT TRỮ NƯỚC NGỌT 
CHO PHỤC VỤ NUÔI TRỒNG THỦY SẢN VÙNG VEN BIỂN 
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG 
Tô Quang Toản1, Ngô Văn Quận2, Lại Tuấn Anh2 
Tóm tắt: Khai thác nước ngầm quá mức phục vụ nuôi trồng thủy sản và cấp nước sinh hoạt ngày 
càng lớn đang là thách thức cho các tỉnh ven biển vùng đồng bằng sông Cửu Long, đây là nguyên 
nhân chính làm cạn kiệt và hạ thấp nguồn tài nguyên nước ngầm, gây sụt lún đất cho vùng đồng 
bằng sông Cửu Long ngày càng trũng thấp. Vì vậy, mục tiêu chính của nghiên cứu này tập trung 
vào vấn đề về giải quyết nguồn nước cho phát triển thủy sản bằng việc khai thác sử dụng nước 
mưa, trữ nước mưa phục vụ cho nuôi trồng thủy sản vùng ven biển đồng bằng sông Cửu Long. Kết 
quả nghiên cứu đã xác định rằng, tổng lượng nước cần cấp bù cho 1 ha diện tích nuôi trồng thủy 
sản dao động trong khoảng 2200 m3/ha đến 3900 m3/ha, lượng nước ngọt cần cấp bù sẽ dao động 
trong khoảng 1100 m3/ha đến 1950 m3/ha, bình quân là 1656 m3/ha. Như vậy 1 ha nuôi trồng thủy 
sản cần bố trí một diện tích vào khoảng 600 m2 đến 1100 m2 để xây dựng bể chứa, tương đương với 
6% đến 11% diện tích khu nuôi. Kết quả nghiên cứu cung cấp cho các nhà quy hoạch, quản lý đưa 
ra chính sách và chiến lược khai thác và sử dụng nguồn nước mưa nhằm phát triển bền vững vùng 
nuôi trồng thủy sản và chống lún sụt lún đất do tác động việc khai thác nước ngầm quá mức vùng 
ven biển đồng bằng sông Cửu Long. 
Các từ khóa: Thủy sản, khai thác nước ngầm, nước mưa, lún sụt đất. 
1. TỔNG QUAN1 
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) với dân 
số hơn 17,3 triệu dân, có diện tích nuôi trồng 
thủy sản đứng đầu cả nước cả về thủy sản nước 
mặn, lợ và ngọt, với tổng diện tích hơn 727 
nghìn ha (số liệu thống kê năm 2012). Trong 
điều kiện biến đổi khí hậu và nước biển dâng, 
các thay đổi về nhiệt độ, gia tăng dịch bệnh và ô 
nhiễm môi trường, khả năng cấp nước mặn và 
ngọt để pha loãng có thể làm ảnh hưởng trực 
tiếp đến việc nuôi trồng thủy sản. Thực tế cho 
thấy, đối với vùng nuôi trồng thủy sản công 
nghiệp, do thiếu nguồn nước ngọt để pha loãng 
người nuôi trồng thủy sản đã phải khai thác 
nước ngầm để pha loãng, hệ quả của việc khai 
thác nước ngầm quá mức đã làm cho đất bị lún, 
nếu cứ tiếp tục khai thác như hiện nay thì tác 
1 Viện Khoa học Thủy lợi Miền Nam 
2 Trường Đại học Thủy lợi 
động do đất lún sẽ là khó lường. Thực tế cho 
thấy, đã từ lâu người dân vùng đồng bằng sông 
Cửu Long đã có kinh nghiệm trữ nước mưa 
trong mùa mưa để chứa vào các chum, vại để 
phục vụ sinh hoạt theo qui mô gia đình. Nghiên 
cứu xây dựng hồ sinh thái của (Lê Sâm, 2006) 
còn phát triển hơn một bậc, trên cơ sở tận dụng 
nước mưa và nước lũ, trữ nước vào các hồ lớn 
nhằm phục vụ đa mục tiêu, vừa cấp nước sinh 
hoạt cho cụm dân cư, tạo cảnh quan môi trường 
sinh thái. Ngoài ra, do chưa có quy hoạch cấp 
nước chủ động cho nuôi trồng thủy sản vùng 
đồng bằng sông Cửu Long nói chung và ven 
biển nói riêng chất nước nước không tốt, nên 
người nuôi trồng đã khai thác nước ngầm quá 
mức, dẫn đến sự lún sụt đất rất nghiêm trọng ở 
đồng bằng. Theo kết quả nghiên cứu được công 
bố tháng 12/2012 của Norwegian Geotechnical 
Institute (NGI), chỉ riêng tỉnh Cà Mau đã có 
109.096 giếng khai thác nước ngầm đang hoạt 
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 53 (6/2016) 68
động, với lượng nước mỗi ngày tới 373.000m3. 
