Nghiên cứu các phương pháp xử lý khí oxy hòa tan (DO) trong nước thải nuôi tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei) ở xã Điền Môn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế
Nghiên cứu các phương pháp xử lý khí DO trong nước thải nuôi tôm chân trắng trên cát được tiến hành qua 2 công đoạn: công đoạn sàng lọc và công đoạn tiến hành thí nghiệm. Ở công đoạn sàng lọc kết quả cho thấy tầng cấp có độ nghiêng trước 50 (+50) hiệu quả nhất với mức tăng DO trung bình là 1,833 ± 0,300 mg/L sau 1 giờ xử lý có ý nghĩa thống kê so với các góc nghiêng khác (p < 0,05). Máng nghiêng thì trong 3 kích thước lổ 8mm, 12mm, 16mm thì kích thước lổ 12mm cho hiệu quả xử lý cao nhất với mức tăng DO là 1,222 ± 0,169 mg/L trung bình sau 1 giờ xử lý. Trong 3 mật độ lổ 49 lổ, 81 lổ, 145 lổ thì mật độ 145 lổ tốt nhất với mức tăng DO là 1,222 ± 0,188 mg/L trung bình sau 1 giờ xử lý. Với 3 độ nghiêng 50, 100, 150 thì độ nghiêng 50 là tốt nhất với mức tăng DO là 0,944 ± 0,130 mg/L trung bình sau một giờ xử lý. Sàng lọc thời gian thì buổi trưa, DO tăng trung bình cao nhất với 1,565 ± 0,115 mg/L sau 1 giờ thí nghiệm có ý nghĩa thống kê so với buổi sáng và chiều (p < 0,05). Sàng lọc phương pháp theo các nhóm thì trong nhóm tia nước, phương pháp tầng cấp tốt hơn so với phương pháp máng nghiêng. Trong nhóm quạt nước thì phương pháp quạt nhím hiệu quả hơn phương pháp quạt chân vịt. Sau khi kết thúc giai đoạn sàng lọc, đề tài tiến hành công đoạn thí nghiệm với 4 phương pháp là tầng cấp, quạt nhím, sục khí và đối chứng (không xử lý) để thí nghiệm chọn ra phương pháp tốt nhất xử lý khí DO. Trong công đoạn thí nghiệm, nghiên cứu này sử dụng 3 phương pháp là tầng cấp, quạt nhím và sục khí cho việc xử lý khí DO trong nước thải nuôi tôm chân trắng. Kết quả thí nghiệm cho thấy rằng phương pháp tầng cấp cho hiệu quả xử lý tốt nhất so với các phương pháp khác với mức ý nghĩa thống kê p < 0,05. Hàm lượng oxy hòa tan (DO) tăng lên trung bình là 2,333 ± 0,289 mg/L sau 1 giờ xử lý bằng phương pháp tầng cấp. Trong khi đó ở bể đối chứng lượng DO tăng lên chỉ 0,333 ± 0,118 mg/L trong một giờ xử lý.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu các phương pháp xử lý khí oxy hòa tan (DO) trong nước thải nuôi tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei) ở xã Điền Môn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế
NGHIÊN CỨU CÁC PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ KHÍ OXY HÒA TAN (DO) TRONG NƯỚC THẢI NUÔI TÔM CHÂN TRẮNG (Litopenaeus vannamei) Ở XÃ ĐIỀN MÔN, HUYỆN PHONG ĐIỀN, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ Trương Văn Đàn, Nguyễn Quang Lịch, Lê Công Tuấn, Phạm Văn Lai Trường Đại học Nông Lâm Huế TÓM TẮT Nghiên cứu các phương pháp xử lý khí DO trong nước thải nuôi tôm chân trắng trên cát được tiến hành qua 2 công đoạn: công đoạn sàng lọc và công đoạn tiến hành thí nghiệm. Ở công đoạn sàng lọc kết quả cho thấy tầng cấp có độ nghiêng trước 50 (+50) hiệu quả nhất với mức tăng DO trung bình là 1,833 ± 0,300 mg/L sau 1 giờ xử lý có ý nghĩa thống kê so với các góc nghiêng khác (p < 0,05). Máng nghiêng thì trong 3 kích thước lổ 8mm, 12mm, 16mm thì kích thước lổ 12mm cho