Một số vấn đề về thành phố thông minh và vận dụng vào trường hợp thành phố Hồ Chí Minh

Hiện nay, 55% dân số thế giới đang sinh sống tại các khu vực đô thị. Đứng trước những áp lực về

bùng nổ dân số và biến đổi khí hậu toàn cầu, việc ứng dụng khoa học công nghệ vào giải quyết

các vấn đề của các thành phố hiện đại để có thể phát triển bền vững và thịnh vượng là một xu

thế tất yếu. Nhiều mô hình phát triển như thành phố xanh, thành phố toàn cầu, thành phố sống

tốt, thành phố sáng tạo, thành phố sản xuất đã được ứng dụng. Ra đời từ những thập niên 90

của thế kỷ XX và ngày càng trở nên phổ biến từ sau năm 2010, thành phố thông minh (smart city)

đang trở thành mô hình phát triển được các thành phố trên thế giới lựa chọn. Nhiều thành phố đã

chuyển đổi thành công sang mô hình này như Barcelona, Seoul, Singapore, Amsterdam Không

nằm ngoài xu thế đó, Thành phố Hồ Chí Minh là đầu tàu kinh tế, trung tâm văn hóa, xã hội của Việt

Nam đang đối diện với nhiều thách thức về kinh tế, xã hội và tác động biến đổi khí hậu, đang cần

một mô hình mới để phát triển. Từ tháng 11/2017, Thành phố Hồ Chí Minh đã công bố đề án xây

dựng thành phố thông minh giai đoạn 2017-2020 và tầm nhìn đến 2025. Bài viết này nhằm phân

tích các vấn đề về thành phố thông minh, các mô hình thành công trên thế giới và các vấn đề cần

quan tâm khi vận dụng vào trường hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

Một số vấn đề về thành phố thông minh và vận dụng vào trường hợp thành phố Hồ Chí Minh trang 1

Trang 1

Một số vấn đề về thành phố thông minh và vận dụng vào trường hợp thành phố Hồ Chí Minh trang 2

Trang 2

Một số vấn đề về thành phố thông minh và vận dụng vào trường hợp thành phố Hồ Chí Minh trang 3

Trang 3

Một số vấn đề về thành phố thông minh và vận dụng vào trường hợp thành phố Hồ Chí Minh trang 4

Trang 4

Một số vấn đề về thành phố thông minh và vận dụng vào trường hợp thành phố Hồ Chí Minh trang 5

Trang 5

Một số vấn đề về thành phố thông minh và vận dụng vào trường hợp thành phố Hồ Chí Minh trang 6

Trang 6

Một số vấn đề về thành phố thông minh và vận dụng vào trường hợp thành phố Hồ Chí Minh trang 7

Trang 7

Một số vấn đề về thành phố thông minh và vận dụng vào trường hợp thành phố Hồ Chí Minh trang 8

Trang 8

Một số vấn đề về thành phố thông minh và vận dụng vào trường hợp thành phố Hồ Chí Minh trang 9

Trang 9

Một số vấn đề về thành phố thông minh và vận dụng vào trường hợp thành phố Hồ Chí Minh trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 13 trang baonam 11200
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Một số vấn đề về thành phố thông minh và vận dụng vào trường hợp thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số vấn đề về thành phố thông minh và vận dụng vào trường hợp thành phố Hồ Chí Minh