Trong khi lượng nước ngầm được bổ cập tự 
nhiên theo tính toán của các chuyên gia chỉ 
khoảng 100.000 m3/ngày, như vậy lượng nước 
ngầm thiếu hụt trung bình mỗi ngày là 
273.000m3. Đó là nguyên nhân chính gây ra lún 
sụt đất nghiêm trọng ở Cà Mau. Theo kết quả 
phân tích này các chuyên gia dự báo mức độ lún 
đất trong vùngở mức 1,9-2,8 cm/năm. Tuy 
nhiên theo kết quả thực đo của Liên đoàn Quy 
hoạch và điều tra nước Miền Nam, Việt Nam 
(DWRPIS, 2012), mức nước ngầm ở nhiều 
giếng vùng Bán đảo Cà Mau đã hạ thấp từ 10-
20m kể từ năm 1995 đến 2010 (bình quân mỗi 
năm MN ngầm hạ từ 0,66-1,33m), theo mức hạ 
MN ngầm này thì mặt đất vùng Cà Mau đã hạ 
thấp ở mức từ 30 đến 80 cm. Theo kết quả này, 
các chuyên gia phân tích và dự báo mức lún đất 
ở vùng có thể từ 3-7 cm/năm và nếu mức khai 
thác nước ngầm không thay đổi thì sau 50 năm 
nữa, mặt đất của vùng Cà Mau sẽ hạ thấp từ 120 
to 210 cm. Kết quả nghiên cứu sự biến động 
mực nước ngầm ở Tp Cần Thơ trong 8 năm 
(2000-2007) của các chuyên gia Đức đến từ hai 
trường đại học Bochum và Bonn cũngcho thấy: 
mực nước ngầm ở Tp. Cần Thơ mỗi năm giảm 
thấp 70cm, tương đương như cận dưới kết quả 
đo đạc của DWRPIS. 
Từ đó cho thấy giải quyết vần đề cấp nước 
ngọt chủ động cho vùng nuôi trồng thủy sản là 
một nhu cầu cấp bách tạo tiền đề cho sự phát 
triển bền vững vùng nuôi, đồng thời khắc phục 
được nguyên nhân chính gây lún sụt đất. Vì vậy, 
mục tiêu chính của nghiên cứu này tập trung 
vào vấn đề về giải quyết nguồn nước cho phát  ... UNDP, 2015), vì vậy về tổng thể đồng bằng thì 
tiềm năng nước lớn hơn nhiều so với nhu cầu. 
Tuy nhiên nước phân bố không đều trong năm: 
về mùa mưa, nước nhiều gây ngập lũ lên đến ½ 
diện tích đồng bằng; về mùa khô, nước về ít gây 
ảnh hưởng xâm nhập mặn vùng ven biển. Chất 
lượng nước mặt ở các vùng ven biển giai đoạn 
mùa mưa và đầu mùa khô là tốt, vì vậy có thể 
tích trữ nước từ giai đoạn này để sử dụng khi 
cần trong thời kì mùa khô được xem là cơ sở để 
đề xuất giải pháp này. 
