Nền kinh tế số của Việt Nam: Kịch bản phát triển và hành động cụ thể

Nền kinh tế số được sử dụng

trong bài viết này được hiểu theo

nghĩa rộng, bao gồm tất cả các

doanh nghiệp có mô hình sản xuất,

kinh doanh chủ yếu dựa trên việc sản

xuất, mua bán hoặc cung cấp các

sản phẩm, dịch vụ số hoặc các thiết

bị và cơ sở hạ tầng hỗ trợ.

Thương mại điện tử hiện là một

trong những phân khúc phát triển

nhanh nhất của nền kinh số Việt

Nam, với mức tăng trưởng 35% mỗi

năm, nhanh hơn 2,5 lần so với Nhật

Bản [1]. Số lượng người mua sắm trực

tuyến được dự đoán sẽ tăng 52% và

doanh thu trực tuyến đạt 10 tỷ USD

vào năm 2020 tại Việt Nam [2].

Nội dung số là một điểm sáng

khác. Facebook là mạng xã hội phổ

biến nhất tại Việt Nam, Việt Nam

đứng thứ 7 trong số các quốc gia có

nhiều người dùng Facebook nhất trên

thế giới [3]. Các dịch vụ như Zalo,

Skype và Viber đang thay thế các

dịch vụ gọi điện và gửi tin nhắn SMS

truyền thống ở Việt Nam [4]. Việt

Nam đã trở thành một trong những

thị trường trò chơi trực tuyến lớn nhất

Đông Nam Á. Năm 2018, Việt Nam

đứng thứ 25 trong tổng số 100 quốc

gia có tổng doanh thu trò chơi điện tử

lớn nhất, đạt 490 triệu USD, vượt qua

Phi-líp-pin và Xinh-ga-po [5].

Nền kinh tế số của Việt Nam: Kịch bản phát triển và hành động cụ thể trang 1

Trang 1

Nền kinh tế số của Việt Nam: Kịch bản phát triển và hành động cụ thể trang 2

Trang 2

Nền kinh tế số của Việt Nam: Kịch bản phát triển và hành động cụ thể trang 3

Trang 3

Nền kinh tế số của Việt Nam: Kịch bản phát triển và hành động cụ thể trang 4

Trang 4

Nền kinh tế số của Việt Nam: Kịch bản phát triển và hành động cụ thể trang 5

Trang 5

pdf 5 trang baonam 7600
Bạn đang xem tài liệu "Nền kinh tế số của Việt Nam: Kịch bản phát triển và hành động cụ thể", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nền kinh tế số của Việt Nam: Kịch bản phát triển và hành động cụ thể