Một số vấn đề về thành phố thông minh và vận dụng vào trường hợp thành phố Hồ Chí Minh
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 3(3):120-132
Open Access Full Text Article Bài Nghiên cứu
Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, ĐHQG-HCM
Liên hệ
Võ Phúc Toàn, Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM
Email: vophuctoan@hcmussh.edu.vn
Lịch sử
 Ngày nhận: 19-12-2018
 Ngày chấp nhận: 12-11-2019
 Ngày đăng: 30-12-2019
DOI : 10.32508/stdjssh.v3i3.519
Bản quyền
© ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố
mở được phát hành theo các điều khoản của
the Creative Commons Attribution 4.0
International license.
Một số vấn đề về thành phố thôngminh và vận dụng vào trường
hợp thành phố Hồ Chí Minh
Võ Văn Sen, Võ Phúc Toàn*
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
TÓM TẮT
Hiện nay, 55% dân số thế giới đang sinh sống tại các khu vực đô thị. Đứng trước những áp lực về
bùng nổ dân số và biến đổi khí hậu toàn cầu, việc ứng dụng khoa học công nghệ vào giải quyết
các vấn đề của các thành phố hiện đại để có thể phát triển bền vững và thịnh vượng là một xu
thế tất yếu. Nhiều mô hình phát triển như thành phố xanh, thành phố toàn cầu, thành phố sống
tốt, thành phố sáng tạo, thành phố sản xuất đã được ứng dụng. Ra đời từ những thập niên 90
của thế kỷ XX và ngày càng trở nên phổ biến từ sau năm 2010, thành phố thông minh (smart city)
đang trở thànhmô hình phát triển được các thành phố trên thế giới lựa chọn. Nhiều thành phố đã
chuyển đổi thành công sang mô hình này như Barcelona, Seoul, Singapore, Amsterdam Không
nằm ngoài xu thế đó, Thành phố Hồ Chí Minh là đầu tàu kinh tế, trung tâm văn hóa, xã hội của Việt
Nam đang đối diện với nhiều thách thức về kinh tế, xã hội và tác động biến đổi khí hậu, đang cần
một mô hình mới để phát triển. Từ tháng 11/2017, Thành phố Hồ Chí Minh đã công bố đề án xây
dựng thành phố thông minh giai đoạn 2017-2020 và tầm nhìn đến 2025. Bài viết này nhằm phân
tích các vấn đề về thành phố thông minh, các mô hình thành công trên thế giới và các vấn đề cần
quan tâm khi vận dụng vào trường hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
Từ khoá: Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố thông minh, Barcelona, Seoul, Singapore
ĐẶT VẤNĐỀ
Hiện nay, thế giới đang đối mặt với quá trình đô thị
hóa diễn ra hết sức nhanh chóng. Dân số thế giới
đang sinh sống tại khu vực đô thị năm 2017 là 4,108 tỷ
người (54,55% dân số thế giới) 1. Dân cư sinh sống tại
các đô thị không ngừng tăng lên gây áp lực rất lớn đối
với hệ thống cơ sở hạ tầng đô thị và chất lượng cuộc
sống (Hình 1).
Qua số liệu của World Bank, dù tốc độ tăng dân cư ở
khu vực đô thị có xu hướng giảmnhưng áp lực của gia
tăng dân số đối với đời sống đô thị vẫn không ngừng
gia tăng, đòi hỏi các đô thị phải nâng cao chất lượng
cuộc sống, giảm áp lực áp dân số lên hệ thống cơ sở hạ
tầng. Đồng thời, kể từ cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ 3 những năm 60-70 của thế kỷ XX diễn ra,
khoa học công nghệ ngày càng phát triển, thâm nhập
sâu vào quá trình sản xuất và cuộc sống của conngười.
Việc áp dụng các tiến bộ của khoa học kỹ thuật vào
giải quyết những nhu cầu cấp thiết của cuộc sống là
một yêu cầu mang tính tất yếu. Xuất phát từ những
thực tế này, ngay từ thập niên 90 của thế kỷ XX đã
xuất hiện những khuynh hướng phát triển đô thị có