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 53 (6/2016) 70
3.3. Giải pháp tích nước ngọt phục vụ nuôi 
trồng thủy sản 
a. Một số giả thiết để tính toán lượng trữ nước 
Tổng lượng nước yêu cầu cho nuôi trồng 
thủy sản là rất lớn, với diện tích ao nuôi là 1 ha, 
độ sâu mực nước trong ao duy trì ổn định là 1m 
đến 1,5m thì lượng nước cấp ban đầu cho ao đã 
vào khoảng 10.000 đến 15.000 m3/ha. Trong 
thời vụ nuôi trồng thủy sản phải bổ sung thêm 
một lượng nước: (i) nước cấp bù vào lượng 
nước thiếu hụt do bốc hơi và thấm nhằm duy trì 
mực nước, tạo môi trường nhiệt độ và nồng độ 
mặn trong ao ổn định (khoảng 2000 – 4000 
m3/ha); (ii) nước dùng để thay thế khi ao nuôi 
bị phú dưỡng (có thể đến 30% lượng nước 
trong ao). 
Tổng lượng nước cho 1 vụ nuôi trồng thủy 
sản có thể lên tới hơn 20.000 m3/ha, chính vì 
vậy khả năng trữ nước ngọt để đáp ứng tất cả 
các nhu cầu trên được xem là bất khả thi do 
lượng trữ quá lớn làm diện tích mất đất lớn 
(diện tích trữ tương đương với diện tích nuôi) và 
khả năng đảm bảo đủ nguồn nước trữ là khó. 
Nghiên cứu này chỉ xem xét khả năng đảm bảo 
cấp lượng nước ngọt để pha loãng nước mặn 
nhằm cấp bù vào lượng nước thiếu hụt trong 
quá trình nuôi, kết hợp các biện pháp khác như 
quản lý chặt chẽ lượng thức ăn và lượng tồn dư 
thức ăn để đảm bảo chất lượng nước ao nuôi 
được kiểm soát, hạn chế tối đa không phải thay 
thế nước ao trong vụ nuôi trồng. Trên cơ sở yêu 
cầu giải pháp, một số giả thiết được đưa ra là: 
(i) Ở thời điểm bắt đầu vụ nuôi trồng thủy 
sản có điều kiện thuận lợi đảm bảo nguồn cấp 
nước cả mặn lẫn ngọt từ hệ thống thủy lợi hiện 
hữu, không phải tích trữ lượng cấp này; 
(ii) Trong thời vụ nuôi từ tháng 1 đến tháng 
4, nguồn nước ngọt cần thiết để pha loãng 
không đảm bảo, cần chủ động nguồn cấp này để 
thay thế việc khai thác nước ngầm như hiện nay 
mà nó đã gây tác động bất lợi làm đất vùng 
đồng bằng bị lún; 
(iii) Lượng nước cần trữ để đảm bảo sản xuất 
ổn định được tính bằng lượng nước tối thiểu cần 
cấp bù trong thời vụ nuôi trồng, được tính bằng 
tổng lượng nước cần cấp bù cho ao nuôi là 
lượng thiếu hụt do bốc hơi trừ đi lượng mưa 
trong giai đoạn; 
(iv) Các lượng nước cần thay thế khác (thay 
nước ao nuôi do phú dưỡng...) không xem xét 
trong giải pháp trữ, cần hạn chế tối đa việc thay 
nước ao bằng các biện phát kiểm soát chất 
lượng nước ao từ nguồn cấp dinh dưỡng, kiểm 
soát lượng dư thức ăn triệt để nhằm hạn chế tối 
đa lượng nước cần trữ cũng như diện tích phục 
vụ trữ nước. 
(v) Lượng nước ngọt cần bổ sung trong thời 
vụ nuôi trồng bằng 50% lượng nước thiếu hut 
cần cấp bù để pha loãng nước mặn, 50% còn lại 
là nước mặn, nồng độ mặn ở nước cấp bù được 
giả thiết là 15g/l. 
4. KẾT QUẢ VÀ NHẬN XÉT 
4.1. Tính toán lượng trữ nước cho một đơn 
vị diện tích nuôi thủy sản 
Tính toán cân bằng nước cho 1 đơn vị diện 
tích nuôi trồng thủy sản để xác định lượng nước 
thiếu hụt cần cấp bù để luôn duy trì mức nước 
cần thiết cho nuôi trồng thủy sản. Trên cơ sở 
cân bằng nước mưa, nước bốc hơi và nước thấp, 
lượng cấp bù được tính như công thức (1). 
