Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới mức độ sẵn sàng tham gia hợp tác doanh nghiệp - cơ sở giáo dục Đại học
Việt Nam đang bước vào thời kì Cách mạng công nghiệp 4.0, đây vừa là cơ hội vừa là thách thức cho các doanh
nghiệp (DN). Để thành công trong môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay, các DN phải thích ứng nhanh chóng.
Nhu cầu đổi mới sáng tạo của DN khiến động cơ phát triển hoạt động nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ tại
DN tăng cao. Một trong những phương pháp giúp DN mới nhất và với chi phí hợp lí nhất là hợp tác với cơ sở giáo
dục đại học (ĐH). Ngoài việc có được các thành tựu khoa học công nghệ, mối quan hệ hợp tác còn giúp DN nhiều
lợi ích khác như nguồn nhân lực, danh tiếng Điều này đặc biệt cần thiết nhằm đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh
tế, thực hiện thắng lợi công cuộc CNH, HĐH đất nước của chúng ta hiện nay.
Trong những năm gần đây, nhiều quốc gia trên thế giới đã nhận thức được những lợi ích của việc phát triển mô
hình hợp tác ĐH - DN, từ đó phát triển mạnh hình thức hợp tác này và thu được những kết quả đáng kể. Theo số liệu
từ Cơ quan Sáng chế Israel thì hoạt động nghiên cứu và phát triển ở Israel chủ yếu diễn ra tại 7 trường ĐH và hàng
chục viện nghiên cứu cũng như hàng trăm DN trên cả nước. Hầu hết những kết quả nghiên cứu có thể xuất bản được
tại Israel đều tiến hành ở các trường ĐH. Chính phủ Israel đã có nhiều hành động thúc đẩy mối quan hệ giữa DN và
trường ĐH, đặc biệt trong những chương trình nghiên cứu và phát triển (R&D) mang tính thương mại. Tại Australia,
việc hợp tác giữa các trường ĐH và DN từ lâu đã được quan niệm không chỉ là công việc cần thiết mà còn vô cùng
quan trọng, được coi là “khớp nối ý thức”. Việc hợp tác đem lại lợi ích cho nhiều bên, bao gồm cả các sinh viên. Hợp
tác và gắn kết giữa các trường ĐH và DN đã và đang trở thành xu thế chung trên toàn thế giới.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng mức độ sẵn sàng tham gia hợp tác với cơ sở giáo dục ĐH để
có thể đưa ra các giải pháp giúp các DN tận dụng được nguồn lực khoa học - công nghệ là việc làm cần thiết. Nghiên
cứu nhằm đạt được 3 mục tiêu cụ thể sau: (1) Xây dựng mô hình kinh tế lượng nhằm tìm ra các yếu tố ảnh hưởng tới
mức độ sẵn sàng tham gia hợp tác với cơ sở giáo dục ĐH trong các DN Việt Nam; (2) Thông qua kết quả chạy mô
hình hồi quy, tìm ra các yếu tố ảnh hưởng tới mức độ sẵn sàng tham gia hợp tác và trả lời câu hỏi: Các yếu tố ảnh
hưởng như thế nào đến mức độ sẵn sàng tham gia hợp tác?; (3) Dựa vào các kết quả điều tra và chạy mô hình đề xuất
các giải pháp nhằm nâng cao mức độ sẵn sàng hợp tác cho các DN Việt Nam.
