Một số vấn đề về giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ quốc gia đối với các dân tộc thiểu số có chữ viết ở khu vực Tây Bắc Việt Nam hiện nay (trường hợp tỉnh Sơn La)

Việt Nam là một quốc gia có dân số tương đối đông và đa dạng về thành phần dân tộc. Trong quá trình phát triển của các dân tộc có rất nhiều vấn đề được đặt ra và cần được giải quyết. Trong đó, nổi bật là

vấn đề giáo dục ngôn ngữ quốc gia (tiếng Việt) và giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ (tiếng mẹ đẻ) đối với người dân tộc thiểu số để đảm bảo được tính bình đẳng giữa các dân tộc sống trên lãnh thổ Việt Nam và góp phần quan trọng vào việc gìn giữ bản sắc văn hóa của các dân tộc. Nghiên cứu này tập trung vào một số vấn đề giáo dục ngôn ngữ đối với các dân tộc thiểu số có chữ viết ở khu vực Tây Bắc với mong muốn từ thực tiễn nghiên cứu một khu vực, một địa phương cụ thể góp phần thúc đấy sự phát triển bền vững của khu vực.

Một số vấn đề về giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ quốc gia đối với các dân tộc thiểu số có chữ viết ở khu vực Tây Bắc Việt Nam hiện nay (trường hợp tỉnh Sơn La) trang 1

Trang 1

Một số vấn đề về giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ quốc gia đối với các dân tộc thiểu số có chữ viết ở khu vực Tây Bắc Việt Nam hiện nay (trường hợp tỉnh Sơn La) trang 2

Trang 2

Một số vấn đề về giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ quốc gia đối với các dân tộc thiểu số có chữ viết ở khu vực Tây Bắc Việt Nam hiện nay (trường hợp tỉnh Sơn La) trang 3

Trang 3

Một số vấn đề về giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ quốc gia đối với các dân tộc thiểu số có chữ viết ở khu vực Tây Bắc Việt Nam hiện nay (trường hợp tỉnh Sơn La) trang 4

Trang 4

Một số vấn đề về giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ quốc gia đối với các dân tộc thiểu số có chữ viết ở khu vực Tây Bắc Việt Nam hiện nay (trường hợp tỉnh Sơn La) trang 5

Trang 5

Một số vấn đề về giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ quốc gia đối với các dân tộc thiểu số có chữ viết ở khu vực Tây Bắc Việt Nam hiện nay (trường hợp tỉnh Sơn La) trang 6

Trang 6

Một số vấn đề về giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ quốc gia đối với các dân tộc thiểu số có chữ viết ở khu vực Tây Bắc Việt Nam hiện nay (trường hợp tỉnh Sơn La) trang 7

Trang 7

Một số vấn đề về giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ quốc gia đối với các dân tộc thiểu số có chữ viết ở khu vực Tây Bắc Việt Nam hiện nay (trường hợp tỉnh Sơn La) trang 8

Trang 8

Một số vấn đề về giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ quốc gia đối với các dân tộc thiểu số có chữ viết ở khu vực Tây Bắc Việt Nam hiện nay (trường hợp tỉnh Sơn La) trang 9

Trang 9

pdf 9 trang Trúc Khang 08/01/2024 5440
Bạn đang xem tài liệu "Một số vấn đề về giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ quốc gia đối với các dân tộc thiểu số có chữ viết ở khu vực Tây Bắc Việt Nam hiện nay (trường hợp tỉnh Sơn La)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số vấn đề về giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ quốc gia đối với các dân tộc thiểu số có chữ viết ở khu vực Tây Bắc Việt Nam hiện nay (trường hợp tỉnh Sơn La)