W = 10*(M-BH-TH)*A (1) 
Trong đó: 
W: là tổng lượng nước cần cấp bù cho 1 đơn 
vị diện tích (1 ha) 
M: là tổng lượng mưa trong giai đoạn nuôi 
trồng (mm) 
BH: là lượng bốc hơi mặt nước trong giai 
đoạn nuôi trồng (mm) 
TH: là lượng nước thấm trong giai đoạn nuôi 
trồng (mm) 
A: diện tích nuôi trồng (1 ha) 
10: đơn vị chuyển đổi để có được dung tích 
nước cần cấp bù là m3/ha 
Số liệu khí tượng (mưa, bốc hơi) trung bình 
tháng nhiều của các tỉnh theo các trạm Mỹ Tho 
(Tiền Giang), Bến Lức (Long An), Ba Tri (Bến 
Tre), Càng Long (Trà Vinh), Rạch Giá (Kiên 
Giang), Cà Mau, Bạc Liêu và Sóc Trăng, giai 
đoạn 1978-2011 được sử dụng để tính toán. Kết 
quả tính toán tổng lượng nước cấp bù được đưa 
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 53 (6/2016) 71
ra ở Bảng 4.1 (Cột 3), lượng nước ngọt cần trữ 
bằng 50% lượng nước cần cấp bù cho mỗi ha 
(Cột 4). 
Bảng 4.1. Lượng nước cần cấp bù cho 1 ha 
và theo các tỉnh vùng ven biển 
(1) (2) (3) (4) (5) (6)
1 Long An 3084 1542 8,9 13,7
2 Tiền Giang 3868 1934 14,5 28,0
3 Bến Tre 3916 1958 43,2 84,6
4 Trà Vinh 3780 1890 34,8 65,8
5 Kiên Giang 2866 1433 110,1 157,8
6 Sóc Trăng 3588 1794 64,4 115,5
7 Bạc Liêu 3206 1603 126,3 202,5
8 Cà Mau 2194 1097 296,2 324,9
Bình quân 3313 1656 Cộng: 993
TT Tỉnh
Tổng nước 
cấp bù cho 
1ha, W 
(m
3
/ha)
Nước 
ngọt cần 
cấp bù 
(m
3
/ha)
F thủy sản 
(1000ha)
Tổng lượng 
nước ngọt 
cấp bù cho 
thủy sản 
(triệu m3)
Kết quả cho thấy, tổng lượng nước cần cấp 
bù cho 1 ha diện tích nuôi trồng thủy sản dao 
động trong khoảng 2200 m3/ha đến 3900 m3/s, 
tương tự lượng nước ngọt cần cấp bù sẽ dao 
động trong khoảng 1100 m3/ha đến 1950 m3/ha, 
bình quân là 1656 m3/ha. Tổng lượng nước ngọt 
cần cấp bù cho toàn bộ diện tích thủy sản vùng 
ven biển là 993 triệu m3. Trong đó chủ yếu là 
Cà Mau và Bạc Liêu chiếm hơn 50% tổng lượng 
nước cần cấp. 
4.2. Kích thước bể chứa và tính diện tích 
giành cho trữ nước 
Trên cơ sở tính toán lượng nước cần cấp bù 
cho 1 đơn vị diện tích là 1ha nuôi trồng thủy sản 
như ở Bảng 4.1, nghiên cứu tính toán kích thước 
khu trữ và giải pháp trữ được lượng nước này. 
Căn cứ vào điều kiện địa hình, địa chất đất yếu 
ở ĐBSCL, nghiên cứu đề xuất xây dựng bể nửa 
nổi nửa chìm hình vuông có mái dốc m=2, cao 
trình đáy -3m, cao trình đỉnh bờ +2m. Bể được 
thiết kế chống thấm và bốc hơi. Căn cứ vào 
lượng nước ngọt cần trữ ở Bảng 4.1 (cột 4), kích 
thước bể thiết kế như đề xuất ở trên, diện tích 
mặt thoáng của bể cho 1 ha nuôi trồng thủy sản 
được tính ra ở Bảng 4.2 (Cột 4) và tỷ lệ % diện 
tích khu trữ so với diện tích ao nuôi ở Cột 5. 