sự vận dụng của khoa học kỹ thuật. Từ đó, những
thuật ngữ về phát triển đô thị gắn liền với tiến bộ khoa
học kỹ thuật đã ra đời. Những năm gần đây, thuật ngữ
smart city ngày càng phổ biến và đang làmục tiêu phát
triển của nhiều thành phố trên thế giới trong đó có các
thành phố của Việt Nam. Nhưng trước khi thuật ngữ
thành phố thông minh ra đời, đã xuất hiện các thuật
ngữ khác nhau. Những thuật ngữ này không chỉ là sự
thay đổi về mặt tên gọi mà còn liên quan đến triết lý
phát triển của đô thị hiện đại (Bảng 1).
Một kết quả nghiên cứu gần đây của R.P. Dameri và
A. Cochhia của Đại học Genova, Italia cho thấy khái
niệm digital city (1993) đã ra đời trước khái niệm
smart city (1994). Cả hai đã cùng song song tồn tại
từ năm 1994 với ưu thế thuộc về digital city cho tới
năm 2010 [4, p.4]. Digital city là thuật ngữ để chỉ
một nơi mà con người có thể tương tác và chia sẻ kiến
thức, thông tin dựa trên nền tảng công nghệ hoặc đó
là một nền tảng kỹ thuật số mà ở đó hình thành một
hệ sinh thái đa tác tử (ecosystem of multiple agents)
bao gồm chính quyền, doanh nghiệp và cộng đồng,
được phát triển mạnh, được trang bị nhiều cảm biến
và có khả năng cung cấp, xử lý thông tin xuyên suốt
nhờ mạng lưới cảm biến ở bất kì thời điểm nào [ 5,
p.37;6, p.561]. Từ những khái niệm này, chúng ta
có thể hình dung thuật ngữ digital city để chỉ sự ứng
dụng công nghệ kỹ thuật số vào trong thực tế để nâng
cao chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên, các vấn đề của
đời sống đô thị hiện đại không chỉ có các tiện ích do
khoa học công nghệ mang lại mà còn có các vấn đề về
Trích dẫn bài báo này: Văn Sen V, Phúc Toàn V.Một số vấn đề về thành phố thôngminh và vận dụng
vào trường hợp thành phố Hồ Chí Minh. Sci. Tech. Dev. J. - Soc. Sci. Hum.; 3(3):120-132 ... người sử dụng điện thoại thông thường ở các thành
phố lớn của Việt Nam như Thành phố Hồ Chí Minh
chiếm 84% vào năm 2017 38. Đây là một điều thuận
128
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 3(3):120-132
lợi choThành phố trong việc triển khai chương trình
kết nối cư dân của mình với hệ thống dịch vụ công.
Ba là cần thiết xây dựng một ứng dụng cung cấp các
dịch vụ công cho người dân.Những nămgần đây, chính
quyềnThành phố đã có những chuyển động cho việc
xây dựng chính quyền điện tử, triển khai các ứng dụng
dịch vụ trực tuyến. Tuy nhiên, yêu cầu của smart city
không chỉ dừng lại ở việc phục vụ các giao dịch hành
chính công trực tuyếnmà còn đòi hỏimột hệ thống cơ
sở dữ liệu công mở, sẵn sàng phục vụ cho các yêu cầu
truy cập và sử dụng củamọi bộ phận cư dân của thành
phố, từ các cư dân bình thường đến các tổ chức công
– tư, các nhà nghiên cứu. Các ứng dụng như m.Seoul
của Seoul hay cổng thông tin data.goverment.sg của
Singapore là những mô hình thành công trong việc
xây dựng hệ thống dữ liệu mở phục vụ đời sống của
người dân. Việc xây dựng các cổng thông tin chính
phủ mở không chỉ phục vụ cho các giao dịch thường
ngày còn thể hiện tinh thần củamột smart city hướng
đến cộng đồng, tạo tạo điều kiện cho cộng đồng tham
gia vào việc phát triển thành phố từ việc nghiên cứu
hệ thống dữ liệu công của chính quyền. Với sự phổ
biến của các thiết bị thông minh trong đời sống xã
hội hiện nay, việc hình thành một ứng dụng chứa tất
cả thông tin dữ liệu của một thành phố có thể gói gọn
trong một thiết bị thông minh cầm tay sẽ dễ dàng xóa