Nền kinh tế số của Việt Nam: Kịch bản phát triển và hành động cụ thể
11
Soá 8 naêm 2019
Diễn đàn khoa học và công nghệ
Sự phát triển là tất yếu
Nền kinh tế số được sử dụng 
trong bài viết này được hiểu theo 
nghĩa rộng, bao gồm tất cả các 
doanh nghiệp có mô hình sản xuất, 
kinh doanh chủ yếu dựa trên việc sản 
xuất, mua bán hoặc cung cấp các 
sản phẩm, dịch vụ số hoặc các thiết 
bị và cơ sở hạ tầng hỗ trợ. 
Thương mại điện tử hiện là một 
trong những phân khúc phát triển 
nhanh nhất của nền kinh số Việt 
Nam, với mức tăng trưởng 35% mỗi 
năm, nhanh hơn 2,5 lần so với Nhật 
Bản [1]. Số lượng người mua sắm trực 
tuyến được dự đoán sẽ tăng 52% và 
doanh thu trực tuyến đạt 10 tỷ USD 
vào năm 2020 tại Việt Nam [2]. 
Nội dung số là một điểm sáng 
khác. Facebook là mạng xã hội phổ 
biến nhất tại Việt Nam, Việt Nam 
đứng thứ 7 trong số các quốc gia có 
nhiều người dùng Facebook nhất trên 
thế giới [3]. Các dịch vụ như Zalo, 
Skype và Viber đang thay thế các 
dịch vụ gọi điện và gửi tin nhắn SMS 
truyền thống ở Việt Nam [4]. Việt 
Nam đã trở thành một trong những 
thị trường trò chơi trực tuyến lớn nhất 
Đông Nam Á. Năm 2018, Việt Nam 
đứng thứ 25 trong tổng số 100 quốc 
gia có tổng doanh thu trò chơi điện tử 
lớn nhất, đạt 490 triệu USD, vượt qua 
Phi-líp-pin và Xinh-ga-po [5]. 
Các dịch vụ chính phủ điện tử 
đang được triển khai nhanh chóng ở 
Việt Nam. Giai đoạn 2014-2017, Việt 
Nam đã tăng 10 bậc và xếp thứ 88 
trong tổng số 193 quốc gia/vùng lãnh 
thổ về Chỉ số phát triển chính phủ 
điện tử (EGDI) của Liên hợp quốc 
[6]. Điểm trọng tâm trong các sáng 
kiến chính phủ điện tử của Việt Nam 
là phát triển bộ máy hành chính nhà 
nước trong các lĩnh vực tài chính, hải 
quan và thuế. Những nỗ lực này đã 
mang lại kết quả tích cực. Trong cuộc 
khảo sát của Bộ Công thương vào 
năm 2016, 74% các doanh nghiệp 
cho biết họ đã sử dụng dịch vụ công 
trực tuyến. Quản lý thuế trực tuyến 
là dịch vụ công được sử dụng thường 
xuyên nhất (88%), tiếp đến là đăng 
ký kinh doanh trực tuyến (41%) và 
khai báo hải quan.
Bên cạnh đó, nền kinh tế chia sẻ 
của Việt Nam ngày càng phát triển 
đang mang đến những mô hình kinh 
doanh mới cho nền kinh tế. Các nền 
tảng chia sẻ chuyến đi (Uber, Grab) là 
một ví dụ, nó đã tạo ra sự cạnh tranh 
với các doanh nghiệp taxi truyền 
thống, buộc các nhà cung cấp dịch 
vụ taxi truyền thống ở Việt Nam phải 
phát triển nền tảng và ứng dụng di 
động của riêng mình để cạnh tranh. 
Tóm lại, thương mại điện tử tăng 
trưởng nhanh, nội dung số là điểm 
sáng, các dịch vụ chính phủ điện tử 
đang được triển khai nhanh chóng, 
nền kinh tế chia sẻ ngày càng phát 
triển cho phép chúng ta khẳng định 
rằng, nền kinh tế số của Việt Nam là 
sự phát triển tất yếu trong tương lai.
Các kịch bản phát triển
Các kịch bản là những câu chuyện 
hợp lý, có cơ sở, có thể xảy ra tại một 