Bảng 4.2. Diện tích cần thiết để xây dựng hồ 
trữ nước ngọt cho mỗi ha nuôi trồng và ước 
tính tổng diện tích trữ cho toàn vùng 
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7)
1 Long An 1542 895,4 9,0 8,9 796,9
2 Tiền Giang 1934 1100,7 11,0 14,5 1596,0
3 Bến Tre 1958 1112,3 11,1 43,2 4805,1
4 Trà Vinh 1890 1079,2 10,8 34,8 3755,6
5 Kiên Giang 1433 830,6 8,3 110,1 9144,4
6 Sóc Trăng 1794 1031,1 10,3 64,4 6640,6
7 Bạc Liêu 1603 929,8 9,3 126,3 11743,8
8 Cà Mau 1097 572,8 5,7 296,2 16965,8
Trung bình 1656 944 9,4 Cộng: 55448,2
Tổng 
diện tích 
cho trữ 
nước (ha)
TT
Tỉnh, 
Thành phố
Nước 
ngọt cần 
cấp bù 
(m
3
/ha)
Diện 
tích mặt 
bể chứa 
(m
2
/ha)
% DT so 
với 1ha 
thủy sản
Diện tích 
thủy sản 
(1000ha)
Kết quả tính toán ở Bảng 4.2 cho thấy, để 
đáp ứng lượng nước ngọt cần thiết cho 1 ha nuôi 
trồng thủy sản cần bố trí một diện tích vào 
khoảng 600 m2 đến 1100 m2 để xây dựng bể 
chứa, tương đương với 6% đến 11% diện tích 
khu nuôi. Nếu giả thiết rằng tất cả diện tích nuôi 
trồng thủy sản ở các tỉnh ven biển cần có hồ trữ 
nước ngọt thì tổng diện tích cần thiết cho 698 
ngàn ha thủy sản vào khoảng 55,4 ngàn ha. 
4.3. Tính toán nguồn nước để trữ vào bể 
chứa 
Để tính toán nguồn nước dùng để trữ cho các 
bể chứa nước trên, nghiên cứu tính toán cân 
bằng nước dựa trên lượng mưa rơi trực tiếp trên 
diện tích xây dựng bể trữ và bốc hơi bể như 
công thức (2) và tích diện tích cần thiết để hứng 
đủ nước mưa cho lượng nước cần tích như công 
thức (3), để từ đó đưa ra giải pháp tích nước hợp 
lý để đảm bảo nguồn nước tích. 
+ Công thức tính lượng nước tích được nhờ 
mưa trên diện tích xây dựng bể chứa 
 (2) 
Trong đó: 
Wmb: là lượng trữ vào bể chứa ở cột 5 từ 
mưa rơi trực tiếp trên diện tích giành để xây bể 
chứa như đã được tính ở cột 4 (m3). 
Mi: Lượng mưa bình quân tháng ở các tỉnh 
(mm) 
BHi: Bốc hơi bình quân tháng ở các tỉnh (mm) 
Ab: diện tích giành để xây bể đã được tích 
cho 1 đơn vị diện tích ao nuôi là 1ha ở Bảng 
4.1, cột 4 (m2) 
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 53 (6/2016) 72
i: là thời gian tháng có mưa vượt lượng bốc 
hơi trong vùng, từ tháng 6 đến tháng 11 
+ Công thức tính diện tích hứng nước mưa 
cần thiết để đảm bảo đủ nước cần tích 
Diện tích cần thiết để hứng đủ nước mưa cho 
bể chứa được tính theo công thức 3: 
 (3) 
Trong đó: 
Ah: diện tích hứng nước mưa cần thiết để 
đảm bảo đủ nước trữ như tính toán ở Cột 4 
Bảng 4.1 (m2) 
W: lượng nước ngọt (m3) cần cấp bù cho 1 
đơn vị diện tích nuôi thủy sản là 1 ha (đã tính ở 
Cột 4, Bảng 4.1) 
Mi và BHi như giải thích ở trên 
Kết quả tính toán ở Bảng 4.3 cho thấy lượng 
mưa rơi trực tiếp trên bề mặt thoáng của bể có 
thể đảm bảo 47,2% đến 87,8% (cột 6) tổng 
lượng nước cần trữ cho mỗi ha tùy thuộc vào 
lượng mưa nhiều hay ít ở mỗi nơi. Những vùng 
mưa nhiều như Cà Mau, Bạc Liêu, Kiên Giang 
và Sóc Trăng, lượng trữ từ mưa rơi trực tiếp có 
thể chiếm 77% đến 87% tổng lượng cần trữ. 