Một số vấn đề về giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ quốc gia đối với các dân tộc thiểu số có chữ viết ở khu vực Tây Bắc Việt Nam hiện nay (trường hợp tỉnh Sơn La)
TẠP CHÍ KHOA HỌC 
Khoa học Xã hội, Số 11 (12/2017) tr. 1 - 9 
1 
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ GIÁO DỤC NGÔN NGỮ MẸ ĐẺ 
VÀ NGÔN NGỮ QUỐC GIA ĐỐI VỚI CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ 
CÓ CHỮ VIẾT Ở KHU VỰC TÂY BẮC VIỆT NAM HIỆN NAY 
(Trƣờng hợp tỉnh Sơn La) 
“Nếu bạn nói với một người bằng ngôn ngữ người đó hiểu, điều bạn nói sẽ tới được đầu anh ta. Nếu bạn 
nói với người đó bằng ngôn ngữ của họ, điều bạn nói sẽ tới trái tim anh ta.” 
(Nelson Madena) 
Nguyễn Trung Kiên1 
 Trường Đại học Tây Bắc 
Tóm tắt: Việt Nam là một quốc gia có dân số tương đối đông và đa dạng về thành phần dân tộc. Trong 
quá trình phát triển của các dân tộc có rất nhiều vấn đề được đặt ra và cần được giải quyết. Trong đó, nổi bật là 
vấn đề giáo dục ngôn ngữ quốc gia (tiếng Việt) và giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ (tiếng mẹ đẻ) đối với người dân tộc 
thiểu số để đảm bảo được tính bình đẳng giữa các dân tộc sống trên lãnh thổ Việt Nam và góp phần quan trọng 
vào việc gìn giữ bản sắc văn hóa của các dân tộc. Nghiên cứu này tập trung vào một số vấn đề giáo dục ngôn 
ngữ đối với các dân tộc thiểu số có chữ viết ở khu vực Tây Bắc với mong muốn từ thực tiễn nghiên cứu một khu 
vực, một địa phương cụ thể góp phần thúc đấy sự phát triển bền vững của khu vực. 
Từ khóa: Ngôn ngữ quốc gia, ngôn ngữ mẹ đẻ, dân tộc, phát triển. 
1. Mở đầu 
Ngôn ngữ là công cụ chủ yếu để tƣ duy và là phƣơng tiện chủ yếu để giao tiếp, luận 
điểm nổi tiếng này đã trở nên quen thuộc và đƣợc thừa nhận một cách rộng rãi khi nghiên cứu 
ngôn ngữ. Nhiều học giả cho rằng ngôn ngữ là thứ tài sản vô giá của mỗi cá nhân, mỗi tộc 
ngƣời và mỗi quốc gia. Coi ngôn ngữ là tài sản bởi nếu thiếu ngôn ngữ, con ngƣời sẽ mất đi 
một phƣơng tiện quan trọng nhất để giao tiếp, không có khả năng để tƣ duy và cùng với đó là 
sự mất đi của nhiều giá trị văn hóa tinh thần. Đối với sự phát triển của xã hội, ở thời kì nào, xã 
hội cũng đều khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của ngôn ngữ. Ngày nay, trong bối cảnh 
hội nhập và phát triển mang tính toàn cầu hóa thì vai trò đó càng trở nên quan trọng hơn. 
Việt Nam là một quốc gia có dân số tƣơng đối đông và đa dạng về thành phần dân tộc. 
Trong quá trình phát triển của các dân tộc có rất nhiều vấn đề đƣợc đặt ra và cần đƣợc giải 
quyết. Trong đó nổi bật là vấn đề giáo dục ngôn ngữ quốc gia (tiếng Việt) và giáo dục ngôn 
ngữ mẹ đẻ đối với ngƣời dân tộc thiểu số để đảm bảo đƣợc tính bình đẳng giữa các dân tộc 
sống trên lãnh thổ Việt Nam và góp phần quan trọng vào việc gìn giữ bản sắc văn hóa của các 
dân tộc. Nghiên cứu này chỉ đề cập đến vấn đề giáo dục ngôn ngữ quốc gia và giáo dục ngôn 
ngữ mẹ đẻ đối với một số dân tộc thiểu số có chữ viết ở khu vực Tây Bắc (tỉnh Sơn La) với hi 
