Một số vấn đề về cảm thụ âm nhạc của trẻ

Có thể thấy vai trò của âm nhạc đối với đời sống xã

hội là thiết yếu và quan trọng đặc biệt đối với trẻ, nó

không những chỉ tác động sâu sắc đến thế giới tinh thần

mà còn góp phần thúc đẩy sự phát triển trí tuệ ở mỗi em.

Khi nghe nhạc, sự chú ý quan sát, lắng nghe, sự nhạy bén

về thị giác và thính giác ở trẻ được tăng cường. Tiếp xúc

với âm nhạc trẻ còn được rèn luyện một số kĩ năng về

giao tiếp, kĩ năng vận động, hợp tác Qua các bài hát,

trẻ còn được rèn luyện phát âm một cách chính xác hơn

để từ đó mở rộng vốn từ trong lĩnh vực phát triển ngôn

ngữ. Âm nhạc còn giúp cho trí tưởng tượng ở trẻ càng trở

nên phong phú đa dạng hơn.

Theo một số tài liệu đã chỉ ra rằng những đứa bé khi

còn ở trong bụng mẹ đã có biểu hiện đối với âm nhạc và

hơn nữa chúng có thể cảm nhận âm nhạc sau khi sinh. Từ

khi còn là thai nhi, cơ quan thính giác cũng đã khá nhạy

cảm. Những âm thanh từ cơ thể người mẹ như tiếng thở,

nhịp đập của tim, tiếng mẹ nói hoặc các âm thanh khác

từ bên ngoài đều có thể kích thích các cơ quan đặc biệt là

cơ quan thính giác của thai nhi. Đến khoảng 28-32 tuần

tuổi, thai nhi đã có thể có những phản ứng, cử động nhẹ

nhàng đối với sự kích thích của âm thanh từ bên ngoài.

Khi tiếp xúc với các loại âm thanh từ khi còn trong bụng

mẹ cũng có thể ảnh hưởng đến độ nhạy cảm và sở thích

âm nhạc của trẻ sau này. Mặc dù thai nhi chỉ có thể nghe

được những âm thanh đơn giản có tần số sóng âm thấp

và cũng có thể các âm thanh đó không phản ánh đúng với

âm thanh thực do sóng âm khi truyền qua nước ối (giống

như khi ta nghe âm thanh dưới nước). Tuy vậy, bé vẫn

có thể nhận ra đường nét giai điệu và tiết tấu của lời nói

hoặc âm nhạc và trở thành những âm thanh gần gũi quen

thuộc. Một vài kết quả nghiên cứu cho thấy các bé tỏ ra

thích thú hơn với ngữ điệu của những câu chuyện được

mẹ nhắc lại nhiều lần thành tiếng trong những tháng cuối

của thai kì. Các em bé sơ sinh có khả năng nhận ra giọng

nói của cha mẹ mình do sự yêu thương ngay từ khi còn

trong bụng mẹ. Như vậy, có thể nói khi vừa được sinh ra,

các em bé đã có sự nhạy cảm nhất định đối với âm thanh.

Đây có thể coi là nền tảng chuẩn bị cho những trải

nghiệm âm nhạc của bé sau này và cũng chính là vấn đề

mà bài báo muốn đề cập tới.

Một số vấn đề về cảm thụ âm nhạc của trẻ trang 1

Trang 1

Một số vấn đề về cảm thụ âm nhạc của trẻ trang 2

Trang 2

Một số vấn đề về cảm thụ âm nhạc của trẻ trang 3

Trang 3

Một số vấn đề về cảm thụ âm nhạc của trẻ trang 4

Trang 4

Một số vấn đề về cảm thụ âm nhạc của trẻ trang 5

Trang 5

pdf 5 trang baonam 8860
Bạn đang xem tài liệu "Một số vấn đề về cảm thụ âm nhạc của trẻ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số vấn đề về cảm thụ âm nhạc của trẻ