thời điểm nhất định trong tương lai. 
Các kịch bản được xác định bằng 
Nền kinh tế số của việt Nam: 
KịCH BảN PHáT TriểN và HàNH độNg Cụ THể
PGS.TS Nguyễn Đức Thành, TS Nguyễn Cẩm Nhung
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội
Thương mại điện tử tăng trưởng nhanh, nội dung số là điểm sáng, các dịch vụ chính phủ điện tử 
đang được triển khai nhanh chóng, nền kinh tế chia sẻ ngày càng phát triển đó là những tiền đề 
quan trọng để khẳng định nền kinh tế số của Việt Nam là một sự phát triển tất yếu. Có 4 kịch bản 
cho tương lai nền kinh tế số của Việt Nam đến năm 2045: kịch bản truyền thống, kịch bản chuyển đổi 
số, kịch bản xuất khẩu số, kịch bản tiêu dùng số. Các kịch bản này được Bộ Khoa học và Công nghệ 
(Việt Nam) cùng với Cơ quan Nghiên cứu Khoa học và Công nghiệp Úc (CSIRO) xây dựng với một lộ 
trình và danh sách các hành động cụ thể. Tìm ra con đường phù hợp nhất để đầu tư liên tục cho phát 
triển nền kinh tế số chính là việc đặt các thứ tự ưu tiên, cũng như thiết lập trình tự phát triển đúng sẽ 
đảm bảo phân bổ nguồn lực tối ưu và lợi nhuận tối đa cho Nhà nước để tiếp tục đầu tư. 
12 Soá 8 naêm 2019
Diễn đàn Khoa học và Công nghệ
cách mở rộng xu hướng và xu thế 
chủ đạo trong tương lai, tạo ra các 
trục có tác động lớn nhất và có tính 
bất định nhất. Các kịch bản được xây 
dựng thông qua việc phân tích những 
xu thế chủ đạo có khả năng gây ảnh 
hưởng lớn, dễ biến đổi nhất và đưa ra 
dự đoán về tác động của những xu 
thế chủ đạo này đối với nền kinh tế 
số của Việt Nam trong tương lai. Có 4 
kịch bản cho tương lai của Việt Nam 
đến năm 2045: 
Kịch bản truyền thống
Đối với kịch bản này, ứng dụng 
số diễn ra tương đối chậm và năng 
suất lao động trì trệ. Nền kinh tế vẫn 
chủ yếu phụ thuộc vào xuất khẩu 
các sản phẩm truyền thống (nông 
nghiệp, thủy sản và khai khoáng) và 
ngành du lịch đang phát triển. Việc 
ứng dụng các sản phẩm công nghệ 
thông tin và truyền thông (CNTT&TT) 
chậm và nhỏ lẻ trong các ngành và 
không có công nghệ đột phá toàn 
cầu nào. Ngành CNTT&TT nằm ở 
một số trung tâm đô thị và gặp khó 
khăn trong việc giữ chân các lập trình 
viên có trình độ cao ở lại Việt Nam.  ... ẳng ngày càng tăng 
trên khắp đất nước. Tăng trưởng kinh 
tế ở Việt Nam không toàn diện mà 
chủ yếu giới hạn trong một số vùng 
đặc quyền ở khu vực trung tâm thành 
thị. Điều này tạo ra một nền kinh tế 
hai tốc độ với một số trung tâm đô 
thị phát triển mạnh, còn các khu 
vực rộng lớn ở bên ngoài đô thị vẫn 
phụ thuộc vào phương thức sản xuất 
thâm dụng lao động. Theo kịch bản 
này, công nghệ số có thể đóng góp 
66,9 tỷ USD và 19,1% tổng việc làm 
có nguy cơ bị thay thế bởi tự động 
hóa vào năm 2045. 
Kịch bản này có thể xảy ra nếu 
Việt Nam tập trung chi tiêu cho cơ 
sở hạ tầng và giáo dục để phát triển 
ngành CNTT, đặc biệt là những hoạt 
động liên quan đến các trường đại 