hiệu quả xử lý cao nhất với mức tăng DO là 1,222 ± 0,169 mg/L trung bình sau 1 giờ xử lý. Trong 3 mật độ lổ 49 lổ, 81 lổ, 145 lổ thì mật độ 145 lổ tốt nhất với mức tăng DO là 1,222 ± 0,188 mg/L trung bình sau 1 giờ xử lý. Với 3 độ nghiêng 50, 100, 150 thì độ nghiêng 50 là tốt nhất với mức tăng DO là 0,944 ± 0,130 mg/L trung bình sau một giờ xử lý. Sàng lọc thời gian thì buổi trưa, DO tăng trung bình cao nhất với 1,565 ± 0,115 mg/L sau 1 giờ thí nghiệm có ý nghĩa thống kê so với buổi sáng và chiều (p < 0,05). Sàng lọc phương pháp theo các nhóm thì trong nhóm tia nước, phương pháp tầng cấp tốt hơn so với phương pháp máng nghiêng. Trong nhóm quạt nước thì phương pháp quạt nhím hiệu quả hơn phương pháp quạt chân vịt. Sau khi kết thúc giai đoạn sàng lọc, đề tài tiến hành công đoạn thí nghiệm với 4 phương pháp là tầng cấp, quạt nhím, sục khí và đối chứng (không xử lý) để thí nghiệm chọn ra phương pháp tốt nhất xử lý khí DO. Trong công đoạn thí nghiệm, nghiên cứu này sử dụng 3 phương pháp là tầng cấp, quạt nhím và sục khí cho việc xử lý khí DO trong nước thải nuôi tôm chân trắng. Kết quả thí nghiệm cho thấy rằng phương pháp tầng cấp cho hiệu quả xử lý tốt nhất so với các phương pháp khác với mức ý nghĩa thống kê p < 0,05. Hàm lượng oxy hòa tan (DO) tăng lên trung bình là 2,333 ± 0,289 mg/L sau 1 giờ xử lý bằng phương pháp tầng cấp. Trong khi đó ở bể đối chứng lượng DO tăng lên chỉ 0,333 ± 0,118 mg/L trong một giờ xử lý. Từ khóa: khí oxy hòa tan, sục khí, quạt nhím, quạt chân vịt, tầng cấp, xử lý cơ học, tôm chân trắng I. ĐẶT VẤN ĐỀ Thừa Thiên Huế với lợi thế bờ biển kéo là điều kiện thuận lợi cho việc đánh bắt, khai thác và nuôi trồng thủy sản. Đặc biệt có hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai có nhiều hấp dẫn về mặt khoa học, có tiềm năng lớn về tài nguyên thiên nhiên phục vụ phát triển kinh tế xã hội, đồng thời cũng là nơi hứng chịu nhiều rủi ro, thiên tai (Lê Văn Thăng, 2008). Trong những năm gần đây trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế đã và đang hình thành nhiều vùng nuôi tôm tập trung với quy mô từ 10 đến 50 ha (Sở NN&PTN, 2010). Tuy nhiên hầu hết các vùng nuôi này chưa có phương pháp quản lý và xử lý chất thải. Nguồn chất thải từ các vùng nuôi tôm thường được thải trực tiếp ra môi trường không qua xử lý làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ sinh thái, gây ô nhiễm môi trường đồng thời là nguyên nhân chính làm phát sinh các mầm bệnh cho tôm (Nguyen Quang Lich, Le Cong Tuan et al., 2011). Mặc dù các vùng nuôi tôm có quy hoạch tuy nhiên hầu như không có hệ thông xử lý nước thải do đó khi tôm bị dịch bệnh, tôm chết được thải trực tiếp vào môi trường điều này đã để lại hậu quả nặng nề cho nghề nuôi tôm trên điạ bàn tỉnh Thừa Thiên Huế (Sở NN&PTNT, 2010). Theo kết quả nghiên cứu của một số nghiên cứu cứ 1 ha nuôi tôm sau thu hoạch sẽ thải ra môi trường nước 133 kg nitơ (TN) và 43 kg phospho (TP) trong chất thải, bài tiết của tôm và trong thức ăn dư thừa (Funge-Smith and Briggs, 1998). Ngoài ra các sản phẩm chất thải đạm khác nhau từ nước tiểu và sự bài tiết phân, một số chất thải chứa nitơ được tích lũy từ những mảnh vụn hữu cơ của các sinh vật