Năng lực và năng lực nghề nghiệp đặc thù giáo viên thể dục

Sự chuyển biến về chất lượng

công tác đào tạo theo xu thế phát triển

của xã hội

Trong xã hội hiện đại-xã hội thông

tin, tri thức với “Thế giới phẳng” theo

quan điểu của Thomas L. Friedman có

công thức sau: CQ + PQ > IQ, trong đó

chỉ số hiếu học CQ (Curiosity quotient)

cộng với chỉ số đam mê PQ (passion

quotient), có giá trị quan trọng hơn chỉ số

thông minh IQ (intelligent quotient). Khả

năng thích ứng, phát triển, không chỉ dựa

trên chỉ số IQ, mà quan trọng hơn là các

chỉ số trí tuệ cảm xúc, cảm thức (EQ).

Chính các yếu tố này tạo ra khả năng,

năng lực sáng tạo đặc biệt của các cá

nhân trong từng lĩnh vực nhất định và có

vai trò quan trọng trong quá trình rèn

luyện, phát triển và nâng cao các năng lực

cá nhân, tạo ra chất lượng mới của sản

phẩm đầu ra, đặc biệt là đội ngũ nhân lực

có trình độ cao ở bậc đại học và phổ

thông. Hoạt động giáo dục và đào tạo cần

chú ý cả hai mặt này (lý trí và xúc cảm),

thì mới tạo ra chất lượng nguồn nhân lực

thực sự trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên

kinh tế tri thức, kỷ nguyên sáng tạo.

Trong kỷ nguyên sáng tạo, không phải chỉ

có đơn thuần tri thức, mà còn cần phải có

cảm thức, mới mang lại các giá trị gia

tăng của sức lao động ở mỗi cá nhân – cơ

LÝ LUẬN DẠY VÀ HỌC12

sở để hình thành chất lượng cao của đội

ngũ nhân lực lao động trí tuệ và thể chất ở

môi trường giáo dục đặc thù.

Năng lực và năng lực nghề nghiệp đặc thù giáo viên thể dục trang 1

Trang 1

Năng lực và năng lực nghề nghiệp đặc thù giáo viên thể dục trang 2

Trang 2

Năng lực và năng lực nghề nghiệp đặc thù giáo viên thể dục trang 3

Trang 3

Năng lực và năng lực nghề nghiệp đặc thù giáo viên thể dục trang 4

Trang 4

Năng lực và năng lực nghề nghiệp đặc thù giáo viên thể dục trang 5

Trang 5

Năng lực và năng lực nghề nghiệp đặc thù giáo viên thể dục trang 6

Trang 6

Năng lực và năng lực nghề nghiệp đặc thù giáo viên thể dục trang 7

Trang 7

pdf 7 trang baonam 03/01/2022 8600
Bạn đang xem tài liệu "Năng lực và năng lực nghề nghiệp đặc thù giáo viên thể dục", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Năng lực và năng lực nghề nghiệp đặc thù giáo viên thể dục