học, trung tâm đô thị và bất động 
sản mới, hơn là các chính sách và 
chương trình mở rộng về giáo dục 
và cơ sở hạ tầng. Tương tự, các cải 
cách cơ cấu và pháp lý chủ yếu chỉ 
ưu tiên cho sự phát triển của ngành 
CNTT&TT trong nước. Đầu tư cho 
môi trường trực tuyến an toàn và giáo 
dục đào tạo cho lực lượng lao động 
thấp dẫn đến lòng tin cùng tỷ lệ sử 
dụng các dịch vụ trực tuyến và nền 
tảng thấp cũng như tỷ lệ chuyển đổi 
ở các ngành truyền thống không cao, 
đặc biệt ở ngành nông nghiệp và sản 
xuất chế tạo. 
Rủi ro chính của kịch bản này 
là sự bất bình đẳng và sự phát triển 
của một nền kinh tế hai tốc độ. Có 
nguy cơ tạo ra những khu vực phát 
triển thuận lợi và không thuận lợi, 
gây ra sự bất ổn xã hội và sự phát 
triển mạnh mẽ hơn của nền kinh tế 
phi chính thức. Thiếu những chuyển 
đổi số rộng khắp và bỏ lỡ cơ hội từ 
việc tăng năng suất trên diện rộng, 
mở rộng thị trường, phát triển thị 
trường ở các ngành, khiến cho Việt 
Nam rơi vào bẫy thu nhập trung bình. 
Việt Nam là mục tiêu của các doanh 
nghiệp quốc tế nhờ giá nhân công rẻ 
và chi phí nguyên liệu đầu vào thấp, 
không phải là nơi cung cấp sản phẩm 
và dịch vụ giá trị gia tăng. Có rất ít 
chuyển giao công nghệ đi kèm với 
đầu tư ở Việt Nam. Đất nước cũng 
mất đi năng lực trí tuệ - năng lực có 
thể mang lại các cơ hội để nhảy lên 
vị thế thu nhập cao.
Kịch bản tiêu dùng số 
Các ngành ở Việt Nam ứng dụng 
các sản phẩm và dịch vụ số của nước 
ngoài, cải thiện năng suất trên nhiều 
lĩnh vực. Tỷ lệ thất nghiệp cao ở một 
số lĩnh vực do tốc độ tự động hóa 
nhanh ở nhiều ngành. Chuyển đổi 
công nghiệp diễn ra trên diện rộng 
nhưng chi phí cao trong dài hạn do 
phải nhập khẩu công nghệ và nền 
tảng từ nước ngoài. Các công ty đa 
quốc gia chi phối về cung cấp sản 
phẩm và dịch vụ CNTT&TT. Ở kịch 
bản này, công nghệ số có thể đóng 
góp 102,8 tỷ USD và 28,9% tổng số 
việc làm có nguy cơ bị thay thế bởi tự 
động hóa vào năm 2045.
Kịch bản này có thể diễn ra trong 
các tình huống như giá cả hàng hóa 
tăng mạnh, đặc biệt đối với sản phẩm 
từ ngành khai khoáng và nông nghiệp. 
Việc này có thể kích thích tăng hiệu 
quả sản xuất thông qua ứng dụng 
công nghệ. Điều này cũng sẽ làm 
tăng tỷ giá hối đoái, tăng lương và 
giảm thị trường cho hàng hóa thâm 
dụng lao động, bao gồm cả các sản 
phẩm trong lĩnh vực CNTT&TT. 
Để kịch bản này xảy ra, cần có 
đầu tư trên diện rộng để hiện đại 
hóa công nghiệp với các chính sách 
về CMCN 4.0 cũng như đầu tư phát 
triển cơ sở hạ tầng CNTT&TT và 
năng lượng an toàn, ổn định. Tuy 
nhiên, thiếu sự quan tâm cho lĩnh 
vực giáo dục sẽ dẫn tới thiếu kỹ năng 
CNTT&TT để tận dụng lợi ích tối đa 
của việc số hóa. Đầu tư trong nước 
tập trung cho cơ sở hạ tầng và cơ sở 
vật chất. Ví dụ, cần có nhiều đầu tư 
hơn nữa vào hạ tầng cảng và thành 
phố thông minh, dịch vụ chính phủ 