chết, thức ăn thừa, và từ nitơ khí trong bầu khí quyển làm cho nồng độ DO trong nước thải giảm xuống (Timmons, 2002; Siikavuopio, 2009). Trong những năm qua đã có nhiều mô hình nghiên cứu về xử lý nước thải nuôi tôm bằng nhiều phương pháp khác nhau. Tuy nhiên phần lớn các mô hình này đều sử dụng mô hình nuôi kết hợp các đối tượng như tôm - cá, tôm – cá - thực vật (Hauser, 1984) hay ứng dụng các thiết bị lọc nước (Gonçalves và Gagnon, 2011) hay rừng ngập nước (Lin, Jing và cộng sự, 2002) trong đó phương pháp xử lý sinh học cho thấy có hiệu quả và khả năng ứng dụng cao. Tuy nhiên do trong nước thải nuôi tôm lượng DO thấp hơn giới hạn thích nghi của các đối tượng nhất là vào các tháng cuối vụ. Chính vì vậy việc làm tăng lượng DO trong nước thải nhằm ứng dụng vào hệ thống xử lý kết hợp cơ học và sinh học có ý nghĩa và là cần thiết. Hiện nay có một số nghiên cứu sử dụng các kỹ thuật xử lý khí DO nhưng chủ yếu áp dụng cho xử lý nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp, trong khi các nghiên cứu áp dụng cho nước thải nuôi trồng thủy sản còn thiếu và chỉ t ... 49 lổ, 81 lổ, 145 lổ thì mật độ 145 lổ tốt nhất với mức tăng DO là 1,222 ± 0,188 mg/L trung bình sau 1 giờ xử lý có ý nghĩa thống kê so với các mật độ lổ khác (p < 0,05) như bảng 3. Bảng 3. Biến động các yếu tố môi trường ở các mật độ lổ khác nhau Thiết bị Yếu tố 49 lổ TB ± S (Min. ÷ Max.) 81 lổ TB ± S (Min. ÷ Max.) 145 lổ TB ± S (Min. ÷ Max.) DO (mg/L) 0,667 ± 0,167 b (0,5 ÷ 1,0) 0,833 ± 0,167b (0,5÷ 1,0) 1,222 ± 0,188a (1,5÷ 2,0) Nhiệt độ (oC) 25,95 ± 0,469 a (25,12 ÷ 26,75) 26,33 ± 0,397a (25,87 ÷ 27,12) 26,91 ± 0,650a (25,75 ÷ 28,00) pH 8,38 ± 0,098 a (8,25 ÷ 8,57) 8,31 ± 0,046a (8,22 ÷ 8,37) 8,42 ± 0,052a (8,32 ÷ 8,50) Với 3 độ nghiêng 50, 100, 150 thì độ nghiêng 50 là tốt nhất với mức tăng DO là 0,944 ± 0,130 mg/L trung bình sau một giờ xử lý có ý nghĩa thống kê so với các độ nghiêng khác (p < 0,05) như bảng 4. Bảng 4. Biến động các yếu tố môi trường khi sử dụng máng nghiêng có các góc khác nhau Thiết bị Yếu tố Nghiêng 5o TB ± S (Min. ÷ Max.) Nghiêng 10o TB ± S (Min. ÷ Max.) Nghiêng 15o TB ± S (Min. ÷ Max.) DO (mg/L) 0,944 ± 0,130 a (0,5 ÷ 1,5) 0,633± 0,167b (0,5÷ 1,0) 0,50 ± 0,000b (0,5÷ 0,5) Nhiệt độ (oC) 25,08 ± 0,291 a (24,62 ÷ 25,62) 25,91 ± 0,291a (25,62 ÷ 26,50) 25,12 ± 0,36a (24,50 ÷ 26,50) pH 8,54 ± 0,096 a (8,40 ÷ 8,72) 8,58 ± 0,008a (8,57 ÷ 8,60) 8,58 ± 0,030a (8,50 ÷ 8,60) Các yếu tố môi trường như nhiệt độ, pH không có sự biến động lớn trong các thí nghiệm sàng lọc về máng nghiêng. Như vậy, tầng cấp đưa vào thí nghiệm sẽ được bố trí nghiêng trước 5o. Máng nghiêng sẽ được chọn với các thông số sau: nghiêng 5o, mật độ 145 lổ/máng và kích thước lổ là 12mm. 1.2. Sàng lọc thời gian Vào các thời điểm khác nhau trong ngày thì các yếu tố môi trường như nhiệt độ, pH, DO có sự biến động khác nhau, kết hợp với sự tác động của thiết bị xử lý sẽ làm thay đổi lượng DO cũng như các yếu tố khác trong nước theo các hướng khác nhau về thời gian. Thí nghiệm tiến hành sàng lọc thời gian qua 3 buổi: sáng, trưa và chiều. Bảng 5. Biến động các yếu tố môi trường vào các thời gian trong ngày Thiết bị Yếu tố Buổi sáng TB ± S (Min. ÷ Max.) Buổi