Năng lực và năng lực nghề nghiệp đặc thù giáo viên thể dục
11 
NĂNG LỰC VÀ NĂNG LỰC NGHỀ NGHIỆP ĐẶC THÙ 
GIÁO VIÊN THỂ DỤC 
TS. Phùng Xuân Dũng 
Trường Đại học Sư phạm TDTT Hà Nội 
Tóm tắt: Bài viết này trình bày một số vấn đề về năng lực và năng lực nghề nghiệp đặc 
thù giáo viên Thể dục. Nội dung chính bao gồm các vấn đề về nâng cao chất lượng giáo 
dục toàn diện, và sự chuyển biến về chất lượng đào tạo nhân lực; năng lực và các cấu 
phần của năng lực nghề nghiệp đặc thù giáo viên Thể dục. 
Summary: This article outlines some of the issues about specific professional 
competencies to Physical Education teachers. The main contents include the issues of 
improving the quality of comprehensive education and the change in the quality of human 
resources training; competence and components of professional competence for Physical 
Education teachers. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo 
dục nói chung và đào tạo nhân lực nói 
riêng đã và đang là yêu cầu cấp bách. 
Nghị quyết Đại hội Đảng CSVN lần thứ 
XI (2011) đã chỉ rõ: “nâng cao chất lượng 
giáo dục toàn diện.năng lực sáng tạo, 
kỹ năng thực hành, tác phong công 
nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội”. Việc 
nghiên cứu năng lực nói chung và năng 
lực nghề nghiệp giáo viên môn Thể dục 
nói riêng, nhằm đổi mới căn bản và toàn 
diên trong công tác đào tạo, đáp ứng yêu 
cầu chương trình giáo dục phổ thông mới, 
đã và đang là vấn đề cấp bách hiện nay. 
1. Sự chuyển biến về chất lượng 
công tác đào tạo theo xu thế phát triển 
của xã hội 
Trong xã hội hiện đại-xã hội thông 
tin, tri thức với “Thế giới phẳng” theo 
quan điểu của Thomas L. Friedman có 
công thức sau: CQ + PQ > IQ, trong đó 
chỉ số hiếu học CQ (Curiosity quotient) 
cộng với chỉ số đam mê PQ (passion 
quotient), có giá trị quan trọng hơn chỉ số 
thông minh IQ (intelligent quotient). Khả 
năng thích ứng, phát triển, không chỉ dựa 
trên chỉ số IQ, mà quan trọng hơn là các 
chỉ số trí tuệ cảm xúc, cảm thức (EQ). 
Chính các yếu tố này tạo ra khả năng, 
năng lực sáng tạo đặc biệt của các cá 
nhân trong từng lĩnh vực nhất định và có 
vai trò quan trọng trong quá trình rèn 
luyện, phát triển và nâng cao các năng lực 
cá nhân, tạo ra chất lượng mới của sản 
phẩm đầu ra, đặc biệt là đội ngũ nhân lực 
có trình độ cao ở bậc đại học và phổ 
thông. Hoạt động giáo dục và đào tạo cần 
chú ý cả hai mặt này (lý trí và xúc cảm), 
thì mới tạo ra chất lượng nguồn nhân lực 
thực sự trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên 
kinh tế tri thức, kỷ nguyên sáng tạo. 
Trong kỷ nguyên sáng tạo, không phải chỉ 
có đơn thuần tri thức, mà còn cần phải có 
cảm thức, mới mang lại các giá trị gia 
tăng của sức lao động ở mỗi cá nhân – cơ 
LÝ LUẬN DẠY VÀ HỌC 
12 
sở để hình thành chất lượng cao của đội 
ngũ nhân lực lao động trí tuệ và thể chất ở 
môi trường giáo dục đặc thù. 
Nếu như trong xã hội truyền thống 
với nền văn minh nông nghiệp lạc hậu, 
sản xuất theo kinh nghiệm thì nhân tố thể 
lực, sức khỏe có vai trò quyết định trong 
chất lượng đội ngũ nhân lực lao động 
giản đơn, thì sang xã hội công nghiệp, xã 