2. Kế
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới mức độ sẵn sàng tham gia hợp tác doanh nghiệp - cơ sở giáo dục Đại học
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 489 (Kì 1 - 11/2020), tr 1-8 ISSN: 2354-0753 1 NGHIÊN CỨU CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI MỨC ĐỘ SẴN SÀNG THAM GIA HỢP TÁC DOANH NGHIỆP - CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Trần Thị Kim Anh+, Trần Tú Uyên Trường Đại học Ngoại thương +Tác giả liên hệ ● Email: uyentt@ftu.edu.vn Article History Received: 28/8/2020 Accepted: 16/9/2020 Published: 05/11/2020 Keywords readiness, business- university corporation, regression model, educational institutions. ABSTRACT While developed countries have been aware of the important role and built successful models of Business-University corporation, in Vietnam, this corporation has not been paid enough attention to and not yet implemented. For the purpose of improving the situation, this study developed a model of factors that affect the readiness to participate in Business-University corporation of Vietnamese companies. Two factors that affect the readiness to participate in Business-University corporation has been found out by Regression Model with SPSS. Basing on the research results, some solutions can be offered in order to enhance the readiness of companies. 1. Mở đầu Việt Nam đang bước vào thời kì Cách mạng công nghiệp 4.0, đây vừa là cơ hội vừa là thách thức cho các doanh nghiệp (DN). Để thành công trong môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay, các DN phải thích ứng nhanh chóng. Nhu cầu đổi mới sáng tạo của DN khiến động cơ phát triển hoạt động nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ tại DN tăng cao. Một trong những phương pháp giúp DN mới nhất và với chi phí hợp lí nhất là hợp tác với cơ sở giáo dục đại học (ĐH). Ngoài việc có được các thành tựu khoa học công nghệ, mối quan hệ hợp tác còn giúp DN nhiều lợi ích khác như nguồn nhân lực, danh tiếng Điều này đặc biệt cần thiết nhằm đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế, thực hiện thắng lợi công cuộc CNH, HĐH đất nước của chúng ta hiện nay. Trong những năm gần đây, nhiều quốc gia trên thế giới đã nhận thức được những lợi ích của việc phát triển mô hình hợp tác ĐH - DN, từ đó phát triển mạnh hình thức hợp tác này và thu được những kết quả đáng kể. Theo số liệu từ Cơ quan Sáng chế Israel thì hoạt động nghiên cứu và phát triển ở Israel chủ yếu diễn ra tại 7 trường ĐH và hàng chục viện nghiên cứu cũng như hàng trăm DN trên cả nước. Hầu hết những kết quả nghiên cứu có thể xuất bản được tại Israel đều tiến hành ở các trường ĐH. Chính phủ Israel đã có nhiều hành động thúc đẩy mối quan hệ giữa DN và trường ĐH, đặc biệt trong những chương trình nghiên cứu và phát triển (R&D) mang tính thương mại. Tại Australia, việc hợp tác giữa các trường ĐH và DN từ lâu đã được quan niệm không chỉ là công việc cần thiết mà còn vô cùng quan trọng, được coi là “khớp nối ý thức”. Việc hợp tác đem lại lợi ích cho nhiều bên, bao gồm cả các sinh viên. Hợp tác và gắn kết giữa các trường ĐH và DN đã và đang trở thành xu thế chung trên toàn thế giới. Chính vì vậy, việc nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng mức độ sẵn sàng tham gia hợp tác với cơ sở giáo dục ĐH để có thể đưa ra các giải pháp giúp các DN tận dụng được nguồn