vọng qua thực tiễn nghiên cứu từ một khu vực, một địa phƣơng cụ thể, có thể góp phần xây 
dựng cơ sở lí luận chung trong việc giáo dục ngôn ngữ đối với các dân tộc thiểu số tại các địa 
bàn khác của Việt Nam. 
1Ngày nhận bài: 31/8/2017. Ngày nhận đăng: 12/10/2017 
Liên lạc: Nguyễn Trung Kiên, e - mail: kienvansl@gmail.com 
2 
2. Nội dung 
2.1. Về khái niệm khu vực Tây Bắc 
Khu vực Tây Bắc là một thuật ngữ địa lí dùng để chỉ vùng núi phía Tây của miền Bắc 
Việt Nam. Khu vực này còn có tên gọi khác là Khu vực Tây Bắc Bắc bộ. Sở dĩ có tên gọi nhƣ 
vậy vì Tây Bắc là một trong ba tiểu vùng địa lí tự nhiên của khu vực Bắc bộ gồm Tây Bắc, 
Đông Bắc và đồng bằng sông Hồng. Về không gian địa lí, theo ý kiến của nhà địa lí học Lê 
Bá Thảo thì khu vực Tây Bắc đƣợc giới hạn ở phía Đông bởi dãy núi Hoàng Liên Sơn và ở 
phía Tây bởi dãy núi Sông Mã. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng khu vực Tây Bắc chỉ có 
không gian địa lí đơn thuần là vùng phía Nam (hữu ngạn) của sông Hồng hoặc vùng phía 
Nam của dãy núi Hoàng Liên Sơn. Nhƣ vậy có thể nói cho đến nay không gian địa lí khu vực 
Tây Bắc chƣa có một sự thống nhất về quan điểm. Và điều đó đã dẫn đến việc có nhiều cách 
phân chia khác nhau về các đơn vị hành chính của khu vực Tây Bắc. Có ý kiến cho rằng khu 
vực Tây Bắc có địa giới hành chính bao gồm sáu tỉnh là Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai 
Châu, Yên Bái, Lào Cai. Tuy nhiên, hai tỉnh Yên Bái và Lào Cai vẫn đƣợc xếp vào những 
đơn vị hành chính của khu vực Đông Bắc. Ngoài ra, còn còn một thuật ngữ về khu vực Tây 
Bắc mở rộng là khu vực địa giới bao gồm sáu tỉnh kể trên và một số huyện phía tây của các 
tỉnh Phú Thọ, Nghệ An và Thanh Hóa. 
2.2. Về khái niệm ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ quốc gia 
Ngôn ngữ mẹ đẻ là ngôn ngữ đƣợc thừa hƣởng trong thời thơ ấu, và có thể không đƣợc 
giảng dạy chính thức trong trƣờng học. Đặc trƣng của ngƣời nói tiếng mẹ đẻ của một ngôn ngữ 
là có trực giác về những gì họ có trong ngôn ngữ đó mà những ngƣời khác không có đƣợc [6]. 
Tiếng mẹ đẻ không đồng nhất với ngôn ngữ của cộng đồng sắc tộc mà ngƣời nói hay 
cha mẹ họ thuộc vào mà là ngôn ngữ đƣợc hình thành ở ngƣời nói từ nhỏ theo con đƣờng học 
hỏi ở những ngƣời xung quanh một cách tự nhiên [1]. 
Ở Việt Nam, hầu hết các dân tộc đều có tiếng mẹ đẻ của mình (cho đến na ... c dân tộc. Tại các tỉnh Sơn La, Lai Châu cũng tổ chức những 
lớp học ngắn hạn hoặc trung hạn đối với cán bộ, công chức, viên chức tuy nhiên hiệu quả của 
đào tạo còn là vấn đề cần tiếp tục thảo luận. Nhƣ vậy có thể thấy, trong ba môi trƣờng quan 
trọng giúp cho ngôn ngữ có thể phát triển là gia đình, nhà trƣờng và xã hội thì việc giáo dục 
ngôn ngữ mẹ đẻ của ngƣời dân tộc thiểu số đang thiếu một môi trƣờng quan trọng là trƣờng 
học (nhà trƣờng). Tuy nhiên, nếu một cá nhân đƣợc giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ tốt bởi hai môi 
trƣờng là gia đình và xã hội thì việc tiếp thu ngôn ngữ mẹ đẻ vẫn có thể nằm trong vùng an 