hội thông tin cùng với thể lực là yếu tố trí 
lực, năng lực chuyên môn, nghề nghiệp 
có vị trí hàng đầu trong chất lượng nhân 
lực qua đào tạo. Kỹ năng mềm (tư duy, 
sáng tạo, giao tiếp, phán đoán, thích ứng, 
linh hoạt) trở thành những kỹ năng cốt lõi 
trong hệ thống năng lực nghề nghiệp đặc 
thù của giáo viên Thể dục. 
2. Khái niệm năng lực và các cấu 
phần của năng lực 
Có rất nhiều quan niệm, định nghĩa 
khái niệm về năng lực như: 
1/ Khả năng, điều kiện chủ quan hoặc 
tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt 
động nào đó. 
2/ Phẩm chất tâm lý và sinh lý, tạo 
cho con người khả năng hoàn thành một 
hoạt động nào đó với chất lượng cao 
(Hoàng Phê, Từ điển Tiếng Việt, NXB 
Đà nẵng, 2000 trang 660-661) 
Khả năng được hình thành và phát 
triển, cho phép con người đạt được thành 
công trong một hoạt động thể lực, trí lực 
hoặc nghề nghiệp. Năng lực được thể 
hiện vào khả năng thi hành một hoạt 
động, thực hiện một nhiệm vụ (Từ điển 
Giáo dục học, NXB Từ điển Bách khoa, 
2000). 
“Năng lực là đặc điểm của cá nhân, 
thể hiện mức độ thông thạo - tức là có 
thể thực hiện một cách thuần thục và 
chắc chắn - một hay một số dạng hoạt 
động nào đó. Năng lực gắn liền với 
những phẩm chất về trí nhớ, tính nhạy 
cảm, trí tuệ. Tính cách của cá nhân. (Từ 
điển Bách khoa Việt Nam, Tập III) 
“Năng lực là khả năng vận dụng 
những kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng, 
thái độ và hứng thú để hành động một 
cách phù hợp và có hiệu quả trong các 
tình huống phong phú của cuộc sống” 
(Québec - Ministere de l’Education, 2004). 
“Năng lực thể hiện như một hệ thống 
khả năng, sự thành thạo hoặc những kỹ 
năng thiết yếu, có thể giúp con người đủ 
điều kiện vươn tới một mục đích cụ thể“ 
(F.E Weinert, OECD, 2001). 
“Năng lực là tập hợp các hoạt động 
dựa trên sự huy động và sử dụng có hiệu 
quả kiến thức từ nhiều nguồn kiến thức, 
kỹ năng khác nhau để giải quyết vấn đề, 
hoặc có cánh ứng xử phù hợp với bối 
cảnh phức tạp của cuộc sống “Có thể 
nói, năng lực có thể được xem như là 
khả năng tiếp nhận và vận dụng tổng 
hợp, có hiệu quả mọi tiềm năng của con 
người (tri thức, kỹ năng, thái độ, thể lực, 
niềm tin..), để thực hiện có chất lượng 
công việc, hoặc xử lý với một tình 
huống,trạng thái nào đó trong cuộc sống 
và lao động nghề nghiệp. 
Có nhiều cách phân loại năng lực 
khác nhau, trong đó có các cách phân 
loại chủ yếu sau: 
13 
2.1. Năng lực chung (General 
Competency): Là những năng lực cơ 
bản, thiết yếu hoặc cốt lõi ... làm nền 
tảng cho mọi hoạt động của con người 
trong cuộc sống và lao động nghề nghiệp 
như năng lực nhận thức, năng lực trí tuệ, 
năng lực về ngôn ngữ và tính toán; năng 
lực giao tiếp, năng lực vận động..Các 
năng lực này được hình thành và phát 
triển, dựa trên bản năng di truyền của 
con người, quá trình giáo dục và trải 
nghiệm trong cuộc sống. 
2.2. Năng lực chuyên biệt (đặc 
thù): Là những năng lực riêng được hình 
thành và phát triển trên cơ sở các năng 
lực chung, theo định hướng chuyên sâu, 
riêng biệt trong các loại hình hoạt động, 
công việc hoặc tình huống, môi trường 
đặc thù. Ví dụ, như năng lực nhận dạng 