lực khoa học - công nghệ là việc làm cần thiết. Nghiên cứu nhằm đạt được 3 mục tiêu cụ thể sau: (1) Xây dựng mô hình kinh tế lượng nhằm tìm ra các yếu tố ảnh hưởng tới mức độ sẵn sàng tham gia hợp tác với cơ sở giáo dục ĐH trong các DN Việt Nam; (2) Thông qua kết quả chạy mô hình hồi quy, tìm ra các yếu tố ảnh hưởng tới mức độ sẵn sàng tham gia hợp tác và trả lời câu hỏi: Các yếu tố ảnh hưởng như thế nào đến mức độ sẵn sàng tham gia hợp tác?; (3) Dựa vào các kết quả điều tra và chạy mô hình đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao mức độ sẵn sàng hợp tác cho các DN Việt Nam. 2. Kết quả nghiên cứu 2.1. Tổng quan các nghiên cứu trước đây Đến nay đã có nhiều tài liệu cũng như công trình nghiên cứu về hợp tác giữa trường ĐH và DN tại nhiều quốc gia trên thế giới (bảng 1). Các nghiên cứu chủ yếu giải quyết hai vấn đề: (1) Xác định các hình thức liên kết; (2) Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến mối liên kết, mặc dù vấn đề thứ hai được ít đề cập. VJE Tạp chí Giáo dục, Số 489 (Kì 1 - 11/2020), tr 1-8 ISSN: 2354-0753 2 Bảng 1. Tổng hợp các nghiên cứu về hợp tác giữa trường ĐH và DN trên thế giới Nghiên cứu Quan điểm Etzkowitz & Leydesdorff (2000) Mô hình Triple Helix mô tả mối quan hệ tương tác giữa 3 bên là Trường ĐH - DN - Chính phủ. Mô hình là một khối gồm 3 bên chồng lấp lên nhau, vừa có sự riêng biệt, lại vừa đảm nhận vai trò và hoạt động của nhau. Peters & Fusfeld (1982) Có 2 nhóm hình thức liên kết là chính tắc và không chính tắc với tiêu chí phân loại bao gồm thời gian thực hiện hoạt động, nỗ lực giữa các bên, hướng tương tác đa chiều hay từ một phía. Howells (1986) Có 2 hình thức liên kết là: (1) Các hoạt động của DN thực hiện bởi trường ĐH và (2) Các hoạt động của trường ĐH thực hiện tại DN. Geisler và Rubenstein (1989) 4 nhóm hình thức: (1) Các hoạt động từ DN, (2) Các hoạt động dưới hình ... i liên quan đến những yếu tố đã đề cập để khảo sát thực tế tại Việt Nam (xem bảng 2). Bảng 2. Câu hỏi khảo sát các yếu tố tác động tới mô hình hợp tác khoa học công nghệ giữa cơ sở giáo dục ĐH với DN - góc nhìn từ phía DN Nhận thức về lợi ích của sự hợp tác 1 2 3 4 5 1 Tiếp cận được chuyên gia là giảng viên các trường ĐH 2 Hợp tác giúp DN tiếp cận được thông tin cần thiết và kiến thức liên quan đến khoa học và công nghệ mới 3 Sử dụng trang thiết bị, cơ sở vật chất, tài nguyên của trường 4 Giảm thiểu rủi ro và chi phí cho hoạt động R&D 5 Nâng cao danh tiếng, uy tín và hình ảnh của DN 6 Dễ dàng tìm kiếm, tuyển dụng sinh viên chất lượng cao Cảm nhận của DN về cơ sở giáo dục ĐH 7 DN không tin tưởng vào trình độ, cơ sở vật chất, kiến thức, chương trình đào tạo của trường ĐH 8 DN chưa biết nhiều về các hoạt động và thông tin của trường ĐH Động lực của sự hợp tác 9 DN có mối quan hệ sâu sắc và các cam kết hợp tác với trường ĐH Mức độ sẵn sàng tham gia hợp tác Nhận thức về lợi ích Động lực Rào cản Cảm nhận VJE Tạp chí Giáo dục, Số 489 (Kì 1 - 11/2020), tr 1-8 ISSN: 2354-0753 5 10 Hỗ trợ từ chính phủ hoặc sự dễ dàng về mặt thủ tục pháp lí giúp thúc đẩy sự hợp tác Rào cản của sự hợp tác 11 DN e dè do sự khác biệt về văn hóa, cấu trúc tổ chức của trường ĐH và DN 12 Nguồn lực/Chi phí hợp tác của DN còn hạn chế 13 Vị trí địa lí của trường ĐH & DN gây khó cho việc hợp tác Hình thức hợp tác giữa cơ sở giáo dục ĐH - DN 14 Cùng tham gia hợp tác nghiên cứu với