điện tử. Tương tự như trong kịch bản 
chuyển đổi số, kịch bản tiêu dùng số 
cũng cần có cải cách pháp lý trên 
diện rộng để tạo điều kiện cho việc 
ứng dụng số, khuyến khích chuyển 
đổi công nghiệp và thu được những 
lợi ích từ số hóa. 
Những rủi ro chính của kịch bản 
tiêu dùng số là Việt Nam có thể bỏ lỡ 
cơ hội phát triển các thị trường xuất 
khẩu mới trong lĩnh vực công nghệ 
cao thông qua sở hữu trí tuệ, nền 
tảng dịch vụ và tài sản số. Việt Nam 
trở thành đối tượng bị thu thập dữ liệu 
nhiều hơn từ các công ty nước ngoài 
do các công ty này có vai trò ngày 
càng quan trọng trong thị trường lao 
động và hệ thống phân phối. Các 
hệ thống số được tạo ra ở Việt Nam 
chưa được điều chỉnh phù hợp với 
điều kiện trong nước, về lâu dài, chi 
phí vận hành các hệ thống này trở 
nên đắt đỏ hơn do chi phí thuê bao 
và các tác động ngoại cảnh lên chính 
sách và lao động trong nước. Các 
khoản vay mượn quá mức, khiến nợ 
14 Soá 8 naêm 2019
Diễn đàn Khoa học và Công nghệ
công tăng đến mức không bền vững.
4 kịch bản nêu trên mô tả những 
khả năng có thể xảy ra trong vòng 
25 năm tới do những tác nhân bên 
ngoài ảnh hưởng đến nền kinh tế 
số của Việt Nam. Đây là những tác 
nhân thay đổi nằm ngoài tầm kiểm 
soát của các nhà hoạch định chính 
sách cũng như những người đứng 
đầu các ngành của Việt Nam, ví dụ 
như khủng khoảng kinh tế toàn cầu 
tác động đến tốc độ quốc tế hóa và 
tình hình thương mại của Việt Nam, 
mức độ thích nghi với công nghệ số 
mới nổi (trong nước và trên toàn cầu) 
thấp, hoặc GDP bị ảnh hưởng mạnh 
do thời tiết cực đoan hay tấn công 
mạng quốc tế. Việt Nam nên chuẩn 
bị cho tất cả 4 kịch bản. Mặc dù các 
tác nhân bên ngoài có thể quyết định 
các kịch bản, nhưng kịch bản nào sẽ 
xảy ra phụ thuộc vào cả các tác nhân 
bên trong và bên ngoài và hành động 
trong nội bộ của Việt Nam có thể thay 
đổi xác suất của mỗi kịch bản.
Các hành động cụ thể
Việt Nam đang đứng ở một thời 
điểm quan trọng trong quá trình phát 
triển của mình - đạt vị thế thu nhập 
trung bình và bước vào thời kỳ đầu 
của cuộc CMCN 4.0. Đất nước đã 
duy trì được tăng trưởng GDP ở tốc 
độ cao trong thập kỷ vừa qua, tuy 
nhiên năng suất ở các ngành công 
nghiệp đang chững lại và điều này là 
dấu hiệu cho thấy cần có những thay 
đổi quan trọng trong chiến lược kinh 
tế vào lúc này để Việt Nam có thể 
tiến đến vị thế thu nhập cao. 
Để Việt Nam tiến lên phía trước, 
việc chuyển đổi sang tăng TFP dựa 
trên công nghệ có vai trò then chốt. 
Tuy nhiên, con đường cho tương 
lai của nền kinh tế Việt Nam có thể 
không suôn sẻ như trong quá khứ. 
Trong tương lai gần, bất ổn toàn cầu, 
nợ nước ngoài, áp lực lạm phát và 
thay đổi tỷ giá hối đoái có thể làm 
tăng những rủi ro cho đất nước. Do 
đó, việc tìm ra con đường phù hợp 
nhất để đầu tư liên tục cho phát triển 
nền kinh tế số chính là việc đặt các 