trưa TB ± S (Min. ÷ Max.) Buổi chiều TB ± S (Min. ÷ Max.) DO (mg/L) 1,05 ± 0,095 b (1,25 ÷ 1,58) 1,565 ± 0,115a (2,00 ÷ 2,25) 1,201 ± 0,073b (1,58 ÷ 1,83) Nhiệt độ (oC) 26,67 ± 0,252 b (26,21 ÷ 27,08) 27,80 ± 0,390a (27,06 ÷ 28,38) 26,39 ± 0,121b (26,15 ÷ 26,54) pH 8,22 ± 0,037 b (8,18 ÷ 8,30) 8,64 ± 0,160a (8,34 ÷ 8,89) 8,32 ± 0,049b (8,23 ÷ 8,39) Từ bảng 5 cho thấy buổi trưa, DO tăng trung bình cao nhất với 1,565 ± 0,115 mg/L sau 1 giờ thí nghiệm có ý nghĩa thống kê so với buổi sáng và chiều (p < 0,05). Nhiệt độ và pH vào buổi trưa cao hơn sơ với buổi sảng và buổi chiều và có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Điều này cũng dễ dàng nhận thấy do buổi trưa quá trình quang hợp diễn ra mạnh mẽ nhất nên cơ chất cho quang hợp là CO2 được sử dụng tối đa và sản phẩm của quang hợp là oxy được tạo ra cũng lớn nhất. Chính vì vậy sẽ làm cho pH tăng cao nhất. Nhiệt độ tăng cao hơn là phù hợp với quy luật biến đổi nhiệt độ trong ngày. Do đó, thời gian xử lý tốt nhất trong ngày là buổi trưa (11-14 giờ). 1.3. Sàng lọc phương pháp theo các nhóm thí nghiệm Sau khi đã sàng lọc được máng nghiêng, tầng cấp với các thông số tối ưu trong xử lý nước thải. Đối với máng nghiêng, thông số tối ưu là sử dụng kích thước lổ 12mm, mật độ lổ 149 lổ/máng, độ nghiêng máng là 50. Tương tự đối với tầng cấp, thông số tối ưu là bố trí tầng cấp nghiêng trước 50. Đề tài áp dụng các thông số đó vào việc sàng lọc phương pháp để chọn ra phương pháp tối ưu theo từng nhóm. Biến động các yếu tố môi trường theo các phương pháp như sau: Trong nhóm tia nước thì phương pháp tầng cấp tốt hơn so với phương pháp máng nghiêng. Tầng cấp có khả năng làm tăng DO cao gấp 2,5 lần so với máng nghiêng có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. DO tăng trung bình sau 1 giờ xử lý của tầng cấp là 2,333 ± 0,289 mg/L. Các yếu tố môi trường khác không có sự biến động lớn. Trong nhóm quạt nước thì phương pháp quạt nhím hiệu quả hơn phương pháp quạt chân vịt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Mức DO tăng trung bình 1 giờ xử lý ở phương pháp quạt nhím (2,000 ± 0,186 mg/L). Các yếu tố nhiệt độ và pH không có sai khác ở 2 phương pháp. Như vậy, trong nhóm tia nước thì tầng cấp sẽ được chọn và trong nhóm quạt nước thì quạt nhím sẽ được chọn để đưa vào thí nghiệm. 2. Thí nghiệm khả năng làm tăng hàm lượng DO của các phương pháp + Mức tăng hàm lượng DO Trung bình sau 1 giờ xử lý thì hàm lượng DO tăng trung bình ở các phương pháp có sự khác nhau, mức tăng DO trung bình cao nhất ở phương pháp tầng cấp là 2,333 ± 0,289 mg/L; kế đến là phương pháp quạt nhím là 2,000 ± 0,1 mg/L và sục khí là 0,667 ± 0,118 mg/L trong khi đó ở ao đối chứng hàm lượng DO tăng lên chỉ đạt 0,333 ± 0,118 mg/L. Giá trị tăng DO biến động rất lớn từ 0,0 ÷ 3.5 mg/L. Tuy nhiên, mức tăng DO ở các giờ xử lý khác nhau. Ở giờ xử lý đầu tiên mức tăng DO ở các phương pháp cao nhất sau đó giảm dần vào các giờ xử lý tiếp theo thể hiện như trong bảng 6. Bảng 6. Hàm lượng DO sau các giờ xử lý ở các phương pháp Phương pháp xử lý Thời gian xử lý Tầng cấp (mg/l) Quạt nhím (mg/l) Sục khí (mg/l) Đối chứng (mg/l) 0 giờ 2,302±0,338 2,016±0,344 2,708±0,26 2,234±0,139 1 giờ 