trường ĐH (ví dụ: đóng góp nhân lực/ tài trợ trang thiết bị/vốn) 15 Đặt hàng theo hợp đồng nghiên cứu, thương mại hóa kết quả nghiên cứu của trường ĐH (ví dụ: DN sử dụng các bằng phát minh sáng chế từ kết quả nghiên cứu trong trường) 16 Cùng phối hợp với trường ĐH để tổ chức chương trình thực tập và tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp từ trường ĐH 17 Giảng viên trường ĐH trực tiếp tham gia giảng dạy, làm việc tại DN (ví dụ: tổ chức khóa học cho nhân viên và cán bộ DN do giảng viên từ trường ĐH giảng dạy) 18 DN tham gia vào xây dựng chương trình đào tạo tại trường 19 Xây dựng công viên khoa học hoặc vườn ươm trong trường 20 Hỗ trợ các dự án khởi nghiệp (Ghi chú: 1: Rất không quan trọng; 2: Không quan trọng; 3: Không ý kiến; 4: Quan trọng; 5: Rất quan trọng) 2.3. Thu thập số liệu Để thu thập số liệu, tác giả sử dụng bảng hỏi gồm 24 câu, chia thành 2 nhóm, trong đó khảo sát được tiến hành trong giai đoạn tháng 3/2020 đến tháng 7/2020, dưới hình thức gửi bản khảo sát in hoặc khảo sát trực tuyến tới lãnh đạo từ cấp trưởng phòng trở lên ở 86 DN trên phạm vi miền Bắc. Các câu hỏi khảo sát được chia làm 2 nhóm chính. Nhóm thứ nhất bao gồm 5 câu. Các câu từ 1 đến 4 nhằm tìm hiểu những thông tin cụ thể về công ty như loại hình, quy mô, số năm hoạt động DN, mức độ hợp tác hiện tại với các trường ĐH; câu số 5 khai thác đánh giá của DN liên quan tới mức độ sẵn sàng liên kết hợp tác của DN đó với các cơ sở giáo dục ĐH. Nhóm thứ hai (câu 6-24) được thiết kế để điều tra ý kiến của DN theo các mức độ từ Rất không quan trọng đến Quan trọng dựa trên quy ước như sau: (1) Rất không quan trọng, (2) Không quan trọng, (3) Bình thường, (4) Quan trọng, (5) Rất quan trọng. Nhóm này xem xét sự đánh giá tầm quan trọng của các yếu tố tác động tới mô hình hợp tác khoa học - công nghệ giữa cơ sở giáo dục ĐH với DN từ góc nhìn phía DN. 2.4. Phân tích kết quả Số bảng khảo sát nhận được là 58 trên tổng số 86 bảng được gửi đi (tương đương với 67%), 58 bảng đều hợp lệ. Trong 58 DN trả lời có 48 DN đã từng hợp tác dưới ít nhất một hình thức, trong đó có tới 30 DN hợp tác ở mức độ rất thấp, chỉ có 4 DN cho biết họ rất thường xuyên tham gia vào các hoạt động hợp tác với cơ sở giáo dục ĐH. Căn cứ trên kết quả chạy phần mềm SPPS mối quan hệ của các yếu tố tác động tới mức độ sẵn sàng tham gia từng hình thức hợp được thể hiện cụ thể như sau: Qua kiểm định Cronbach’s Alpha, độ tin cậy của 13 biến quan sát thuộc 4 yếu tố khác nhau được đảm bảo (bảng 3) theo các tiêu chí về hệ số Cronbach’s Alpha, hệ số tương quan biến tổng và hệ số Cronbach’s Alpha nếu loại biến (Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2008). Bảng 3. Kết quả kiểm định Cronbach’s Alpha Nhóm yếu tố Số lượng biến quan sát Hệ số Cronbach’s Alpha NHANTHUC 6 0,867 CAMNHAN 2 0,734 DONGLUC 2 0,780 RAOCAN 3 0,746 Thang đo được đánh giá đủ độ tin cậy để vào bước phân tích yếu tố EFA, nhằm phân tích mối tương quan giữa các biến và mối quan hệ tương quan giữa biến quan sát với yếu tố, từ đó xác định tập hợp biến cần thiết cho nghiên VJE Tạp chí Giáo dục, Số 489 (Kì 1 - 11/2020), tr 1-8 ISSN: 2354-0753 6 cứu. Sau phân tích yếu tố EFA với nhiều lần loại biến không thỏa mãn, chỉ còn 2 yếu tố nhận thức về lợi ích và rào cản được giữ lại. Kết quả phân tích yếu tố và bảng ma trận xoay được trình bày ở bảng 4 và bảng 5. Bảng 4. Hệ số KMO