thứ tự ưu tiên, cũng như thiết lập trình 
tự phát triển đúng sẽ đảm bảo phân 
bổ nguồn lực tối ưu và lợi nhuận tối 
đa cho Nhà nước để tiếp tục đầu tư. 
Nhằm hỗ trợ các nhà hoạch định 
chính sách và những người đứng đầu 
của các ngành, Bộ Khoa học và Công 
nghệ (Việt Nam) cùng với CSIRO đã 
xây dựng một lộ trình và danh sách 
các hành động cụ thể để tiến tới một 
nền kinh tế số cho Việt Nam.
Cơ sở hạ tầng
Ưu tiên đầu tiên của Chính phủ 
là phát triển hạ tầng mạng lưới 
CNTT&TT và năng lượng. Dữ liệu 
được kết nối và nguồn cung cấp năng 
lượng ổn định sẽ quyết định phương 
thức, lĩnh vực và mức độ phát triển 
của nền kinh tế số Việt Nam. Trong 
tương lai, Việt Nam sẽ cần các khoản 
đầu tư rất lớn. Quy hoạch phát triển 
điện lực quốc gia giai đoạn 2011-
2020, tầm nhìn 2030 của Nhà nước 
sẽ cần vốn đầu tư khoảng 10 tỷ USD 
mỗi năm và lên đến khoảng 148 tỷ 
USD trong giai đoạn 2016-2030. Mặc 
dù chưa có con số ước tính cụ thể cho 
Việt Nam, nhưng để xây dựng mạng 
5G mới ở Hàn Quốc (một quốc gia 
có diện tích bằng khoảng 1/3 và dân 
số bằng khoảng 1/2 Việt Nam) sẽ tốn 
khoảng 8 tỷ USD là một ví dụ để Việt 
Nam tham khảo.
Một số hành động khả thi để hỗ 
trợ việc cung cấp cơ sở hạ tầng phục 
vụ bao gồm: kiểm tra hiện trạng cơ 
sở hạ tầng CNTT&TT và năng lượng 
để phát hiện rò rỉ và thiếu sót trong 
mạng lưới truyền tải điện và các hạ 
tầng số trên khắp Việt Nam; phát 
triển các bản đồ quốc gia và đo 
lường hiệu suất mạng theo thời gian; 
cải thiện khả năng kết nối trên các 
vùng của cả nước, đặc biệt ở khu vực 
nông thôn và vùng sâu vùng xa; tìm 
hiểu các phương pháp khác nhau để 
cấp vốn đầu tư cơ sở hạ tầng mới; thí 
điểm các hệ thống thành phố thông 
minh và xây dựng "phòng thí nghiệm 
cuộc sống thành thị" ở các khu vực 
thành thị. 
An ninh mạng và quản trị dữ 
liệu
Việc thiết lập các mạng an toàn và 
năng lực an ninh mạng vững mạnh 
đóng vai trò vô cùng quan trọng trong 
bối cảnh mức độ tổn thất do các cuộc 
tấn công mạng ngày càng cao. Tăng 
số lượng các máy chủ an toàn và xây 
dựng năng lực an ninh mạng cũng rất 
cần thiết để xây dựng niềm tin trên 
mạng lưới. 
Một số hành động khả thi để cải 
thiện an ninh mạng và quản trị dữ 
liệu tại Việt Nam bao gồm: chủ động 
hợp tác với các tổ chức quốc tế về an 
ninh mạng và quản trị dữ liệu; phát 
triển hơn nữa năng lực an ninh mạng 
cho lực lượng lao động thông qua 
các kênh giáo dục truyền thống, đào 
tạo vừa học vừa làm; thành lập cơ 
quan chuyên trách về an toàn điện 
tử độc lập, đáng tin cậy và có danh 
tiếng chuyên tiếp nhận các khiếu nại, 
cung cấp các công cụ an ninh mạng 
và đào tạo cho các doanh nghiệp, tổ 
chức và cá nhân; giám sát và đảm 
bảo công bố dữ liệu về các vụ tấn 
công mạng, vi phạm dữ liệu và các 
cảnh báo, giúp cho công chúng nhận 
biết được các hành vi nguy hiểm; 
tăng cường an ninh mạng, đặc biệt 