nhanh được hình thành trên cơ sở các 
năng lực về thị giác, phán đoán, so 
sánh và các phẩm chất, năng khiếu 
chuyên biệt về TDTT, hội họa... 
Năng lực cũng có thể được phân loại 
thành các năng lực thành phần, như năng 
lực xã hội, năng lực cá nhân, năng lực về 
phương pháp và năng lực nghề nghiệp, 
hoặc trong quá trình lao động nghề 
nghiệp có thể phân ra các loại năng lực 
về ý tưởng - thiết kế, thi công - vận 
hành; giám sát và đánh giá.. 
Năng lực được hình thành và phát 
triển trên cơ sở tổ hợp các kiến thức, kỹ 
năng và thái độ. Glenn M., Mary Jo 
Blahna (2005), cho rằng bối cảnh thời đại 
mới, xu thế phát triển giáo dục và cuộc 
cách mạng KH - CN đã tác động và làm 
biến đổi nhanh chóng, sâu sắc đến tất cả 
các lĩnh vực của xã hội, trong đó có giáo 
dục và việc làm. Sự biến đổi đó được thể 
hiện trước hết ở quan niệm mới về hình 
mẫu nhân cách người lao động trong xã 
hội công nghiệp văn minh hiện đại. Mô 
hình nhân cách của người lao động được 
xây dựng dựa trên năng lực (Human 
Resources Competency), bao gồm 03 
thành tố cấu trúc cơ bản: Kiến thức 
(Knowledge), Kỹ năng (Skills) và Thái độ 
(Traits). 
Kiến thức (Knowledge): có kiến 
thức nền tảng cơ bản để học tập và tiếp 
thu công nghệ, kiến thức chuyên môn 
nghề nghiệp ở mức độ tinh thông, làm 
việc có kế hoạch, am hiểu pháp luật, tiếp 
thu nhanh, kiến thức xã hội 
Kỹ năng (Skills): kỹ năng cơ bản: 
đọc, viết, tính toán, nói, nghe; kỹ năng 
nghề nghiệp: thực hiện thành thạo công 
việc, có khả năng xử lý các tình huống 
trong hoạt động nghề nghiệp, có năng 
lực thích ứng với sự thay đổi theo yêu 
cầu sản xuất/dịch vụ; có kỹ năng quản lý 
thời gian, về hiệu quả của nhóm; kỹ năng 
phát triển: xác định mục tiêu, kỹ năng 
hoạch định sự nghiệp, tự hoàn thiện và 
phát triển bản thân 
Phẩm chất/Thái độ (Traits): có sức 
khỏe tốt, có tác phong công nghiệp (khẩn 
trương, đúng giờ giấc..), có ý thức kỷ 
luật lao động cao, có niềm say mê nghề 
nghiệp, tự tin, dũng cảm, tính liêm chính 
và trung thực, chịu trách nhiệm cá nhân, 
tôn trọng các ý kiến của người khác, có 
14 
tinh thần yêu nước, yêu dân tộc, sống có 
trách nhiệm với cộng đồng và xã hội 
3. Các cấp độ về nhận thức và kỹ 
năng, thái độ 
B. S. Bloom (1948) đã đề xuất một 
hệ thống phân loại các mục tiêu của quá 
trình giáo dục như sau: 
- Lĩnh vực nhận thức: thể hiện ở khả 
năng suy nghĩ, lập luận. Nó bao gồm 
việc thu thập các sự kiện, giải thích, lập 
luận theo kiểu diễn dịch, quy nạp và sự 
đánh giá có phê phán. 
- Lĩnh vực tâm vận động: liên quan 
đến những kỹ năng, đòi hỏi sự khéo léo 
về chân tay, sự phối hợp các cơ bắp từ 
đơn giản đến phức tạp. 
- Lĩnh vực cảm xúc: liên quan đến 
những đáp ứng về mặt thái độ, tình cảm, 
bao hàm cả những mối quan hệ như yêu 
ghét, thái độ nhiệt tình thờ ơ, cũng như 
sự cam kết với một nguyên tắc và sự tiếp 
thu các lý tưởng, các giá trị... Các lĩnh 
vực nêu trên không hoàn toàn tách biệt, 
hoặc loại trừ lẫn nhau. Phần lớn việc 
phát triển tâm lý và quá trình nhận thức, 
quá trình học tập đều bao hàm cả 3 lĩnh 
vực nói trên. trong đó lĩnh vực nhận thức 
được chia thành các mức độ hành vi từ 