toàn. Tức là vẫn duy trì đƣợc tính truyền thừa của ngôn ngữ mẹ đẻ và vẫn có thể dùng ngôn 
ngữ mẹ đẻ trong hoạt động hành chức (trong giao tiếp). Hiện nay, có một thực tiễn là ngôn 
ngữ mẹ đẻ đang bị thui chột ngay trong chính môi trƣờng gia đình của ngƣời dân tộc thiểu số. 
6 
Đối với một bộ phận không nhỏ cƣ dân ngƣời dân tộc thiểu số sống ở các vùng trung tâm của 
miền núi nhƣ thị trấn, thị xã, thành phố thì việc sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ trong sinh hoạt gia 
đình đã hạn chế đi rất nhiều. Trong sinh hoạt, mọi ngƣời giao tiếp với nhau bằng tiếng Việt là 
chủ yếu. Khảo sát của tác giả tại 04 thị trấn của tỉnh Sơn La là Ít Oong (Mƣờng La), Mộc 
Châu, Phù Yên và Bắc Yên, tỉ lệ trung bình sử dụng tiếng mẹ đẻ trong đời sống sinh hoạt 
hàng ngày là 42,36%. Tác giả cũng tiến hành một khảo sát tƣơng tự ở 03 phƣờng của thành 
phố Sơn La là Chiềng Lề, Quyết Tâm và Chiềng Sinh thì tỉ lệ trung bình ngƣời dân tộc thiểu 
số sử dụng tiếng mẹ đẻ trong sinh hoạt còn thấp hơn với kết quả là 33,21%. Trong giao tiếp 
thƣờng ngày (giao tiếp khi mua bán, gặp gỡ, chào hỏi xã giao) do đặc điểm đan xen trong 
cộng cƣ giữa các dân tộc trên cùng một địa bàn cƣ trú cho nên hầu nhƣ ngƣời dân tộc thiểu số 
lại chọn tiếng Việt khi trao đổi thông tin với nhau và với ngƣời thuộc dân tộc khác. 
Về vấn đề chữ viết, ngƣời dân tộc thiểu số luôn có một nguyện vọng tha thiết với chữ 
viết của dân tộc mình. Tại Sơn La, những ngƣời có thể đọc và hiểu đƣợc chữ Thái cổ, chữ 
Nôm Dao, chữ Hoa, chữ Mông đều nhận đƣợc sự tôn trọng, ngƣỡng mộ của những ngƣời 
trong cùng cộng đồng dân tộc và thậm chí cả những ngƣời của dân tộc khác. Đại bộ phận 
ngƣời Thái, Dao, Mông, Hoa đều mong muốn đƣợc biết và sử dụng đƣợc chữ viết của dân tộc 
mình. Tuy nhiên, vì nhiều lí do khác nhau mà số lƣợng ngƣời hiện nay có thể sử dụng chữ 
viết của dân tộc mình không những không tăng lên mà lại có xu hƣớng ngày càng ít đi so với 
khoảng 50 năm về trƣớc. Theo tác giả, đây thực sự đang là một hiện tƣợng đáng báo động. 
Bởi, khi số lƣợng ngƣời biết chữ ngày càng ít thì cũng có nghĩa là các giá trị văn hóa đƣợc lƣu 
giữ bằng văn bản sẽ bị mai một cùng với thời gian. Đến một lúc nào đó, nếu nhƣ không còn ai 
có thể đọc và hiểu đƣợc các văn bản đó thì cũng có nghĩa là một vùng văn hóa rất có thể rơi 
vào quên lãng hoặc muốn gìn giữ nó thì cũng phải mất rất nhiều thời gian, công sức và tiển 
của mà chƣa chắc đã đạt đƣợc kết quả nhƣ mong muốn. 
Quả thực, vấn đề giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ cho các dân tộc thiểu số là một vấn đề nan 
giải. Những thử nghiệm đã áp dụng có thể nói vẫn đang là một quá trình “dò đƣờng”. Theo 
tác giả, để đạt đƣợc hiệu quả của việc giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ cho một dân tộc là một công 
việc đòi hỏi tính thực tiễn rất cao. Nghĩa là rất không nên định hình một hệ lí thuyết giáo dục 