ở những hệ thống trọng yếu như tài 
chính, năng lượng, y tế và giao thông 
thông qua việc ứng dụng các công 
nghệ mới. 
Kỹ năng số
Tình trạng thiếu hụt các kỹ năng 
và năng lực số đã làm hạn chế việc 
thực hiện thành công các kế hoạch 
chuyển đổi số đầy tham vọng trên 
toàn bộ nền kinh tế và các ngành 
công nghiệp ở Việt Nam trong vòng 
10 năm qua. Việt Nam có trình độ 
giáo dục căn bản tốt ở bậc phổ thông, 
tuy nhiên những kỹ năng và năng lực 
số ở lực lượng lao động cần được 
nâng cao hơn nữa và nhanh hơn nữa 
để giúp Việt Nam có thể chuyển sang 
15
Soá 8 naêm 2019
Diễn đàn khoa học và công nghệ
một nền kinh tế phát triển hơn dựa 
trên tri thức và xóa bỏ khoảng cách 
về số ở khắp Việt Nam.
Một số hành động khả thi để phát 
triển các kỹ năng số ở Việt Nam bao 
gồm: tập trung vào các kỹ năng như 
lập trình, STEM và máy tính hơn 
là đào tạo nghề; thúc đẩy giáo dục 
người lớn và tư tưởng học tập suốt 
đời; tăng cường mối liên kết giữa giáo 
dục đại học và nhu cầu lao động ở 
các ngành thông qua việc thành lập 
các hội đồng hỗ trợ ngành để kết 
nối tốt hơn giữa giáo dục chính quy 
ở các trường đại học, cao đẳng với 
nhu cầu của lực lượng lao động phát 
triển nhanh; đầu tư vào năng lực tính 
toán và lập trình cao cấp, đặc biệt là 
những kỹ năng có liên quan tới các 
ngành công nghiệp khác ở Việt Nam; 
thu hút trở lại chuyên gia nước ngoài 
và những lao động lành nghề khác 
bằng hỗ trợ thị thực cho người có kỹ 
năng và các hình thức ưu đãi khác. 
Hiện đại hóa Chính phủ
Các hợp đồng của Chính phủ và 
quá trình hiện đại hóa khu vực công 
có thể thúc đẩy mạnh mẽ nền kinh 
tế số trong nước. Những lợi ích này 
thể hiện ở hai mặt, khi dịch vụ công 
trở nên hiệu quả hơn, cải thiện đáng 
kể các loại dịch vụ và cắt giảm chi 
phí hoạt động nhờ vào hiện đại hóa 
và khu vực tư có thể được duy trì. 
Hơn nữa, các vấn đề về sở hữu trí tuệ 
trong thương mại được tạo ra, góp 
phần vào quá trình phát triển của khu 
vực khởi nghiệp và công nghệ thông 
qua việc tiếp tục thương mại hóa các 
hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng. 
Một số hành động khả thi để đẩy 
mạnh chính phủ điện tử và quy trình 
mua sắm đấu thầu ở Việt Nam bao 
gồm: rà soát và ưu tiên chi tiêu công; 
đổi mới cơ chế mua sắm đấu thầu 
của Chính phủ; đẩy mạnh dữ liệu mở 
và nền tảng đổi mới sáng tạo mở; 
phát triển sở hữu trí tuệ thông qua đổi 
mới sáng tạo; đẩy nhanh chính phủ 
điện tử thông qua việc thử nghiệm 
sử dụng các công nghệ như rô bốt, 
mạng cảm biến và giải pháp trí tuệ 
nhân tạo. 
CMCN 4.0 và hệ thống đổi mới 
sáng tạo quốc gia 
Hệ thống đổi mới sáng tạo quốc 
gia mạnh mẽ và CMCN 4.0 có thể 
cùng làm, giúp đẩy mạnh nền kinh 
tế số, đồng thời tự nó sẽ thúc đẩy 
chính nó lớn mạnh hơn. Một tổ chức 
hay một nền tảng đổi mới sáng tạo 
quốc gia liên kết các nhà nghiên cứu 
trên khắp Việt Nam và toàn thế giới 