và kiểm định Bartlett phân tích yếu tố Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy 0,737 Bartlett's Test of Sphericity Approx. Chi-Square 130,568 Df 15 Sig. 0,000 Bảng 5. Bảng ma trận xoay các yếu tố Biến 1 2 NHANTHUC6 0,886 NHANTHUC1 0,771 NHANTHUC2 0,765 NHANTHUC5 0,759 RAOCAN3 0,861 RAOCAN1 0,849 Qua phân tích Pearson, hai nhóm yếu tố trên được chứng minh có mối tương quan tuyến tính với biến phụ thuộc Y và đủ điều kiện để đưa vào phân tích hồi quy (bảng 6). Bảng 6. Tương quan giữa biến độc lập Y với biến phụ thuộc NHANTHUC RAOCAN Y1 NHANTHUC Tương quan Pearson 1 Mức ý nghĩa 2 phía RAOCAN Tương quan Pearson 0,405** 1 Mức ý nghĩa 2 phía 0,002 Y Tương quan Pearson 0,396** -0,391** 1 Mức ý nghĩa 2 phía 0,002 0,002 **. Tương quan đáng kể ở mức ý nghĩa 0,01 (2 phía). Sau khi chạy phần mềm SPSS, tác giả có bảng thông số trong phương trình hồi quy dưới đây (bảng 7): Bảng 7. Các thông số trong phương trình hồi quy Mô hình Hệ số chưa chuẩn hoá Hệ số chuẩn hoá Beta Giá trị t Mức ý nghĩa Đa cộng tuyến B Sai số chuẩn Độ chấp nhận VIF 1 (Hằng số) 2,091 0,500 4,185 0,000 NHANTHUC 0,853 0,131 0,663 6,498 0,000 0,836 1,196 RAOCAN - 0,812 0,126 - 0,660 - 6,466 0,000 0,836 1,196 a. Biến phụ thuộc: Y Hệ số điều chỉnh R2: 0,504 Hai biến NHANTHUC và RAOCAN đều có sig < 5%, tức có ý nghĩa thống kê. Kết quả cũng cho thấy, không có hiện tượng đa cộng tuyến trong mô hình này (do hệ số phóng đại phương sai VIF < 2). Dựa trên hệ số beta chuẩn hoá của kết quả phân tích hồi quy đa biến, có phương trình hồi quy: Y1 = 0,663*NHANTHUC - 0,660*RAOCAN + e Do đó, giả thuyết H1: Nhận thức về lợi ích có ảnh hưởng tích cực tới mức độ sẵn sàng tham gia hợp tác được chấp nhận. Giả thuyết H4: Rào cản có ảnh hưởng tiêu cực tới mức độ sẵn sàng tham gia hợp tác được chấp nhận. Nhận xét: Sau khi phân tích các số liệu trong bảng khảo sát liên quan đến sự sẵn sàng tham gia hợp tác, kết quả điều tra cho thấy: (1) Mức độ sẵn sàng tham gia vào các hình thức hợp tác của các DN không cao (điểm số trung bình 2,97/5); (2) Không có bằng chứng về tác động của yếu tố Cảm nhận và Động lực lên biến phụ thuộc; (3) Yếu tố Nhận thức về lợi ích có tác động tích cực tới biến phụ thuộc, trong khi yếu tố Rào cản có tác động ngược chiều. Độ lớn của tác động của hai yếu tố lên mức độ sẵn sàng là gần bằng nhau (hệ số beta chuẩn hóa là 0,663 và -0,660 ở mức ý nghĩa sig. 0,000); (4) Kiểm định giả thuyết, hệ số R2 điều chỉnh ở mức khá tốt (50,4%), cho thấy sự thay đổi của biến phụ thuộc mức độ sẵn sàng tham gia vào hình thức hợp tác của sinh viên được giải thích khá tốt bởi các VJE Tạp chí Giáo dục, Số 489 (Kì 1 - 11/2020), tr 1-8 ISSN: 2354-0753 7 biến độc lập trong mô hình, tức là không có quá nhiều yếu tố khác ảnh hưởng đến mức độ tham gia của sinh viên mà mô hình đã không tính đến hoặc bị bỏ qua. 2.5. Kiến nghị Dựa trên kết quả nghiên cứu, tác giả có một số kiến nghị nhằm nâng cao mức độ sẵn sàng của DN trong việc tham gia vào các hình thức hợp tác với cơ sở giáo dục ĐH như sau: - Đối với Chính phủ: + Phát triển hệ thống chính sách nhằm khuyến khích, hỗ trợ hoạt động hợp tác giữa DN và cơ sở giáo dục ĐH: Tăng quyền tự chủ của các trường ĐH; Khuyến khích các DN, đặc biệt là khối DN tư nhân đầu tư vào khoa học công nghệ và hệ thống giáo dục; + Làm “cầu nối thông tin” giữa DN và các cơ sở giáo dục ĐH thông qua các biện pháp như: cung cấp thông tin, tổ chức hội thảo, lập các ban chuyên trách và tư vấn. Thông qua đó, DN có cơ hội nhận thức nhiều và sâu hơn về các lợi ích thu thập được khi tham gia hợp tác, đồng thời giải quyết các khúc mắc, gỡ bỏ nhiều rào cản do sự thiếu thông tin gây ra; + Ban hành cơ chế luật pháp, tài chính riêng cho các hình thức hợp tác khoa học - công nghệ như trung tâm nghiên cứu, vườn ươm nhằm bảo vệ và hỗ trợ các hình thức này phát triển. - Đối với các trường ĐH: + Xây dựng cơ chế khuyến khích, thúc đẩy các hoạt động hợp tác khoa học - công nghệ cho các bên trong trường ĐH, bao gồm lãnh đạo, giảng viên và sinh viên; + Xây dựng cơ sở dữ liệu khách hàng về các DN nhằm tiếp cận tốt hơn, từ đó xúc tiến các hoạt động quảng bá nâng cao nhận thức về lợi ích; + Đa dạng các hình thức hợp tác DN - ĐH, phù hợp với nhu cầu và điều kiện của từng loại DN cụ thể. - Đối với DN: + Thay đổi nhận thức và quan điểm về việc hợp tác với trường ĐH, dựa trên cơ sở hiểu biết lẫn nhau và hai bên cùng có lợi. Cụ thể, cần nhìn nhận việc hợp tác này như một chiến lược của DN trong việc tìm kiếm cơ hội kinh doanh và đổi mới sáng tạo; + Có cơ chế, chính sách thúc đẩy văn hóa khởi nghiệp, văn hóa đổi mới sáng tạo trong chính DN; + Duy trì liên lạc, chia sẻ thông tin với các trường ĐH. 3. Kết luận Hợp tác giữa DN và cơ sở giáo dục ĐH đang trở nên cần thiết trong bối cảnh thời đại công nghệ 4.0. Để bắt kịp xu thế trên, nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới mức độ sẵn sàng tham gia mối quan hệ hợp tác từ góc nhìn DN góp một phần quan trọng. Thông qua việc tổng hợp các nghiên cứu trong và ngoài nước, tác giả xây dựng được cơ sở lí thuyết và từ đó dựng mô hình nghiên cứu ban đầu với bốn nhóm yếu tố ảnh hưởng tới mức độ sẵn sàng tham gia hợp tác của DN: Nhận thức về lợi ích, Cảm nhận, Động lực và Rào cản, tương ứng với 4 giả thuyết. Bằng phương pháp nghiên cứu định lượng, cụ thể là các bước kiểm định độ tin cậy Cronbach’s Alpha, phân tích yếu tố EFA và hồi quy đa biến, hai yếu tố được xác định có tác động tới mức độ sẵn sàng tham gia vào các hình thức hợp tác là Nhận thức về lợi ích và Rào cản. Trong đó, yếu tố Nhận thức về lợi ích có tác động tích cực lên mức độ sẵn sàng tham gia các hình thức hợp tác giữa DN và cơ sở giáo dục ĐH; trong khi yếu tố Rào cản có tác động ngược chiều tới sự sẵn sàng của các DN. Đáng chú ý, tác động của yếu tố Rào cản lên mức độ sẵn sàng là lớn đáng kể. Kết quả trên phù hợp với các nghiên cứu khác đã được thực hiện cả trong và ngoài nước (Mora-Valentin, 2000; Nguyễn Quỳnh Mai, 2014; Hoàng Thanh Huyền và Phạm Thị Minh Thảo, 2018). Cũng từ kết quả điều tra DN, tác giả nhận thấy mức độ sẵn sàng của các DN được khảo sát là chưa cao. Lời cảm ơn: Nhóm tác giả cảm ơn sự tài trợ của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Công ty Cổ phần Đo lường Thí nghiệm Chính Danh qua đề tài “Nghiên cứu lựa chọn áp dụng mô hình thí điểm nhằm đẩy mạnh hợp tác khoa học công nghệ giữa các cơ sở giáo dục đại học với doanh nghiệp ở Việt Nam”, thuộc Chương trình KH&CN cấp Bộ, mã số CT.2019.07.08. Tài liệu tham khảo Buisseret T.J. , Cameron H. (1994). Management of collaborative research: collaboration and exploitation under the UK's information engineering advanced technology programme. Technology Analysis & Strategic Management, 6:2, 215-230, DOI: 10.1080/09537329408524165. Davey, Todd & Baaken, Thomas & Galan-Muros, Victoria & Meerman, Arno (2011). State of European University- Business Cooperation (UBC). Etzkowitz, Henry & Leydesdorff, Loet. (2000). The Dynamics of Innovation: From National Systems and “Mode 2” to a Triple Helix of University-Industry-Government Relations. Research Policy, 29, 109-123. DOI: 10.1016/S0048-7333(99)00055-4. VJE Tạp chí Giáo dục, Số 489 (Kì 1 - 11/2020), tr 1-8 ISSN: 2354-0753 8 Geisler E., Rubenstein A.H. (1989). University-Industry Relations: A Review of Major Issues. In: Link A.N., Tassey G. (eds) Cooperative Research and Development: The Industry-University-Government Relationship. Springer, Dordrecht. Hoàng Thanh Huyền, Phạm Thị Minh Thảo (2019). Đo lường các nhân tố ảnh hưởng tới hợp tác giữa doanh nghiệp và trường đại học. Tạp chí Quản trị Ngân hàng và Doanh nghiệp, số 200+201, tr 76-84. Hoàng Trọng, Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008). Phân tích dữ liệu nghiên cứu với SPSS (tập 2). NXB Hồng Đức. Howells, J. (1986). Industry-Academic Links in Research and Innovation: A National and Regional Development Perspective. Regional Studies, 20, 472-476. Lê Công Cơ, Lê Đức Toàn, Nguyễn Thị Hạnh (2018). Mô hình gắn kết giữa trường đại học và doanh nghiệp trong đào tạo đại học tại khu vực miền Trung, Việt Nam. NXB Thông tin và Truyền thông. Lopez-Martinez, R.E., Medellin, E., Scanlon, A.P. and Solleiro, J.L. (1994). Motivations and Obstacles to University-Industry Cooperation (UIC) : A Mexican Case. R&D Management, 24(1), 17-31. Martin, M., Vigdor, M., Satter, M.A., Pumwa, J., Kaynak, O., Plonsky, G.A., Tibarimbasa, A.M. and Lagujjo, E. eds. (2000). The Management of University-Industry Relations. Paris, IIEP, UNESCO. Martino, J. (1996). The Role of University Research Institutes in Technology Transfer. Industry and Higher Education, 10, 316-320. Mora-Valentin, E.M. (2000). University-Industry Cooperation: A Framework of Benefit and Analysis. Industry and Higher Education, 14(3), 165-172. Nguyễn Đức Trọng (2018). Các yếu tố ảnh hưởng tới liên kết giữa trường đại học kĩ thuật với doanh nghiệp tại Việt Nam. Luận án tiến sĩ Quản lí Công nghiệp, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Nguyễn Quỳnh Mai (2014). Đánh giá liên kết giữa trường đại học và doanh nghiệp. Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, số Quý 4/2014, tr 36-45. Nguyễn Thị Huyền Trân, Hà Hiền Minh, Trần Hải Phú (2017). Các nhân tố ảnh hưởng tới quyết định hợp tác của doanh nghiệp với cơ sở II, Trường Đại học Ngoại thương TP. Hồ Chí Minh. Tạp chí Kinh tế đối ngoại, số 93, tr 25-34. Nguyễn Thị Thu Hằng (2010). Mối quan hệ giữa doanh nghiệp với trường đại học và viện nghiên cứu: Một nghiên cứu tại Việt Nam. Luận án tiến sĩ Quản trị kinh doanh, Trường Đại học Bách khoa - Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. Peters, L. and Fusfeld, H. (1982). Current US University-Industry Research Connections. Washington, National Science Foundation. Scott, N. (1998). Strategy for Activating University Research. Technological Forecasting and Social Change, 57, 217-231. Van Dierdonck, R. and Debackere, K. (1988). Academic entrepreneurship at Belgian Universities. R&D Management, 18: 341-353. DOI:10.1111/j.1467-9310.1988.tb00609.x.
File đính kèm:
- nghien_cuu_cac_yeu_to_anh_huong_toi_muc_do_san_sang_tham_gia.pdf