chung chung rồi đem áp dụng đại trà nhƣ chúng ta đã từng áp dụng cho chƣơng trình dạy chữ 
Thái và chữ Mông. Việc giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ phải bắt đầu từ giáo dục ý thức tộc ngƣời 
đối với từng cá nhân của dân tộc đó. Chỉ khi nào một ngƣời Thái thấy rằng tiếng Thái rất có ý 
nghĩa với họ, với dân tộc của họ thì họ mới có ý thức để học tập, trao truyền, và phổ biến 
trong cộng đồng mà họ sống. Giáo dục ý thức và tình yêu ngôn ngữ mẹ đẻ thì có thể làm đƣợc 
từ gia đình, nhà trƣờng. Đối với nhà trƣờng, ở các cấp học, có lẽ nên dành một phần chƣơng 
trình dành cho việc giáo dục văn hóa truyền thống các dân tộc. Rộng hơn nhà trƣờng là tại các 
bản, xã, và các cụm dân cƣ, cũng hoàn toàn có thể tổ chức đƣợc những hoạt động sinh hoạt 
văn hóa văn nghệ, các trò chơi dân gian và thậm chí cả các hội thi sử dụng tiếng dân tộc thiểu 
số. Cùng với đó là công tác đào tạo, bồi dƣỡng đội ngũ giáo viên dạy tiếng dân tộc cho các 
nhà trƣờng, tại các vùng có ngƣời dân tộc sinh sống. Cần xây dựng chƣơng trình giúp cho 
ngƣời dân tộc thiểu số từ khi bƣớc vào lớp một đến khi kết thúc chƣơng trình phổ thông có 
thể đọc, viết và hiểu đƣợc ngôn ngữ của dân tộc mình sẽ là một thành công lớn trong việc dạy 
tiếng mẹ đẻ. Thêm vào đó, nên coi ngôn ngữ dân tộc nhƣ một môn học tự chọn trong sự đối 
7 
sánh với môn ngoại ngữ. Bởi vì thực tế lợi ích của việc học ngoại ngữ là để biết nhiều hơn về 
bên ngoài nhƣng thực tiễn có một bộ phận không nhỏ ngƣời học lại rất coi trọng việc biết 
nhiều hơn về bên trong (văn hóa của chính dân tộc mình). Tạo cho ngƣời học hai sự lựa chọn 
sẽ đƣa đến hai kết quả là có một bộ phận ngƣời dân tộc thiểu số chuyên sâu với việc học 
ngoại ngữ để phục vụ cho nhu cầu công việc của mình nhƣng cũng có một bộ phận trí thức 
ngƣời dân tộc thiểu số thông thạo ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) của chính dân tộc mình để 
phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt, công tác và làm việc ngay trên chính địa phƣơng họ sinh ra. 
Tiếng Việt với vai trò của một ngôn ngữ quốc gia đã và đang thể hiện đƣợc tầm quan 
trọng đối với đời sống của các dân tộc trên đất nƣớc Việt Nam. Chính ý nghĩa quan trọng này 
nên trong hệ thống giáo dục quốc dân đã xác định việc giáo dục tiếng Việt chính là một cách để 
đảm bảo quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Bằng những chính sách cụ thể, nƣớc ta đang rất nỗ 
lực để giúp cho các dân tộc đều đƣợc thụ hƣởng quyền bình đẳng trong việc giáo dục ngôn ngữ 
quốc gia (tiếng Việt). Ngày 04/5/2013, tại Quyết định số 692/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án 
xóa mù chữ đến năm 2020 đã cho thấy quyết tâm của Chính phủ trong việc tiếp tục xóa mù chữ, 
tạo mọi điều kiện thuận lợi để giúp cho mọi ngƣời dân đều có thể đƣợc học tiếng Việt. 
Thực tiễn ở khu vực Tây Bắc cho thấy, không chỉ những dân tộc có chữ viết nhƣ Thái, 
Dao, Mông, Hoa mà tất các các dân tộc khác đều có nhu cầu đƣợc học tiếng Việt. Nghiên cứu 