đơn giản nhất đến phức tạp nhất với các 
mức cơ bản sau: Nhớ - Hiểu - Áp dụng - 
Phân tích - Tổng hợp - Đánh giá. 
Ngoài cách phân loại của B. Loom 
được áp dụng khá phổ biến trong thực 
tiễn thiết kế chương trình và giảng dạy 
còn có một số tác giả khác như: Phân 
loại mục tiêu giảng dạy của Miller, 
Williams và Haladya (1978) có các bậc 
nhận thức sau: 
1. Nói lại hoặc làm lại 
2. Tổng kết hoặc tóm tắt 
3. Làm rõ ý hoặc minh hoạ 
4. Dự đoán 
5. Đánh giá 
6. Áp dụng 
Hoặc theo phân cấp phát triển trí tuệ 
và đạo đức của T. Dary Erwin bao gồm 
các mức nhận thức và thái độ sau: 
1. Nhận thức cặp đôi: Tốt/xấu, 
Đúng/sai. 
2. Quan hệ tương hỗ: Nhân - quả; tác 
động, chi phối... 
3. Nhận thức bền vững: Chắc chắn, 
rõ ràng, có hệ thống, có khả nằng phán 
xét, lựa chọn... 
4. Thấu cảm: Tin tưởng, làm chủ tri 
thức; thấu cảm, chia sẻ.. 
Các cách phân loại trên có thể được 
vận dụng trong xác định hệ mục tiêu và 
lựa chọn, tổ chức hệ thống tri thức để 
xây dựng nội dung, chương trình đào 
tạo, thiết kế bài giảng cụ thể theo 
phương thức tín chỉ với các môn học, mô 
đun đào tạo, bảo đảm tính liên thông cả 
về mục tiêu và hệ thống tri thức, kỹ năng 
ở các bậc trình độ đào tạo khác nhau. 
Trong những năm gần đây, đã có 
nhiều tác giả nghiên cứu và phát triển 
các thang bậc nhận thức trên cơ sở phân 
mức của B.S.Loom như Kratwohl và 
Anderson (2001) đã đưa ra 6 mức, từ 
nhớ - hiểu, vận dụng đến phân tích, đánh 
giá và sáng tạo. Dave (1975), đã đưa ra 
các mức độ hình thành tâm vận động 
15 
(Psycho-Motor) và phát triển kỹ năng 
(skill) từ bắt chước, phỏng các động tác 
cơ bản, bước đầu đến thực hiện các thao 
tác theo chuẩn mực, thực hiện chuẩn xác 
đến thành thục và biến hoá, tự động hoá 
(kỹ xảo) v.v. 
Tác giả G.Rex Meyer trong cuốn 
“Các modun từ thiết kế đến thi công” 
(Modules from design to 
implementation), đã phân mục đích học 
tập và phân chia thành 3 lĩnh vực: Lĩnh 
vực nhận thức (mục tiêu liên quan đến tri 
thức), lĩnh vực thái độ (mục tiêu liên 
quan đến sở thích, thái độ và giá trị) và 
lĩnh vực tâm vận (mục tiêu liên quan đến 
kỹ năng thực hành). 
Mục tiêu liên quan đến kỹ năng thực 
hành, được tác giả đề cập đến 5 mức độ 
của lĩnh vực tâm lý, từ 1 đơn giản nhất 
cho đến 5 phức tạp nhất: 
1. Sự bắt chước: Sao chép một hành 
động đã được quan sát, song thường 
thiếu sự phối hợp thần kinh. 
2. Sự thao tác: Sự sao chép một hành 
động được quan sát thường sau khi ra lệnh, 
thể hiện một số sự phối hợp thần kinh. 
3. Sự chính xác hóa: Thực hiện bằng 
hành động cơ bắp với độ chính xác cao. 
4. Sự phối hợp: Thực hiện toàn diện 
với hành động cơ bắp có liên quan và phối 
hợp đến hàng loạt các hành động khác. 
5. Sự tự nhiên hóa: Sự thường xuyên 
của các hành động cơ bắp, làm cho 
chúng trở nên tự phát, tự nhiên và (cuối 
cùng) là sự phản hồi có ý thức. 
* Lĩnh vực nhận thức tác giả chia 
ra 8 mức độ, từ 1 đơn giản nhất, đến 8 
phức tạp nhất (biết, hiểu, ứng dụng, phân 
tích, tổng hợp, đánh giá, chuyển giao, 
sáng tạo); tuy nhiên, những nghiên cứu 
gần đây đã đưa ra 8 cấp độ: 
1. Biết: Ghi nhớ các sự kiện, thuật 
ngữ, nguyên lý dưới hình thức mà sinh 