6,517±0,072 4,576±0,314 3,880±0,159 3,098±0,43 2 giờ 7,272±0,082 4,692±0,46 4,951±0,130 4,634±0,028 3 giờ 7,973±0,196 5,895±0,372 5,788±0,162 5,128±0,053 Trung bình mỗi giờ 2,333±0,289a 2,000±0,100a 0,667±0,118b 0,333±0,118b Để so sánh khả năng làm tăng hàm lượng DO trong nước thải ở các phương pháp xử lý thì phương pháp phân tích One-Way Anova được tiến hành. Kết quả phân tích cho thấy rằng so sánh tầng cấp với quạt nhím thì tầng cấp có khả năng làm tăng DO cao hơn so với quạt nhím nhưng không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05; trong khi đó so sánh tầng cấp với sục khí và đối chứng thì kết quả cho thấy sự khác biệt rõ ràng là tầng cấp có hiệu quả cao hơn trong việc làm tăng hàm lượng DO với mức ý nghĩa thống kê lần lượt là p = 0,001 và p = 0,002 (p < 0,05). Nguyên nhân lượng DO tăng lên ở phương pháp tầng cấp cao nhất là do cấu tạo của tầng cấp gồm có 3 bậc, nước thải qua các bậc sẽ tạo ra các tia nước nhiều và thời gian các tia nước tiếp Đồ thị 2. Mức tăng DO ở các phương pháp xử lý ở nhóm tia nước Đồ thị 3. Mức tăng DO ở các phương pháp xử lý ở nhóm quạt nước xúc với không khí lâu hơn các phương pháp khác. Vì vậy lượng oxy không khí khuếch tán vào nước sẽ nhiều hơn làm cho DO trong nước thải tăng lên. Như vậy qua phân tích cho thấy rằng cả 3 phương pháp sử dụng trong nghiên cứu đều có khả năng làm tăng hàm lượng DO trong nước thải. Tuy nhiên hiệu quả của các phương pháp khác nhau trong đó phương pháp tầng cấp có hiệu quả tốt nhất. Chỉ sau 3 giờ xử lý bằng phương pháp tầng cấp giá trị DO tăng lên đạt tiêu chuẩn cho phép của nước thải. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng phương pháp sinh học cho xử lý nước thải nuôi tôm cũng như ứng dụng hệ thống kết hợp cho việc xử lý và quản lý nguồn chất thải từ các vùng nuôi tôm bảo đảm phát triền nghề nuôi tôm bền vững. + Biến động yếu tố nhiệt độ và pH ở các phương pháp thí nghiệm Bảng 7. Biến động yếu tố nhiệt độ và pH ở các phương pháp xử lý Yếu tố Quạt nhím Tầng cấp Sục khí Đối chứng Nhiệt độ (0C) 27,167±0,144b (26÷28) 27,278±0,222b (26÷28) 27,333±0,118b (27÷28) 28,444±0,194a (27÷29) pH 8,611±0,061b (8,3÷8,8) 8,567±0,024b (8,5÷8,7) 8,567±0,033b (8,4÷8,7) 8,989±0,011a (8,9÷9,0) Từ bảng 7 cho thấy, nhiệt độ biến động ở các phương pháp không lớn. Nhiệt độ trung bình ở phương pháp quạt nhím là thấp nhất với 27,167 ± 0,1440C; nhiệt độ trung bình ở ao đối chứng là cao nhất với 28,444 ± 0,1940C. Nhiệt độ cao nhất trong quá trình xử lý là 290C và thấp nhất là 260C. Như vậy nhiệt độ nước thải trong quá trình xử lý ở các phương pháp nằm trong giới hạn cho phép đầu ra của nước thải. Khi phân tích thống kê cho thấy, nhiệt độ ở các phương pháp quạt nhím, tầng cấp, sục khí không có sai khác nhau có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Chỉ riêng ao đối chứng thì nhiệt độ cao hơn hẳn các phương pháp khác và có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Đối với pH, giá trị trung bình ở ao đối chứng là cao nhất pH = 8,99 ± 0,011; pH trung bình ở phương pháp sục khí và tầng cấp là thấp nhất với pH = 8,567. Biến động pH từ 8,3 ÷ 9,0. Giới hạn pH này cũng nằm trong ngưỡng cho phép đầu ra nước thải. Phân tích