của các tác giả Trần Trí Dõi (2004) và Nguyễn Văn Khang (2009) đã cho thấy tỉ lệ ngƣời dân 
tộc thiểu số ở Sơn La, Nghệ An, Tuyên Quang và An Giang đều cao, dao động ở mức 98% 
đến 100%. Nhu cầu này xuất phát từ chính chức năng của tiếng Việt là ngôn ngữ phổ thông, 
thạo tiếng Việt sẽ mang lại rất nhiều lợi ích cho họ khi tham gia các hoạt động của đời sống 
nhƣ trao đổi mua bán, giao tiếp với ngƣời của dân tộc khác bằng tiếng Việt và sâu hơn là sự 
giao lƣu về văn hóa. 
Nhƣ đã phân tích ở trên, nhu cầu học và sử dụng tiếng Việt của ngƣời dân tộc thiểu số 
lớn và mạnh đến mức nhiều khi họ đã hạn chế sử dụng tiếng mẹ đẻ của mình trong những 
hoàn cảnh giao tiếp hoàn toàn có thể sử dụng tiếng mẹ đẻ (môi trƣờng gia đình). Vậy định vị 
vai trò của tiếng Việt nhƣ thế nào cho đúng tại vùng dân tộc thiểu số là một vấn đề rất quan 
trọng. Xác định đúng vấn đề này sẽ giúp cho ngôn ngữ quốc gia có tính phổ cập trên cả nƣớc, 
tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển về kinh tế, xã hội và văn hóa. 
Về vấn đề giáo dục ngôn ngữ quốc gia (tiếng Việt) ở vùng dân tộc thiểu số, trƣớc hết 
cần giúp cho ngƣời dân tộc thiểu số nhận thức đƣợc việc học tiếng Việt là quyền và nghĩa vụ 
của mỗi ngƣời. Xác định là quyền vì mọi hành vi ngăn cản việc học tiếng Việt đều bị coi là vi 
phạm vào quyền công dân. Học tiếng Việt cũng là nghĩa vụ vì thông qua học tiếng Việt sẽ 
giúp nhận thức đƣợc nhiều hơn tri thức của khoa học kĩ thuật để áp dụng vào sản xuất và có 
thể hiểu rộng hơn về văn hóa, phong tục của các dân tộc khác cùng sinh sống trên đất nƣớc 
Việt Nam. Ngoài việc giúp ngƣời dân tộc thiểu số nhận thức đƣợc vai trò quan trọng của học 
tiếng Việt thì thực hiện việc giáo dục tiếng Việt với vai trò là ngôn ngữ thứ hai cũng rất quan 
trọng. Chính vì tầm quan trọng mà trong một nghiên cứu của mình, tác giả Trần Trí Dõi đã 
đƣa ra khái niệm “ngôn ngữ mẹ đẻ thứ hai” với ngƣời dân tộc thiểu số là tiếng Việt [3]. Hiện 
nay, khung chƣơng trình giáo dục tiếng Việt đang đƣợc thực hiện ở các cấp học tại các vùng 
trong cả nƣớc là giống nhau. Theo tác giả, điểm này cần đƣợc điều chỉnh. Bởi vì, nếu nhƣ đối 
8 
với học sinh ngƣời Kinh, việc học tiếng Việt chính là học tiếng mẹ đẻ của mình thì với học 
sinh ngƣời dân tộc thiểu số, tiếng Việt dù hiểu thế nào đi chăng nữa vẫn là ngôn ngữ thứ hai 
của họ. Do đó, cần phải tăng thời lƣợng cho môn Ngữ văn nói chung và tiếng Việt nói riêng. 
Thời lƣợng này vẫn chấp nhận chọn giải pháp: Ngoài chƣơng trình chính khóa cần đƣa thêm 
vào chƣơng trình phần tự chọn để có thêm nhiều thời gian hơn cho việc học tiếng Việt đối với 
học sinh là ngƣời dân tộc thiểu số. Thực tiễn giảng dạy môn Ngữ văn tại các trƣờng phổ thông 
ở khu vực miền núi cho thấy học sinh ngƣời dân tộc thiểu số thƣờng mắc nhiều lỗi trong phát 
âm, chính tả và đặc biệt là gặp khó khăn trong việc hiểu ý nghĩa của lớp từ Hán Việt trong 
vốn từ tiếng Việt. Đƣa thêm phần tự chọn trong chƣơng trình giáo dục phổ thông chính là đầu 
tƣ thêm thời gian để nhằm khắc phục những hạn chế đó. 