viên đã được học. 
2. Hiểu: Hiểu các tư liệu đã được 
học, người học phải có khả năng diễn 
giải, mô tả tóm tắt thông tin thu thập được. 
3. Ứng dụng: Ứng dụng được các 
thông tin, kiến thức vào tình huống khác 
với tình huống đã học. 
4. Phân tích: Biết tách từ tổng thể 
thành bộ phận và biết rõ sự liên hệ giữa 
các thành phần đó với nhau cùng với cấu 
trúc của chúng. 
5. Tổng hợp: Biết kết hợp các bộ 
phận thành một tổng thể mới từ tổng thể 
ban đầu. 
6. Đánh giá: Biết so sánh, phê phán, 
chọn lọc, quyết định và đánh giá trên cơ 
sở tiêu chí xác định. 
7. Chuyển giao: Có khả năng diễn 
giải, thuyết phục và truyền thụ các kiến 
thức đã tiếp thu được cho đối tượng 
khác. 
8. Sáng tạo: Sáng tạo ra những giá trị 
mới, trên cơ sở các kiến thức đã tiếp thu 
được. 
* Năng lực tư duy: Năng lực tư duy 
có thể chia thành 4 cấp độ khác nhau: 
- Tư duy cụ thể: Chỉ có thể suy luận 
trên cở sở những thông tin cụ thể này 
đến thông tin cụ thể khác. 
16 
- Tư duy logic: Suy luận theo một 
chuỗi các tuần tự, có khoa học, phê 
phán, nhận xét. 
- Tư duy hệ thống: Suy luận, tiếp cận 
một cách hệ thống các thông tin hoặc các 
vấn đề, nhờ đó có cách nhìn bao quát hơn. 
- Tư duy trừu tượng: Suy luận các vấn 
đề một cách sáng tạo và ngoài các khuôn 
khổ định sẵn. 
* Về phẩm chất nhân văn: Có 3 cấp 
độ như sau: 
- Khả năng hợp tác 
- Khả năng thuyết phục 
- Khả năng quản lý 
Theo Daniel Goleman (1955), cần 
quan tâm đến trí tuệ cảm xúc (emotional 
intelligence) với 7 thành tố: giận, buồn, 
sợ, yêu thương, chán ghét, thích thú, ngạc 
nhiên và xấu hổ. 
Các mức độ nhận thức trên vừa là các 
chuẩn mực để xác định mục tiêu dạy học 
vừa là cơ sở để xây dựng các công cụ 
đánh giá học tập có hiệu quả. Qua việc 
xác định được kết quả học tập mọi cấp độ 
nói trên, để đưa ra một nhận định chính 
xác về năng lực của người được đánh giá 
về một lĩnh vực chuyên môn nào đó. Các 
mức tử phân tích trở lên, thường được đòi 
hỏi ở trình độ đào tạo cao (tư duy bậc cao). 
Về lĩnh vực hành vi, thái độ hình 
thành một nhân cách trong quá trình giáo 
dục cũng được đánh giá thông qua các 
hoạt động của người học ở trường, lớp 
cũng như trong các buổi tập luyện, cuộc 
thi đấu thể thao. Việc xác định mục tiêu, 
tự chọn nội dung và mức độ đánh giá 
cũng có thể phân loại theo các mức độ về 
nhân cách, thái độ. 
4. Năng lực nghề nghiệp đặc thù 
giáo viên thể dục 
Năng lực nghề nghiệp rất phong phú 
và đa dạng với nhiều loại hình lao động 
và cấp trình độ chuyên môn khác nhau. 
Tuy nhiên, có thể định hình hệ thống 
năng lực theo các năng lực chung và các 
năng lực chuyên biệt hoặc theo hệ thống 
các năng lực cốt lõi. 
Theo quan điểm đào tạo, đặc biệt là 
đào tạo nghề nghiệp ở trình độ cao 
đẳng/đại học hướng tới đáp ứng nhu cầu 
xã hội, việc định hướng đào tạo hình 
thành các năng lực then chốt có ý nghĩa 
quan trọng. Các nhà chuyên môn về đào 
tạo chuyên ngành GDTC đã đưa ra các 
tiêu chuẩn và tiêu chí về năng lực nghề 
nghiệp đặc thù, ngoài những năng lực mà 
người giáo viên phải có thì đối với giáo 
viên Thể dục phải có các năng lực sau: 
1. Tiêu chuẩn: Kiến thức chuyên môn 