đi mọi khoảng cách về ngôn ngữ, văn hóa, khiến cho
các công dân toàn cầu có đến thành phốHồChíMinh
mà không cần lo lắng thiếu thông tin. Do đó, sự ra đời
của ứng dụng này rất thiết thực cho sự phát triển của
Thành phố.
Bốn là Thành phố có thể xây dựng thành phố thông
minh từ mô hình thành phố startup.Trên thế giới, có
nhiềumô hình chuyển đổi thành công sang smart city
từ việc triển khai các dự án startup. Ngoài Singa-
pore, thành phố Amsterdam của Hà Lan cũng là một
trường hợp điển hình cho việc phát triển các dự án
startup để giải quyết các vấn đề của thành phố, góp
phần chuyển đổi sang mô hình smart city. Năm 2015,
một phái đoàn của thành phố Amsterdam đến San
Francisco trao đổi kinh nghiệm. Phái đoàn này cảm
thấy rất hứng thú với chương trình “ Enterpreneur-
ship in Residence ” và áp dụng ngay cho Amsterdam
sau khi về nước. Một tổ chức thúc đẩy đổi mới sáng
tạo được thành lập là The Chief technology Office (
CTO ) để thúc đẩy tinh thần kinh doanh và sự bùng
nổ của tư duy startup trong cộng đồng [ 39, p.6]. Trong
3 năm triển khai chương trình SiR (Startup in resi-
dence), chính quyền Amsterdam đã thu được một vài
kết quả triển vọng như Bảng 2.
Từ sự thành công của Singapore và Amsterdam trong
việc phát triển các dự án starup giải quyết các vấn
đề của thành phố để nhanh chóng chuyển đổi sang
mô hình smart city, thành phố Hồ Chí Minh có thể
vận dụng rất tốt cách thức này. Hiện nay, Thành phố
Hồ Chí Minh quy tụ các trung tâm đào tạo, nghiên
cứu, ứng dụng khoa học công nghệ hàng đầu cả nước.
Theo số liệu của Sở Khoa học và Công nghệ Thành
phố ch biết, ngoài chuỗi Công viên phầnmềmQuang
Trung,Thànhphố còn có 45 trường đại học, 30 trường
cao đẳng, 125 phòng thí nghiệm, 270 tổ chức khoa học
và công nghệ [ 27, tr.156]. Một đội ngũ nhân lực chất
lượng cũng đang làm việc và sinh sống tạiThành phố:
nguồn nhân lực khoa học công nghệ chiếm 25%; số
doanh nghiệp đang hoạt động chiếm 50%; số lượng
doanh nghiệp đổi mới sáng tạo chiếm 42%; doanh
nghiệp khoa học – công nghệ chiếm 15% [ 27, tr.156].
Thành phố Hồ Chí Minh có rất nhiều tiềm năng để
hình thành nên hệ sinh thái startup để giải quyết
những vấn đề cấp thiết của đời sống thành phố.
Năm là trong quá trình chuyển đổi sang smart city,
Thành phố cần chú ý đến yếu tố hài hòa về mặt xã hội.
Trong sự phát triển hết sức nhanh chóng của đời sống
kinh tế, nhất là những biến đổi của khoa học công
nghệ, bất cứmột sự chuyển đổi nào cũng có những tác
động nhất định đối với người dân nhất là những tầng
lớp yếu thế, có thu nhập thấp trong xã hội. Đối với
mô hình smart city của châu Âu, yếu tố hòa nhập xã
hội (Integrate) rất được chú trọng. Khôngmột cư dân
nào bị bỏ lại đằng sau trong quá trình chuyển đổi sang
smart city. Và yếu tố này cũng có một trong những
tiêu chí để định hình mô hình smart city thế hệ 3.0
hướng đến cộng đồng cư dân, coi cộng đồng cư dân
là trung tâm vận động của công nghệ smart. Thành
phốHồ ChíMinh cómột đặc điểm quan trọng vềmặt
dân cư đó chính là quy tụ nhiều cộng đồng cư dân
trong cả nước đến lập nghiệp. Sự phức tạp về dân cư
khó tạo nênmộtmặt bằng dân trí, dân sinh đồng nhất
trong quá trình chuyển đổi sang mô hình smart city.
Vìmột điều tất yếu làmuốn có thành phố thôngminh
(smart city) phải có cộng đồng thôngminh (smart cit-
izen) (Barlow, 2017). Năm 2015, dân số theo thống kê