2.5. Từ việc giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ quốc gia hướng đến sự phát triển bền vững 
Giáo dục ngôn ngữ là trang bị cho con ngƣời công cụ để tƣ duy và phƣơng tiện để giao 
tiếp. Trong bối cảnh hiện nay, khi mà khoảng cách giữa các khu vực trong cả nƣớc đang ngày 
càng đƣợc thu hẹp nhờ những tiến bộ của khoa học kĩ thuật và công nghệ thì việc giáo dục 
ngôn ngữ tại các khu vực đặc thù nhƣ Tây Bắc càng trở nên quan trọng. 
Trƣớc hết có thể khẳng định nếu làm tốt việc giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ 
quốc gia sẽ tạo nên một sự phát triển bền vững tại khu vực Tây Bắc. Phát triển là rất cần thiết 
nhƣng phát triển bền vững còn cần thiết hơn nhiều vì nó đảm bảo cho sự phát triển trong cả 
hai chiều là thời gian và không gian. Xác định phát triển bền vững là hƣớng đi chủ đạo sẽ 
định hƣớng cho công tác phát triển nguồn nhân lực (ngƣời lao động). Khi chủ thể của khu vực 
Tây Bắc là yếu tố con ngƣời đƣợc quan tâm phát triển một cách toàn diện cả về khoa học kĩ 
thuật hiện đại lẫn văn hóa truyền thống của dân tộc mình thì diện mạo của khu vực Tây Bắc 
sẽ đổi thay theo hƣớng hiện đại mà vẫn giữ đƣợc những đặc trƣng truyền thống. Ngôn ngữ 
quốc gia và ngôn ngữ mẹ đẻ giúp phát triển bền vững vì ngôn ngữ quốc gia, giúp cho sự giao 
lƣu, trao đổi, hợp tác, học hỏi giữa ngƣời dân tộc thiểu số với các dân tộc khác và thậm chí là 
với thế giới đƣợc thuận lợi hơn. Trong khi đó, ngôn ngữ mẹ đẻ lại giúp bảo tồn các giá trị văn 
hóa tinh thần của dân tộc. Hiểu đƣợc ý nghĩa và mối quan hệ tƣơng hỗ của ngôn ngữ quốc gia 
và ngôn ngữ mẹ đẻ sẽ giúp cho việc giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ quốc gia đạt hiệu 
quả và tránh đƣợc mâu thuẫn của hai khái niệm phát triển và bảo tồn. 
Vấn đề giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ quốc gia đối với các dân tộc có chữ viết ở 
khu vực Tây Bắc có ý nghĩa bao quát. Thực tế cho thấy khu vực Tây Bắc mặc dù đa dân tộc, 
đa ngôn ngữ nhƣng ngôn ngữ của những dân tộc có chữ viết lại có ý nghĩa của những “ngôn 
ngữ phổ thông vùng”. Nghĩa là những ngôn ngữ này đƣợc nhiều dân tộc khác dùng để sử 
dụng trong giao tiếp. Trong điều kiện của một quốc gia đang phát triển nhƣ nƣớc ta, khi ngân 
sách đầu tƣ cho giáo dục nói chung và giáo dục đối với ngƣời dân tộc thiểu số nói riêng còn 
gặp nhiều khó khăn thì hƣớng đi chọn những ngôn ngữ có tính phổ thông vùng để đầu tƣ phát 
triển trƣớc là một cách làm đúng đắn (điều này đƣợc thể hiện thông qua các chƣơng trình dạy 
tiếng và dạy chữ). Cách làm này không những giúp ích thiết thực cho chính những ngôn ngữ 
đã có chữ viết mà còn phần nào giảm bớt những khó khăn trong giao tiếp đối với các dân tộc 
thiểu số khác trong vùng. 
9 
3. Kết luận 
Phát triển là một quy luật của tự nhiên và xã hội. Vấn đề giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ và 
ngôn ngữ quốc gia để thúc đẩy sự phát triển cũng không nằm ngoài quy luật đó. Muốn phát 