+ Tiêu chí: Năng lực phát triển thể 
chất và kỹ năng vận động: Trong đó 
được thể hiện qua năng lực phát triển thể 
chất cho học sinh cũng như nắm và thực 
hiện được các nội dung cơ bản trong 
chương trình GDTC của cấp đang đảm 
nhiệm (thông qua 6 yếu tố cơ bản sau) 
1. Có kiến thức về lý luận GDTC. 
2. Có năng lực thực hành TDTT. 
3. Có kiến thức và năng lực thực hành 
phòng tránh chấn thương, bệnh lý trong 
hoạt động, học tập TDTT. 
4. Có kiến thức về dinh dưỡng trong 
tập luyện TDTT. 
17 
5. Có thể lực và thể hình 
6. Có kiến thức về đặc điểm hình thái 
học, tâm - sinh lý học của học sinh trong 
hoạt động TDTT. 
2. Tiêu chuẩn: Nghiệp vụ sư phạm 
+ Tiêu chí: Năng lực tổ chức điều 
hành các hoạt dộng TDTT (thông qua 5 
yếu tố cơ bản sau) 
- Có năng lực xây dựng kế hoạch hoạt 
động ngoại khóa, CLB, đội tuyển và phát 
triển chương trình môn Thể dục. 
- Có năng lực tổ chức điều hành giờ 
học Thể dục. 
- Có năng lực tổ chức hoạt động TDTT. 
- Có năng lực xây dựng môi trường, 
phong trào TDTT. 
- Có năng lực kiểm tra, đánh giá kết 
quả học tập môn Thể dục của học sinh. 
KẾT LUẬN 
Nghiên cứu năng lực và năng lực 
nghề nghiệp đặc thù giáo viên môn Thể 
dục là một vấn đề mới và là đòi hỏi khách 
quan, cấp bách trong quá trình đổi mới, 
nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. 
Do còn có nhiều góc nhìn và quan niệm 
khác nhau về năng lực và năng lực nghề 
nghiệp đặc thù giáo viên môn Thể dục, 
nên cần có những nghiên cứu sâu sắc và 
toàn diện về vấn đề trên để ứng dụng 
phù hợp với các yêu cầu phát triển các 
mô hình đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng 
nói chung và đáp ứng yêu cầu đổi mới 
của chương trình phổ thông tổng thể 
hiện nay. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. ĐCSVN. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội 2011 
2. Trần Khánh Đức. Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế kỷ XXI. Nhà xuất 
bản giáo dục Việt Nam. Hà Nội 2010 
3. Rudolf Tippelt, Comptency based Training. Ludwig Maximilian University, Antonio 
Amorós M.A., International Cooperation Office (BIZ), 2003 
4. Edward. F. Crawley. Cải cách và xây dựng chương trình đào tạo kỹ thuật theo cách tiếp cận 
CIDO. NXB ĐHQG TP HCM 2010 (Hồ Tấn Nhựt và Đoàn thị Minh Trinh dịch) 
5. Thomans L Friedman. Thế giới phẳng. Nhà xuất bản trẻ 2005 
6. Glenn M., Mary Jo Blahna (2005), A competency-based model for developing human 
reource professionals 
7. Viện ngôn ngữ học(1998), Từ điển Tiếng Việt, Trung tâm từ điển học, NXB Đà Nẵng 
8. Lê Văn Hồng (1972),“Một số vấn đề về năng lực sư phạm của người giáo viên 
XHCN“, Hội đồng tâm lý giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. 
9. Nôvicôp, Matvêep (1980), Lý luận và phương pháp giáo dục thể chất, Nxb TDTT, Hà Nội. 
10. Phạm Xuân Hậu (2009), Xây dựng chuẩn kiến thức và kỹ năng nghiệp vụ sư phạm tại 
trường Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Đề tài khoa học và công nghệ trọng 
điểm cấp bộ, mã số B: 2007.19.35.TĐ, Trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh. 

File đính kèm:

  • pdfnang_luc_va_nang_luc_nghe_nghiep_dac_thu_giao_vien_the_duc.pdf