Một số vấn đề về cảm thụ âm nhạc của trẻ
 VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 12/2017, tr 67-70; 96 
 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CẢM THỤ ÂM NHẠC CỦA TRẺ 
 Nguyễn Anh Việt - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 
 Ngày nhận bài: 01/12/2017; ngày sửa chữa: 02/12/2017; ngày duyệt đăng: 11/12/2017. 
 Abstract: At present, with increasing development of the society, there are many opportunities for 
 children to approach to music. Children have good capacity in perceiving music through pitch, 
 length, volume, melody, rhythm, etc. In addition, according to age and experience, children 
 understand complex elements such as timbre, harmony, instrument, etc. It can be said that sense of 
 music of children is developed since early ages. Therefore, parents should pay attention to and 
 encourage their children to promote the potential and competence. This article provides some 
 knowledge to help parents guide their children to develop the music capacity. 
 Keywords: Music, sense of music, children. 
1. Mở đầu của thai kì. Các em bé sơ sinh có khả năng nhận ra giọng 
 nói của cha mẹ mình do sự yêu thương ngay từ khi còn 
 Có thể thấy vai trò của âm nhạc đối với đời sống xã 
 trong bụng mẹ. Như vậy, có thể nói khi vừa được sinh ra, 
hội là thiết yếu và quan trọng đặc biệt đối với trẻ, nó 
 các em bé đã có sự nhạy cảm nhất định đối với âm thanh. 
không những chỉ tác động sâu sắc đến thế giới tinh thần 
 Đây có thể coi là nền tảng chuẩn bị cho những trải 
mà còn góp phần thúc đẩy sự phát triển trí tuệ ở mỗi em. 
 nghiệm âm nhạc của bé sau này và cũng chính là vấn đề 
Khi nghe nhạc, sự chú ý quan sát, lắng nghe, sự nhạy bén 
 mà bài báo muốn đề cập tới. 
về thị giác và thính giác ở trẻ được tăng cường. Tiếp xúc 
với âm nhạc trẻ còn được rèn luyện một số kĩ năng về 2. Nội dung nghiên cứu 
giao tiếp, kĩ năng vận động, hợp tác Qua các bài hát, Cảm thụ là quá trình giác quan tiếp nhận sự kích thích 
trẻ còn được rèn luyện phát âm một cách chính xác hơn của sự vật bên ngoài, nhận biết được cái tế nhị bằng cảm 
để từ đó mở rộng vốn từ trong lĩnh vực phát triển ngôn tính tinh vi. Những cảm nhận của trẻ được lưu lại trong 
ngữ. Âm nhạc còn giúp cho trí tưởng tượng ở trẻ càng trở đầu và có thể được bộc lộ ra bên ngoài những gì chúng 
nên phong phú đa dạng hơn. cảm thấy được. 
 Theo một số tài liệu đã chỉ ra rằng những đứa bé khi Những năm gần đây có rất nhiều công trình nghiên 
 cứu về những vấn đề phát triển trẻ em. Ngoài việc chăm 
còn ở trong bụng mẹ đã có biểu hiện đối với âm nhạc và 
 sóc, dinh dưỡng, y tế thì việc phụ huynh cho con tiếp 
hơn nữa chúng có thể cảm nhận âm nhạc sau khi sinh. Từ 
 xúc với âm nhạc cũng đóng vai trò quan trọng trong việc 
khi còn là thai nhi, cơ quan thính giác cũng đã khá nhạy phát triển trí tuệ của trẻ. Âm nhạc là một trong những yếu 
cảm. Những âm thanh từ cơ thể người mẹ như tiếng thở, tố giúp kích thích trí tưởng tượng, tư duy sáng tạo, tăng 
nhịp đập của tim, tiếng mẹ nói hoặc các âm thanh khác khả năng cảm nhận tinh tế và giúp trẻ bộc lộ cảm xúc của 