có khả năng sẽ giúp tăng tốc chuyển 
đổi số trên tất cả các lĩnh vực. 
Một số hành động khả thi để đẩy 
mạnh CMCN 4.0 và hệ thống đổi mới 
sáng tạo quốc gia bao gồm: xây dựng 
một tổ chức tầm quốc gia về đổi mới 
sáng tạo và nghiên cứu về khoa học 
dữ liệu liên kết; hỗ trợ xây dựng hệ 
sinh thái khởi nghiệp cũng như phát 
triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trên 
khắp đất nước; thúc đẩy hơn nữa ứng 
dụng số trong các ngành; các trung 
tâm công nghệ và khu công nghệ 
cao khi được thành lập cần được kết 
nối thành một hệ thống để đảm bảo 
ngành công nghiệp tăng trưởng hiệu 
quả, lan tỏa được tri thức cũng như 
đảm bảo quan hệ đối tác hợp tác; 
xây dựng mức đầu tư mạo hiểm lớn 
hơn để đầu tư vào các ý tưởng sáng 
tạo; ứng dụng công nghệ blockchain 
trong đăng ký sở hữu trí tuệ.
Thuế và quy định pháp lý
Nền kinh tế số có tính di động 
cao trên toàn cầu. Các thị trường tiêu 
dùng mới nổi luôn thu hút các công 
ty CNTT&TT lớn, dẫn đến khả năng 
nhiều công ty có hành vi trốn thuế 
thông qua cơ cấu công ty toàn cầu 
có trụ sở đặt ở các thiên đường thuế. 
Việc này có thể dẫn tới tình trạng xói 
mòn cơ sở thuế và chuyển dịch lợi 
nhuận. Tuy nhiên, các nền tảng cũng 
có thể góp phần thúc đẩy hoạt động 
kinh tế, tạo ra thu nhập chịu thuế 
ở các thị trường toàn cầu và thành 
lập các doanh nghiệp, mô hình kinh 
doanh mới. Chính vì thế, các quy định 
pháp lý hiện hành bao gồm cả thuế là 
cần thiết để tạo điều kiện cũng như 
nắm bắt được những lợi ích từ nền 
kinh tế số. 
Một số hành động khả thi để cải 
thiện khung pháp lý hiện hành ở Việt 
Nam bao gồm: rà soát các quy định 
hiện hành về thuế; chủ động xem xét 
tác động của các quy định pháp lý 
đối với các công nghệ số mới bằng 
việc phân tích những tác động thay 
đổi lên phát triển số; khuyến khích 
người dân tham gia thảo luận về quy 
định pháp lý của nền kinh tế số; chủ 
động tham gia vào các khung pháp lý 
và các thỏa thuận khác về phát triển 
nền kinh tế số và dòng dữ liệu trong 
khu vực châu Á - Thái Bình Dương để 
thúc đẩy thương mại các sản phẩm 
và dịch vụ số trong khu vực ?
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] 
/Vietnam-seeks-to-boost-digital-economy/
en.
[2] https://vnexpress.net/kinh-doanh/98
-nguoi-dung-internet-tai-viet-nam-tung-
mua-sam-truc-truyen-3855189.html.
[3]vKepios (2018), Q2 Global Digital 
Statshot.
[4]vOxford Business Group (2017), The 
Report - Vietnam 2017.
[5]https://newzoo.com/insights/rankings/
top-100-countries-by-game-revenues.
[6]vUnited Nations (2017), World 
population prospects: The 2017 revision. 
[7]vOrganization for Economic Co-
operation and Development (2018), 
Economic outlook for Southeast Asia, 
China and India 2018: Fostering growth 
through digitalisation.

File đính kèm:

  • pdfnen_kinh_te_so_cua_viet_nam_kich_ban_phat_trien_va_hanh_dong.pdf