triển kinh tế, xã hội và văn hóa của một quốc gia hay một khu vực thì nhất thiết phải quan tâm 
đến nhân tố con ngƣời. Khu vực Tây Bắc của Việt Nam có thể coi là một khu vực có nhiều 
nét đặc trƣng về ngôn ngữ và văn hóa. Vì thế cần có một quan điểm toàn diện, chú trọng đến 
thực tiễn trong công tác giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ quốc gia. Phát triển ngôn ngữ 
quốc gia sẽ tạo sự bình đẳng cho tất cả các dân tộc còn phát triển ngôn ngữ mẹ đẻ sẽ bảo tồn 
và lƣu giữ đƣợc sự đa dạng về văn hóa các dân tộc nhƣ câu nói của Irina Bokova - Tổng Giám 
đốc UNESCO: “Việc bảo vệ và thúc đẩy ngôn ngữ mẹ đẻ là chìa khóa của công dân toàn cầu 
và của sự hiểu biết lẫn nhau một cách thực sự. Hiểu và nói nhiều hơn một ngôn ngữ sẽ giúp 
hiểu hơn về sự phong phú trong tƣơng tác văn hóa trên thế giới. Việc công nhận ngôn ngữ địa 
phƣơng cho phép nhiều ngƣời thể hiện tiếng nói của mình hơn và trở nên tích cực trong sứ 
mệnh tập thể của họ”. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Hoàng Thị Hòa Bình (2006). Nghiên cứu chƣơng trình dạy ngôn ngữ quốc gia cho học 
sinh phổ thông một số nƣớc. Đề tài NCKH cấp Bộ, Viện Chiến lƣợc và Chƣơng trình 
Giáo dục. 
[2] Trần Trí Dõi (2004). Chính sách ngôn ngữ văn hóa dân tộc ở Việt Nam. Nhà xuất bản 
Đại học Quốc gia, Hà Nội. 
[3] Trần Trí Dõi (2011). Những vấn đề chính sách ngôn ngữ và giáo dục ngôn ngữ vùng 
dân tộc thiểu số Việt Nam. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội. 
[4] Nguyễn Văn Khang (2009). Khảo sát nghiên cứu vai trò của tiếng nói và chữ viết Chăm 
trong đời sống xã hội của ngƣời Chăm hiện nay: Thực trạng và kiến nghị đề xuất. Đề tài 
NCKH cấp Bộ, Viện Ngôn ngữ học. 
[5] Vƣơng Toàn (chủ biên) (2002). Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam 
từ những năm 90. Viện Thông tin Khoa học Xã hội. 
SOME EDUCATIONAL ISSUES IN TEACHING MOTHER TONGUE LANGUAGES 
AND THE NATIONAL LANGUAGE FOR ETHNIC MINORITIES 
IN THE NORTHWEST OF VIETNAM (A case study in Son La) 
Nguyen Trung Kien 
Tay Bac University 
Abstract: Vietnam is a country with a quite big population and diverse in ethnic groups. In the process of 
development, there are many issues that need to be sorted out and solved. Among them, the problems of 
balancing the national language (Vietnamese) and the native language (mother tongue) for ethnic minorities to 
ensure the equality of the peoples living in Vietnam's territory is of great concern. It significantly contributes to 
the preservation of the cultural identity of ethnic peoples. The report focuses on language education for ethnic 
minorities who have their own writing systems. It is hoped that a regional study in a specific participant 
informants can contribute a small part to promote the sustainable development of the region. 
Keywords: National language, native language, ethnicity and development. 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_van_de_ve_giao_duc_ngon_ngu_me_de_va_ngon_ngu_quoc_gi.pdf