từ bên ngoài đều có thể kích thích các cơ quan đặc biệt là mình một cách chân thật nhất, tự nhiên nhất. 
cơ quan thính giác của thai nhi. Đến khoảng 28-32 tuần Độ tuổi mầm non là độ tuổi mà trẻ đã có thể có những 
tuổi, thai nhi đã có thể có những phản ứng, cử động nhẹ cảm nhận nhất định về âm nhạc qua việc làm quen với 
nhàng đối với sự kích thích của âm thanh từ bên ngoài. phím đàn, với một vài nhạc cụ quen thuộc. Cũng có thể 
Khi tiếp xúc với các loại âm thanh từ khi còn trong bụng là một vài câu hát, hay tự đánh một vài nốt nhạc đơn giản 
mẹ cũng có thể ảnh hưởng đến độ nhạy cảm và sở thích cùng với giáo viên và cùng các bạn. Giáo viên có thể chơi 
âm nhạc của trẻ sau này. Mặc dù thai nhi chỉ có thể nghe những trò chơi âm nhạc để cho trẻ thấy sự lôi cuốn và 
được những âm thanh đơn giản có tần số sóng âm thấp hấp dẫn từ âm nhạc, giúp trẻ cảm thấy âm nhạc thật gần 
và cũng có thể các âm thanh đó không phản ánh đúng với gũi, dễ dàng. Phương pháp dạy cho trẻ ở độ tuổi này là 
âm thanh thực do sóng âm khi truyền qua nước ối (giống việc kết hợp giữa việc học mà chơi và mục đích cuối 
như khi ta nghe âm thanh dưới nước). Tuy vậy, bé vẫn cùng là tiến tới việc trẻ biết cảm thụ âm nhạc. 
có thể nhận ra đường nét giai điệu và tiết tấu của lời nói Thông qua những giai điệu không lời giúp bé phát 
hoặc âm nhạc và trở thành những âm thanh gần gũi quen triển trí tuệ, sự sáng tạo, trẻ có thể tưởng tượng một cách 
thuộc. Một vài kết quả nghiên cứu cho thấy các bé tỏ ra tự do thông qua những cảm xúc của bản thân. Khả năng 
thích thú hơn với ngữ điệu của những câu chuyện được ngôn ngữ của bé cũng sẽ được phát triển tốt khi trẻ tập 
mẹ nhắc lại nhiều lần thành tiếng trong những tháng cuối hát trước khi học chữ. Những trò chơi âm nhạc trong 
 67 
 VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 12/2017, tr 67-70; 96 
quá trình học tập cảm thụ âm nhạc sẽ giúp các bé phát tuyệt đối các độ cao này. 
triển khả năng vận động thể chất. Âm nhạc là một trong Trẻ trên 5  ... hững tới nhịp độ trong âm nhạc. Nếu trường độ là những âm 
cao độ đã nghe được có trẻ thực hiện một cách chính xác thanh rời rạc thì tiết tấu là sự kết hợp nhiều âm thanh đó 
 68 
 VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 12/2017, tr 67-70; 96 
theo quy luật nhất định. Ngay từ trong bụng mẹ trẻ đã nhiều vào độ tuổi và thời gian mà trẻ được tiếp xúc. 
có thể cảm nhận tiết tấu một cách khá nhậy cảm thông Ở trẻ từ 0-3 tuổi, sự cảm nhận về giai điệu được biểu 
qua những âm thanh bên ngoài mà nó nghe được. Biểu hiện rõ nhất qua việc chú ý của trẻ. Đặc biệt các đường 
hiện đơn giản nhất là những cử động trong bụng và nét giai điệu hay sẽ khiến trẻ tập trung hơn, sự hứng thú 
chính người mẹ có thể thấy khá rõ điều này. cũng rõ ràng hơn rất nhiều. Trẻ thường thể hiện sự cảm 
 Khả năng của trẻ từ 0-3 tuổi có thể cảm nhận được nhịp nhận đó thông qua những phản ứng, cử chỉ thích thú 
điệu ổn định. Khi cho nghe những bản nhạc có tiết tấu vui nhưng biểu hiện này chỉ mới đánh giá về mặt bản năng. 
nhộn thì biểu hiện của trẻ là cười và cử động tay, chân vô Trẻ từ 3-5 tuổi có thể nhận biết được các giai điệu 