Tương tự, để có thể đảm bảo hứng đủ nước mưa 
để trữ cho 1 ha cần một diện tích cần thiết vào 
khoảng 6,7% đến 23,3% (cột 8) tùy thuộc vào 
khu vực nhiều mưa hay ít mưa. 
Bảng 4.3. Lượng trữ trực tiếp từ mưa 
Từ kết quả tính toán ở trên cho thấy, nếu 
không có khả năng bố trí diện tích hứng nước 
mưa như tính toán ở cột 8 (Bảng 4.3) thì khả 
năng tích nước mưa trực tiếp từ mưa trên diện 
tích mặt thoáng của bể ngay từ đầu mùa mưa kết 
hợp bảo vệ chống bốc hơi, chống thấm và bơm 
tích bổ sung 20% đến 50% lượng nước cần trữ 
trong thời kì mùa mưa từ hệ thống kênh rạch khi 
chất lượng nước mặt đảm bảo là hoàn toàn có 
thể đảm bảo được đủ nước cần cấp bổ sung cho 
nuôi trồng thủy sản, góp phần hạn chế khai thác 
nước ngầm. Trong điều kiện biến đổi khí hậu, 
theo kịch bản quốc gia về BĐKH, lượng mưa ở 
ĐBSCL có thể tăng 3-7%, như vậy khả năng 
tích nước mưa sẽ càng khả thi hơn. 
5. KẾT LUẬN 
1. Vùng đất ven biển trong giai đoạn trước 
mắt và vùng đất thuộc tỉnh Cà Mau cả giai đoạn 
trước mắt và lâu dài rất khó khăn để lấy nguồn 
nước ngọt từ sông, vì vậy giải pháp trữ nước 
nhằm cấp nước bổ sung cho vùng nuôi trồng 
thủy sản, nhằm hạn chế việc khai thác nước 
ngầm, phát triển bền vững vùng nuôi trồng và 
chống lún sụt đồng bằng là rất cần. 
2. Do lượng nước cấp đầu vụ nuôi là rất lớn, 
nên cần đảm bảo nguồn cấp nước cả mặn lẫn 
ngọt từ hệ thống thủy lợi cho bể nuôi và bể trữ 
nước ngọt ngay từ đầu vụ nuôi (cuối vụ mưa). 
Nghiên cứu chỉ xác định khả năng đảm bảo cấp 
nước ngọt để pha loãng đảm bảo nồng độ ao 
nuôi (đủ để cấp bù do thấm và bốc hơi trong quá 
trình nuôi). 
Tổng lượng nước cần cấp bù cho 1 ha diện 
tích nuôi trồng thủy sản dao động trong khoảng 
2200 m3/ha đến 3900 m3/s, lượng nước ngọt cần 
cấp bù sẽ dao động trong khoảng 1100 m3/ha 
đến 1950 m3/ha, bình quân là 1656 m3/ha. Như 
vậy 1 ha nuôi trồng thủy sản cần bố trí một diện 
tích vào khoảng 600 m2 đến 1100 m2 để xây 
dựng bể chứa, tương đương với 6% đến 11% 
diện tích khu nuôi. Kết quả nghiên cứu cung cấp 
cho các nhà quy hoạch, quản lý đưa ra chính 
sách và chiến lược khai thác và sử dụng nguồn 
nước mưa nhằm phát triển bền vững vùng nuôi 
trồng thủy sản và chống lún sụt lún đất do tác 
động việc khai thác nước ngầm quá mức vùng 
ven biển Đồng bằng sông Cửu Long. 