chính thức củaThành phố 8.441.902 người [40, tr.29]
nhưng số dân sinh sống và làm việc tại Thành phố đã
là 13 triệu người. Đây sẽ là một thách thức rất lớn về
mặt xã hội củaThành phố trong quá trình chuyển đổi
sang smart city. Nhưng giải quyết được vấn đề này
sẽ thể hiện đúng với phương châm “nghĩa tình” mà
Thành phố đã đề ra trong định hướng phát triển của
mình.
KẾT LUẬN
Nhìn chung, trong xu thế phát triển hiện nay của các
thành phố hiện đại, smart city đã được chấp nhận như
một xu thế phát triển tất yếu trong thế kỷ 21 này. Sự
phát triển như vũ bão và không ngừng thâm nhập của
129
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 3(3):120-132
Bảng 2: Kết quả chương trình SiR của Amsterdam từ 2015-2017 [ 39 p.6].
Số vấn đề được đặt ra Số startup đăng kí chương trình
SiR
Số startup được quyết định
thầu
2015 7 85 7
2016 10 90 7
2017 13 85 13
khoa học công nghệ vào đời sống sẽ giải quyết được
những thách thức cho sự phát triển của các thành phố
trong thời kì bùng nổ dân số đô thị và biến đổi khí hậu
như hiện nay. Thành phố Hồ Chí Minh cũng không
thể nằm ngoài xu thế vận động mang tính tất yếu đó.
Với những tiềm năng và nguồn lực vốn có,Thành phố
Hồ Chí Minh có đủ khả năng để chuyển đổi thành
một smart city, bắt kịp sự chuyển dịch của các thành
phố hiện đại trên thế giới.
DANHMỤC TỪ VIẾT TẮT
API: Application Programming Interface.
CoE: Centre of Excellence.
CTO:The Chief technology Office.
ICTs: Information and Communications Technology.
IoT: Internet of Things.
KM: knowledge management.
NII: The National Information Infrastructure.
NRF: National Research Foundation.
ONE: one network for everyone.
SiR: Startup in residence.
u-City: Ubiquitous Cities.
XUNGĐỘT LỢI ÍCH
Tập thể tác giả cam kết không có xung động lợi ích
liên quan đến nghiên cứu này.
ĐÓNGGÓP CỦA TÁC GIẢ
Hệ thống hóa các quan điểm, lý thuyết về thành phố
thông minh cũng như bài học kinh nghiệm về xây
dựng thành phố thông minh trên thế giới. Từ đó, dựa
trên điều kiện thực tiễn củaThành phốHồ ChíMinh,
tập thể tác giả đã đưa ra các kiến nghị cần thiết cho
quá trình xây dựng thành phố thông minh ở thành
phố Hồ Chí Minh.
TÀI LIỆU THAMKHẢO
1. Nielsen. [Online]. Available from: 
/vi/insights/2017/nielsen-smartphone-insights-2017.html .
2. Cục Thống kê TP.HCM. Niên giám thống kê TP.HCMnăm 2016.
Nxb. Thanh niên; 2017. .
3. Data World Bank. [Online], Available from: 
orldbank.org/data/databases.
4. Damri RP, Cocchia A. Smart city and Digital City: twenty years
of terminology evolution. in ItAIS2013, X. In: Conference of
the Italian Chapter of AIS, 14 December 2013, Milano, Italy;
2013.
5. Hajduk S. The concept of a smart city in urban management.
Business, management and education. 2016. 2016;14(1).
6. Đài Tiếng nói Nhân dân TP.HCM. Thành phố Hồ Chí Minh:
Thành quả và thách thức trên đường phát triển. [Online].
[26/8/2018]. Available from: 
h-pho-ho-chi-minh-thanh-qua-va-thach-thuc-tren-duong-p
hat-trien-254567.html.
7. Lindfield, Michael and Florian Steinberg. Green cities. Philip-
pines: Asian Development Bank.
8. Trung Hiếu – Chí Nhân. TP.HCM xây đê như Hà Lan? Avail-
able from: https://thanhnien.vn/thoi-su/tphcm-xay-de-nhu-
ha-lan-867762.html.
9. Ergazakis K, Metaxiotis K, Psarras J. Knowledge cities: the an-
swer to the needs of knowledge-based development. VINE:
The journal of information and knowledge management sys-
tems;36(1).
10. Melbourne City. A knowledge city strategy: strengthening
Melbourne’s knowledge sector through collaboration 2014-
2018.
11. Mcclellan S, Jimenez JA, Koutitas G. Smart cities: applications,
technologies, standards and driving factors;.
12. Clarke O. Smart cities in Europe: Enabling innovation.
13. Foo SL. Gary Pan. Singapore’s vision of a smart nation. Asian
Management Insights. Research Collection School of Accoun-
tancy. 2016;3(1):76–82.
14. Rudolf Giffinger (chief author). Smart cities – Ranking of Eu-
ropean medium-sized cities. Vienna: Centre of Regional Sci-
ence;.
15. Smart city Brussels . Available from: https://smartcity.brussels/
the-project-definition.
16. Cohen B. The 3 generation of smart cities, Inside the de-
velopment of the technology driven city;Available from:
https://www.fastcompany.com/3047795/the-3-generations-
of-smart-cities.
17. Madakam S, Ramachandran R. Barcelona Smart city: The
heaven on Earth (Internet of things: technological God. ZTE
communicatons, December 2015. 2015;13(4).
18. Mila Gascó-Hernandes. Building a smart city: Lessons from
Barcelona. Communication of the ACM. 2018;61(4).
19. Easy Park; 2017. Available from: https://easyparkgroup.com/
smart-cities-index/.
20. CityM. A knowledge city strategy: strengtheningMelbourne’s
knowledge sector through collaboration 2014-2018.
21. Seoul Metropolitan Government. Smart Seoul 2015 (ver En-
glish).;.
22. Seoul Metropolitan Government. Smart cities Seoul: a case
study. Geneva, Switzerland: ITU; 2013.
23. Government Technology Agency of Singapore. Available
from: https://data.gov.sg/dataset/total-land-area-of-singapore.
24. National Population andTalentDivision. Available from: https:
//www.population.sg/population-trends/demographics.
25. Data World Bank. Available from: https://data.worldbank.org/
indicator/NY.GDP.PCAP.CD?end=2017&locations=MY-SG-
Z4&start=1960.
130
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 3(3):120-132
26. Sen VV. Võ Phúc Toàn. Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh nhìn
từ bài học Singapore.
27. Sở Khoa học và Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh. Hoạt
động thúc đẩy đổi mới sáng tạo trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh”. kỷ yếu hội thảo Khơi dậy và phát huy truyền thống
năng động, sáng tạo để phát triển Thành phố giai đoạn 2018-
2020 và những năm tiếp theo;.
28. Melony Rocque. Smart cities world profiles: The Republic of
Singapore; 2017.
29. NamH. TrongkhiẤnĐộvàViệtNamđangcốgắng thànhquốc
gia khởi nghiệp thì Singapore đã tiến đến quốc gia thông .
30. Hảo Linh. Chính phủ và khởi nghiệp. [Online]. Available
from: 
a-khoi-nghiep-9813.
31. McKinsey Global Institute. Smart cities in Southest Asia, Pro-
duced for World Cities Summit; 2018.
32. Nguyễn Thiện Nhân. Nghị quyết của Quốc hội về thí
điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố
Hồ Chí Minh - Động lực phát triển mới và trách nhiệm
lớn của Thành phố vì cả nước;26/8/2018. Available
from: 
phat-trien-moi-cua-Thanh-pho-Ho-Chi-Minh.html.
33. Đài Tiếng nói Nhân dân TP HCM. Thành phố Hồ Chí Minh:
Thành quả và thách thức trên đường phát triển.;Available
from: 
thanh-qua-va-thach-thuc-tren-duong-phat-trien-254567.
html.
34. Sự V. Bí thư Nguyễn Thiện Nhân: “167 năm nữa
giao thông TP.HCM mới đạt chuẩn”. Available from:
https://tuoitre.vn/bi-thu-nguyen-thien-nhan-167-nam-nua-
giao-thong-tphcm-moi-dat-chuan-1371169.htm.
35. Lê K. Khánh Lê. [Online]. [26/8/2018]. TP.HCM chống lún - Bài
1: Mặt đất biến dạng, Available from: 
n/tphcm-chong-lun-bai-1-mat-dat-bien-dang-466419.html. .
36. Sở Khoa học và Công nghệ Thành phốHồChíMinh. Phát triển
Khu Đô thị sáng tạo Thành phố Hồ Chí Minh. Kỷ yếu hội nghị
quốc tế Tầm nhìn cho Đô thị sáng tạo tại Thành phố Hồ Chí
Minh (Vision for innovation district in Ho ChiMinh city). 2018;.
37. GibertM.Mạng lưới đườnghẻm thànhphốHồChíMinh trong
quá trình hiện đại hóa: dự án phát triển cục bộ, thách thức
chung cho toàn đô thị.
38. Boyd Cohen. The 3 generation of smart cities, Inside the de-
velopment of the technology driven city. [Online]. Available
from: https://www.fastcompany.com/3047795/the-3-genera
tions-of-smart-cities.
39. Winden WV, Carvalho LD. Can startups solve urban prob-
lems? An analysis of Amsterdam’s “startup in residence” pro-
gramme, Amsterdam: Amsterdam University of Applied Sci-
ences. Publishing Lab;.
40. Cục Thống kê TPHCM. Niên giám thống kê TP.HCMnăm2016.
Nxb. Thanh niên. 2017;.
131
Science & Technology Development Journal – Social Sciences & Humanities, 3(3):120-132
Open Access Full Text Article Research Article
University of Social Sciences and
Humanities, VNU-HCM
Correspondence
Vo Phuc Toan, University of Social
Sciences and Humanities, VNU-HCM
Email: vophuctoan@hcmussh.edu.vn
History
 Received: 19-12-2018
 Accepted: 12-11-2019
 Published: 30-12-2019
DOI : 10.32508/stdjssh.v3i3.519
Copyright
© VNU-HCM Press. This is an open-
access article distributed under the
terms of the Creative Commons
Attribution 4.0 International license.
Some issues about smart cities and the application to Ho Chi Minh
city
Vo Van Sen, Vo Phuc Toan*
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
ABSTRACT
Nowadays, more than 55% of theworld's population lives in urban areas. In the timewhen humans
are beings facing the pressure of population explosion and climate change, technology was a key
to solve the problems of modern cities. Many models of cities have been chosen to develop cities
in the world such as green cities, global cities, livable cities Born from the 1990s and becoming
more andmore popular since 2010, smart cities have been themost chosen developmentmodel of
cities in the world. And Barcelona, Seoul, Singapore were successful cases which transformed into
smart cities. Similarly, as the largest economic hubof Viet Nam, HoChiMinhCity encounters serious
challenges of socio-economic transformations, climate change; thus, it needs a newgrowthmodel.
In Nov. 2017, Ho Chi Minh City promulgated the plans for the transformation towards a smart city
soon in the 2017-2020 period and with a vision to 2025. This paper aims to analyze issues about
smart cities, lessons from prosperous cities in the process of building a smart city and of applying
the lessons to the case of Ho Chi Minh City.
Key words: Ho Chi Minh City, smart city, Barcelona, Seoul, Singapore
Cite this article : Van Sen V, Phuc Toan V. Some issues about smart cities and the application to Ho
Chi Minh city. Sci. Tech. Dev. J. - Soc. Sci. Hum.; 3(3):120-132.
132

File đính kèm:

  • pdfmot_so_van_de_ve_thanh_pho_thong_minh_va_van_dung_vao_truong.pdf