thức liên tục theo tiết tấu một cách vô cùng hào hứng. đơn giản dựa trên sự thay đổi trật tự các âm thanh. Ở độ 
 Trẻ 3-5 tuổi có thể cảm nhận được nhiều dạng tiết tấu tuổi này trẻ bắt đầu có những biểu hiện theo cách riêng 
ở những nhịp điệu đơn giản. Trẻ có thể phân biệt được của chúng. Có trẻ nhún nhảy, hào hứng vỗ tay theo điệu 
các dạng tiết tấu khác nhau, có thể phân loại các dạng tiết nhạc một cách tự phát nhưng cũng có trẻ lại tập trung và 
tấu nhanh, chậm, vừa dựa theo nhịp điệu của bản nhạc. có ý thức hơn nhắm vào đường nét giai điệu để hát nhẩm 
 Biểu hiện đầu tiên khi lắng nghe những bản nhạc có theo một cách chính xác. Sự cảm thụ âm nhạc còn biểu 
tiết tấu chậm là trẻ rất cách chăm chú sau đó trẻ chỉ đu hiện ở việc trẻ muốn nghe nhạc gì? Ví dụ có những bài 
đưa người nhẹ nhàng theo tiết tấu hoặc nhịp. Còn bản hát trẻ thích và muốn nghe thường xuyên nhưng có 
nhạc sôi động bé bắt đầu nhún nhảy, lắc lư theo nhạc mặc những bài hát trẻ không hề muốn nghe. Điều này càng 
dù không ai tác động. Điều này cho thấy trẻ đã có khả khẳng định trẻ có cảm xúc, cảm nhận khá rõ ràng đối với 
năng cảm nhận và phân biệt các dạng tiết tấu khác nhau âm nhạc. 
đặc biệt là những tiết tấu vui tươi sôi động. Ngoài sự cảm nhận và thực hiện những giai điệu đơn 
 Đối với trẻ trên 5 tuổi các biểu hiện về sự cảm nhận giản (chỉ có 3-5 nốt), có những trẻ có cảm nhận và ghi 
tốt hơn rất nhiều. Độ tuổi này có nhu cầu cảm nhận các nhớ những giai điệu dài hơn. 
 Còn trẻ 5 tuổi trở lên có thế nhớ được nét giai điệu 
bài hát, các bản nhạc có tiết tấu phức tạp hơn từ đó chúng 
và muốn thực hiện vỗ tay, giậm chân hoặc gõ theo những dài hay câu nhạc dài. Trẻ thường thích nghe một câu nhạc 
loại tiết tấu phức tạp đó. hay một đoạn nhạc hoàn chỉnh bởi điều đó sẽ giúp cho 
 Đối với trẻ có năng khiếu, việc thực hiện các bài tập về việc ghi nhớ dễ dàng và trọn vẹn hơn. Trẻ có thể cảm 
tiết tấu của chuyên ngành âm nhạc thường là khá tốt. Đây nhận phân biệt được tính chất âm nhạc khác nhau của 
sẽ là cơ sở phát hiện ra những trẻ có khả năng về âm nhạc mỗi giai điệu như: giai điệu vui tươi, náo nhiệt, giai điệu 
để kịp thời bồi dưỡng, đào tạo theo hướng chuyên nghiệp. nhẹ nhàng sâu lắng và đa phần là trẻ thích những giai 
2.1.4. Giai điệu điệu, bài hát có tiết tấu vui hoạt, sôi nổi. 
 Giai điệu là sự nối tiếp các âm thanh thành một bè có Giai điệu cũng là một trong những yếu tố để xác định 
tổ chức về phương diện điệu thức, tiết nhịp, tiết tấu. mức độ năng khiếu, khả năng về âm nhạc của trẻ. Nếu 
 Giai điệu chính là hình thức biểu hiện cao nhất của trẻ có khả năng ghi nhớ và nhẩm lại những giai điệu ấy 
cao độ kết hợp với tiết tấu (gồm nhiều âm thanh kết hợp một cách chính xác thì trẻ được đánh giá là có năng khiếu 
với nhau). Nội dung âm nhạc có thể được thể hiện bằng về âm nhạc. 
một giai điệu, một ý nhạc hoàn chỉnh giống với sự hoàn 2.1.5 Cường độ 
chỉnh của một câu, đoạn trong văn học. Vì vậy mà đường Cường độ (độ mạnh) là độ to nhỏ của âm thanh phụ 
nét giai điệu là yếu tố thu hút nhiều sự chú ý nhất của thuộc vào tầm cữ của nguồn phát âm (biên độ dao động 