% 
lượng 
nước 
đảm 
bảo
% diện 
tích hứng 
nước so 
với 1 ha 
nuôi trồng
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8)
1 Long An 1542 895,4 901 58,5 1530 15,3
2 Tiền Giang 1934 1100,7 913 47,2 2330 23,3
3 Bến Tre 1958 1112,3 1109 51,5 2157 21,6
4 Trà Vinh 1890 1079,2 1095 58,0 1937 19,4
5 Kiên Giang 1433 830,6 1149 80,2 1060 10,6
6 Sóc Trăng 1794 1031,1 1387 77,3 1417 14,2
7 Bạc Liêu 1603 929,8 1257 78,4 1186 11,9
8 Cà Mau 1097 572,8 963 87,8 667 6,7
Trung bình 1096.8 67,4 1535,5 15,4
Diện tích 
hứng 
nước mưa 
cần thiết 
cho 1 ha 
(m2/ha)
TT Tỉnh
Nước 
ngọt cần 
cấp bù 
(m3/ha)
Diện 
tích mặt 
bể chứa 
(m2/ha)
Lượng 
nước trữ 
từ mưa 
trực tiếp 
vào bể 
(m3)
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 53 (6/2016) 73
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Sâm L, Lân NV, Vượng NĐ (2006), Cơ sở khoa học xây dựng hồ sinh thái vùng ngập lũ Đồng bằng 
sông Cửu Long. Tuyển tập kết quả KH&CN Viện Khoa học Thủy lợi Miền Nam. Nhà xuất bản 
Nông nghiệp. 
Sâm L, Lân NV, Vượng NĐ (2006), Nghiên cứu xây dựng hệ thống hồ sinh thái - cơ sở phát triển 
bền vững vùng Đồng bằng sông Cửu Long và miền Trung. Tuyển tập kết quả KH&CN Viện Khoa 
học Thủy lợi Miền Nam. Nhà xuất bản Nông nghiệp 
Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Nam (DWRPIS) (2012), Điều tra, đánh giá 
tài nguyên nước dưới đất vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng sông Cửu Long. 
Niên giám thống kê (2012), Niên giám thống kê các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. 
NGI (2006), Novel insights on contaminated sediments relevance for risk and remediation. 
International workshop at Norwegian Geotechnical Institute (NGI) 12 September 2006 
UNDP (2015), Nghiên cứu quản lý tổng hợp tài nguyên nước trong điều kiện biến đổi khí hậu, nước 
biển dâng và sự phát triển nhanh nền kinh tế, xã hội ở đồng bằng Sông Cửu Long, Việt Nam. 
Abstract: 
RESEARCH ENGINEERING SOLUTIONS FOR WATER RESERVE 
AND WATER SUPPLY FOR AQUACULTURE IN THE MEKONG DELTA 
The exploitation of the excessive groundwater to serve aquaculture and water supply for domestic 
are more increase and are a challenge to the coastal provinces in the Mekong River Delta, it is the 
main cause of exhaust and lowering of groundwater level, it is also the cause of the subsidence of 
land for Mekong River Delta. Therefore, the main goal of this research focused on solving issues of 
water resources for aquaculture development by the exploit using rain water, rain water retention 
and groundwater exploitation control water supply serving coastal aquaculture in the Mekong 
River Delta. The results have determined that, of the amount of water needed to compensate supply 
for 1ha of aquaculture area ranged from 2200 m3/ha to 3900 m3/ha, the amount of fresh water 
needed to compensation will vary in the range 1100 m3/ha to 1950 m3/ha and the average of 1656 
m3/ha. So 1ha of aquaculture needs a area about 600 m2 to 1100 m2 to build tanks, equivalent to 
6% to 11% out of aquaculture area. Research results provide the planners, managers to proposal 
the policy and management strategy of exploiting and using rain water resources to sustainable 
development of the aquaculture and reducing of land subsidence from the impact of excessive 
groundwater exploitation of the coastal plain of the Mekong River Delta. 
Keywords: Aquaculture water supply, groundwater exploitation, rain water, land subsidence. 
BBT nhận bài: 05/5/2016 
Phản biện xong: 31/5/2016 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_giai_phap_ky_thuat_tru_nuoc_ngot_cho_phuc_vu_nuoi.pdf