One – Way Anova cho thấy pH ở phương pháp đối chứng cao hơn hẳn các phương pháp khác và có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Còn các phương pháp khác không có sự sai khác có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Nguyên nhân có sự biến động nhiệt độ và pH là do thí nghiệm được tiến hành vào buổi trưa nên nhiệt độ ở các ao đều tăng, đặc biệt là ở ao đối chứng do không có sự xáo trộn nước nên mức hấp thụ nhiệt trong ao này là cao nhất. Trong khi đó ở các phương pháp quạt nhím, tầng cấp và sục khí thì nước được xáo trộn liên tục nhờ các thiết bị hoạt động nên nước sẽ tiếp xúc với không khí, gió làm cho lượng nhiệt tăng thêm sẽ ít hơn. Do đó nhiệt độ ở ao đối chứng cao hơn các ao xử lý. IV. KẾT LUẬN Nghiên cứu đã bước đầu thiết kế và ứng dụng 3 phương pháp cơ học cho việc làm tăng hàm lượng DO là tầng cấp, quạt nhím và sục khí. Qua kết quả thí nghiệm cho thấy cả 3 phương pháp xử lý đều có khả năng ứng dụng cho việc làm tăng hàm lượng DO cho nước thải nuôi tôm chân trắng, trong đó phương pháp tầng cấp có hiệu quả cao nhất. Hàm lượng oxy hòa tan (DO) tăng lên trung bình là 2,333 ± 0,289 mg/L sau 1 giờ xử lý bằng phương pháp tầng cấp. Trong khi đó ở bể đối chứng lượng DO tăng lên chỉ 0,333 ± 0,118 mg/L trong một giờ xử lý. Nếu sử dụng tầng cấp để làm tăng DO thì chỉ sau 1 giờ xử lý hàm lượng DO trong nước thải tăng lên đạt tiêu chuẩn cho phép (DO > 4 mg/l). Trong khi đó nếu không xử lý thì DO chỉ tăng lên không đáng kể (0,333 ± 0,118 mg/l) trong 3 giờ đầu của thí nghiệm nhưng sau đó có xu hướng giảm dần ở các giờ xử lý tiếp theo. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Boyd, Claude. E. Water quality: an introduction, Springer Netherlands, (2000), 330 pages. 2. Funge-Smith, S. J. and M. R. P. Briggs. Nutrient budgets in intensive shrimp ponds: implications for sustainability. Aquaculture 164(1-4) (1998): 117-133. 3. Gonçalves, A. A. and G. A. Gagnon. Ozone Application in Recirculating Aquaculture System: An Overview. Ozone: Science & Engineering 33(5) (2011): 345-367. 4. Hauser, J. R. Use of water hyacinth aquatic treatment systems for ammonia control and effluent polishing. Journal (Water Pollution Control Federation) (1984): 219-225. 5. Isla Molleda, M. Water quality in recirculating aquaculture systems (RAS) for arctic charr (salvelinus alpinus L.) culture. Aquaculture 184(2-3) (2008): 115-127 6. Jongsuphaphong, M. and S. Sirianuntapiboon. Design and application of new type of oxygen supplier for water and wastewater treatment. African Journal of Biotechnology 7(19) (2010). 7. Nguyen Quang Lich, Le Cong Tuan, et al.. Effects Of Intensive Shrimp Farming On The Environment In Tam Giang Lagoon, Thua Thien Hue Province, Vietnam. 9th Asian Fisheries & Aquaculture Forum Shanghai, China, Asia Aquaculture Journal, (2011). 8. Lin, Y. F., S. R. Jing, et al.. Nutrient removal from aquaculture wastewater using a constructed wetlands system. Aquaculture 209(1-4) (2002): 169-184. 9. Siikavuopio, S. I. S., S. Sæther, B.S.. Aquacultural Engineering. Aquacultural Engineering 41 (2009): 122-126. 10. Sở NN&PTNT tỉnh Thừa Thiên Huế. Báo cáo tổng kết công tác thủy sản năm 2010 và kế hoạch năm 2011. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Thừa Thiên Huế số 1571/BC- NNPTNT ngày 14 tháng 12 năm 2010 (10 trang) 11. Timmons, M. B., Ebeling, J.M., Wheaton, F.W., Summerfelt, S.T. and Vinci, B.J. Recirculating Aquaculture Systems. Cayuga Aqua Ventures, Ithaca, NY 14850, USA. NRAC Publication No. 01-002 (2002). 12. Lê Văn Thăng. Diễn biến môi trường ở vùng nuôi trồng thủy sản khu vực miền Trung Việt Nam. Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ 3, Đại Học Quốc Gia Hà nội, (2008). 13. Nguyễn Văn Trung. Quản lý chất lượng nước trong ao nuôi trồng thủy sản. Nhà Xuất Bản Nông Nghiệp, Thành phố Hồ Chí Minh, (2004). STUDIES ON DISSOLVED OXYGEN (DO) TREATMENT METHODS FROM WHITE LEG SHRIMP (Litopenaeus vannamei) FARM WASTEWATER IN DIEN MON COMMUNE, PHONG DIEN DISTRICT, THUA THIEN HUE PROVINCE Truong Van Dan, Nguyen Quang Lich, Le Cong Tuan, Pham Van Lai Hue University of Agriculture and Forestry SUMMARY Studies on methods of dissolved oxygen (DO) treatment from white leg shrimp (Litopenaeus vannamei) farm wastewater are carried out by two stages: the stage of the screening and the experiment. In the stage of the sreening, experimental results indicated that the splash board method with 50 declination gave highest treatment DO efficiency at statistical significant level p<0.05. Average dissolve oxygen (DO) level enhancing after one treatment hour 1.833 ± 0.300 mg/L by splash board treatment method with 50 declination. The water trough has 3 hole sizes (8mm, 12mm and 16mm), has 3 hole densitys (49 holes, 81 holes and 145 holes per one water trough), has 3 declinations (50, 100 and 150) to selecting. Experimental results showed that the water trough with 12mm hole size, 145 holes and 50 declination gave highest treatment DO efficiency with average dissolve oxygen (DO) level enhancing after one treatment hour at 1.222 ± 0.169 mg/L, 1.222 ± 0,188 mg/L and 0.944 ± 0,130 mg/L respectively. The time treatment selecting has the morning, the noon and the afternoon. The noon gave highest treatment DO efficiency at 1,565 ± 0,115 mg/L average dissolve oxygen (DO) level enhancing after one treatment hour at statistical significant level p < 0.05. Methods screening follow the groups have 2 groups (the spray and water fan). In the spray group, the splash board is better than the water trough. In the water fan group, porcupine-fan is better than the flipper-fan. After the the finish of screening stage, the researching is carried out the experiment stage with 4 methods (the splash board, porcupine-fan, aerator and control experiment) to select one best method. Experimental results reflected that the splash board method gave highest treatment DO efficiency at statistical significant level p<0.05 with average dissolve oxygen (DO) level enhancing after one treatment hour 2.333 ± 0.289 mg/L. Meanwhile, in control pond DO level increases 0.333 ± 0.118 mg/l in one treatment hour. Keywords: Dissolved oxygen, aerator, mechanical treatment, porcupine-fan, slipper-fan, splash board, water trough, white leg shrimp
File đính kèm:
- nghien_cuu_cac_phuong_phap_xu_ly_khi_oxy_hoa_tan_do_trong_nu.pdf