những người nghe nhạc. Rất nhiều thí nghiệm đã cho càng lớn thì âm thanh càng to và ngược lại). 
thấy khả năng nhận biết đường nét giai điệu ở trẻ. Trẻ có Một bản nhạc không phải lúc nào cũng đều đặn một 
thể nhận ra khi một giai điệu thay đổi đường nét (ví dụ mức độ mà luôn có sự thay đổi về cường độ và cũng không 
giai điệu đi lên thay vì đi xuống) vì thế trẻ có thể nhớ một chỉ đơn giản là to và nhỏ. Mặt biểu hiện cao nhất của 
nét giai điệu hoàn chỉnh như người lớn. Các nhà khoa trường độ trong âm nhạc còn gọi là sắc thái. Sắc thái thể 
học cũng chú ý rất nhiều đến mối liên hệ giữa ngôn ngữ hiện rõ tính chất âm nhạc mềm mại hay mạnh mẽ, gay gắt 
và âm nhạc, bởi lời nói bổng trầm cũng có những đặc tính hay sâu lắng Trẻ có thể nhận biết âm thanh to, nhỏ khi 
về đường nét giai điệu và tiết tấu như âm nhạc. Càng phát ra điều này biểu hiện khá rõ nét ở các bản nhạc cổ 
được tiếp xúc nhiều với ngôn ngữ, lời nói có vần điệu thì điển, khi được nghe trẻ sẽ nhận biết một cách rõ ràng. 
càng tăng khả năng cảm nhận đường nét giai điệu trong Hầu hết trẻ đều có những cảm nhận về độ mạnh nhẹ 
âm nhạc. Sự cảm nhận về đường nét giai điệu phụ thuộc của âm thanh, điều này thể hiện rõ trong cách hát của trẻ, 
 69 
 VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 12/2017, tr 67-70; 96 
lúc trẻ hát to nhưng có chỗ trẻ hát nhỏ tùy thuộc vào từng quan trọng không thể thiếu để cấu thành nên âm nhạc, 
bài hát cụ thể. Thông thường, khi nghe nhạc, những âm giúp âm trẻ có thể nhớ một nét giai điệu, một câu nhạc 
thanh to, mạnh mẽ đều tạo nên sự tập trung đối với trẻ, hay một đoạn nhạc nào đó trong việc cảm thụ âm nhạc 
chúng không những thích nghe những âm thanh to mà và sự phức tạp của hòa âm cũng là những tiêu chí để nhận 
còn cố tình tạo ra những âm thanh ấy nhằm thỏa mãn ý biết trẻ có năng khiếu. 
thích của mình nhằm tạo chú ý và hưởng của người khác. Đối với trẻ trong giai đoạn đầu của cảm thụ âm nhạc 
2.2. Một số yếu tố phức tạp hơn mà trẻ có thể nhận biết thì hòa âm là một khái niệm rất xa vời, tuy nhiên trẻ vẫn 
2.2.1. Âm sắc có thể cảm nhận, phân biệt được sự pha trộn của các âm 
 Âm sắc là màu sắc của âm thanh. Màu sắc ở đây là thanh là mềm mại, hòa hợp hay gay gắt căng thẳng 
sự trong, đục, khàn gay gắt, êm dịu, chói tai... của âm Mặt biểu hiện dễ thấy nhất của hòa âm đó chính là 
thanh. Mỗi nhạc cụ, mỗi vật phát âm đều có âm sắc khác phần đệm của một giai điệu hay bài hát nào đó. Trẻ nghe 
nhau dù là có cùng một cao độ. Âm sắc thể hiện ngay 
 giai điệu đơn lẻ (1 bè) cũng đã có những cảm nhận và 
trong giọng người phân biệt đơn giản là giọng nam - nữ. 
 thích nhưng khi đưa phần đệm vào nét giai điệu ấy thì trẻ 
Giọng nữ lại chia thành các loại cơ bản cao, vừa 
 sẽ cảm thấy hứng thú hơn rất nhiều, đặc biệt là những 
(Soprano, Mezzo soprano, Anto); giọng nam cũng chia 
 giai điệu có phần đệm tươi vui hoạt bát. 
cơ bản thành cao, trung, trầm (terno, baritone, bass). 
 Phức tạp hơn cả là màu sắc các nhạc cụ khi diễn tả Âm hưởng vang lên trẻ có thể thấy được cái hay của 
bằng lời không thể diễn đạt hết được mà chỉ có thể thông âm nhạc dù chưa hiểu biết gì nhiều nhưng sẽ là nguồn 
qua việc nghe để phân biệt các loại nhạc cụ Ví dụ, tiếng kích thích sự hứng thú, đam mê khiến chúng muốn tiếp 
kèn tiếng sáo, các loại đàn dây, các loại nhạc cụ gõ cận môn âm nhạc nhiều hơn. Biểu hiện đơn giản nhất khi 
 Trẻ từ 0-3 tuổi cũng đã có những cảm nhận về âm sắc cho trẻ nghe các hợp âm thông qua nhạc cụ đàn phím đó 
ở mức độ đơn giản đó là trẻ có thể phân biệt được giọng là làm chúng thấy hay, dễ chịu, hay các hợp âm sẽ khiến 
nói của người thân trong gia đình: Ông, bà, cha, mẹ; trẻ thấy chói tai nhưng sẽ vẫn thấy thích thú. 
hay trẻ có thể nhận biết tiếng kêu của các con vật: chim, Các yếu tố này là những yếu tố cơ bản nhất trong quá 
chó, mèo, gà trình cảm nhận âm nhạc. Những nhận thức ở cấp độ cao 
 Trẻ từ 3-5 tuổi thì biểu hiện cao hơn, đó là sự phân hơn như về thang âm, điệu thức, giọng, hòa âm thông 
biệt được giọng nam hay nữ, giọng cao hay thấp. thường không có được ở trẻ nhỏ. Phần lớn trẻ em dưới 5 
 Cả hai độ tuổi trên chưa có sự cảm nhận rõ nét về âm tuổi khó có thể hát chuẩn xác trong một giọng ổn định 
sắc của các nhạc cụ. hoặc phân biệt các giai điệu ở một giọng. Tuy nhiên, vẫn 
 Trẻ từ 5 tuổi trở lên thì ngoài sự phân biệt về giọng có một số ít trẻ đặc biệt có thể thực hiện khá tốt và thậm 
người và tiếng kêu của các loài vật, trẻ bước đầu có thể chí là rất nhạy cảm với các âm thanh. 
nhận biết được một số loại nhạc cụ quen thuộc và âm sắc Người lớn mới có thể nghe được các chuyển biến về 
của nhạc cụ ấy. Tuy nhiên điều này phần lớn phụ thuộc hòa âm trong một bản nhạc nên phải đến khoảng bảy tuổi 
vào vốn hiểu biết cũng như việc tiếp xúc của trẻ về các trở lên, trẻ mới có khả năng này. Như vậy, để phát triển 
loại nhạc cụ ấy. khả năng nhận thức những yếu tố này, trẻ cần một thời 
 Qua các bài tập thử nghiệm trên trẻ, chúng tôi nhận gian nghe và tiếp xúc nhiều với âm nhạc. Các vấn đề như 
thấy nhìn chung các em có thể nhận và phân biệt một số điệu thức, giọng, hòa âm đều là những khái niệm khó 
nhạc cụ khi được giới thiệu (điều này đôi khi cũng tùy hiểu nên việc cần được tiếp xúc nhiều thông qua học tập 
thuộc vào trí nhớ của trẻ); mức độ khó dần với những trẻ trẻ sẽ dần hiểu và cảm nhận tốt hơn về các hình thức biểu 
lớn hơn, khi đã có nhiều “trải nghiệm” hơn. hiện của âm nhạc. 
2.2.2. Hòa âm 
 Hòa âm là sự kết hợp các âm thành chồng âm và có 3. Kết luận 
 Ở Việt Nam, các lớp cảm thụ âm nhạc không còn là 
sự liên hệ nối tiếp nhau có quy luật của các chồng âm đó. 
 mới mẻ, nhưng các bậc phụ huynh vẫn chưa thực sự quan 
Nói tóm lại, hòa âm là môn học nghiên cứu về sự cấu tạo 
 tâm, chú ý đến khả năng của con mình. Không đơn thuần 
và nối tiếp của các hợp âm theo một quy luật nhất định. 
 là một lớp năng khiếu, một sân chơi lành mạnh cho trẻ 
Hòa âm “chắp cánh” cho giai điệu thêm bay bổng, tăng 
 mà nó còn giúp ích rất nhiều cho việc phát triển trí tuệ 
hiệu quả diễn đạt cho giai điệu. Nếu không có hòa âm 
 của các con. 
giai điệu chỉ là một câu nhạc đơn giản, đơn lẻ mà khó có 
hấp dẫn được người nghe. Vì vậy, hòa âm là một yếu (Xem tiếp trang 96)
 70 
 VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 12/2017, tr 92-96 
giai đoạn; được khuyến khích nêu lên các ý tưởng để cải MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CẢM THỤ 
thiện những mặt còn hạn chế của sản phẩm. SV nắm được 
quy tắc đánh giá trên cơ sở tôn trọng bạn, góp ý và nhận (Tiếp theo trang 70) 
xét trên tinh thần xây dựng để thực hiện tốt hơn ở lần sau. 
NL đánh giá của SV được đánh giá bằng điểm số. Nên chăng chúng ta cần có cách nhìn khác để các bé 
 - NL phát triển bản thân: Thông qua các dự án, SV thể được thỏa sức sáng tạo và phát triển trí tưởng tượng 
hiện được khả năng sáng tạo của mình, tự cập nhật kiến phong phú của mình đối với nghệ thuật nhất là âm nhạc. 
thức về một số lĩnh vực môi trường, nghệ thuật, giáo dục Thành công của việc cho trẻ cảm thụ âm nhạc là giúp trẻ 
môi trường và vận dụng các kiến thức đó vào nhiệm vụ có một tình yêu đối với âm nhạc, thẩm mĩ âm nhạc. Cảm 
xây dựng chương trình nghệ thuật vì môi trường, phân tích 
 thụ âm nhạc là bước khởi đầu hiệu quả trong việc tạo ra 
vấn đề môi trường. Nhờ đó, SV lĩnh hội được những kiến 
thức, kĩ năng nhất định trong việc tổ chức hoạt động giáo những điều kiện tốt nhất để trẻ có thể tiếp xúc, lĩnh hội 
dục môi trường cho trẻ mầm non, biết trình bày một vấn những tri thức, tinh hoa văn hóa của thế giới. 
đề về môi trường, có trách nhiệm với việc tuyên truyền, Trẻ thơ rất nhạy cảm với âm nhạc, ngay ở lứa tuổi 
giáo dục môi trường cho thế hệ trẻ và cho cộng đồng. mẫu giáo, trẻ đã biết cảm thụ và thích thú với những 
3. Kết luận hoạt động mang tính nghệ thuật, đặc biệt là âm nhạc. 
 bởi đó là một thế giới kì diệu đầy cảm xúc. Thông qua 
 Vận dụng DHDA trong dạy học học phần “Giáo dục 
 các hoạt động âm nhạc, trẻ phát triển nhạc cảm, mở 
bảo vệ môi trường cho trẻ mầm non” có thể giải quyết rộng nhận thức về thế giới xung quanh, phát triển các 
hiệu quả vấn đề môi trường cho SV. Kết thúc dự án, SV 
 kĩ năng vận động, phát triển kĩ năng nghe và cải thiện 
có thể xây dựng một sản phẩm vật chất hoặc trí tuệ, đưa 
 kĩ năng giao tiếp 
ra chủ đề mới hoặc hướng triển khai mới cho dự án đã có 
 Âm nhạc không chỉ giúp trẻ phát triển trí thông 
để tiếp tục thực hiện những dự án tiếp theo. Qua đó, SV 
 minh, khích lệ tư duy sáng tạo, tăng khả năng cảm nhận 
có thể áp dụng phương pháp DHDA trong việc giáo dục tinh tế những nét đẹp trong cuộc sống mà còn giúp trẻ 
trẻ mầm non bảo vệ môi trường và phát triển được một 
 bộc lộ cảm xúc của mình với thế giới xung quanh. Âm 
số NL cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp sau này. 
 nhạc có sức ảnh hưởng lớn đến đời sống con người nói 
 chung trẻ nhỏ nói riêng, vì vậy các bậc phụ huynh, 
Tài liệu tham khảo những người làm công tác giáo dục âm nhạc cần phải 
[1] Noémi Szállassy (2008). Project Method, As One of quan tâm nhiều hơn nữa để trẻ được phát triển một cách 
 The Basic Methods of Environmental Education. toàn diện hơn. 
 Acta Didactica Napocensia, Vol.1, No.2, Babes-
 Bolyai University, Cluj - Napoca, Romania. 
[2] Trịnh Văn Biều - Phan Đồng Châu Thủy - Trịnh Lê 
 Tài liệu tham khảo 
 Hồng Phương (2011). Dạy học dự án - Từ lí luận 
 đến thực tiễn. Tạp chí Khoa học, số 28, Trường Đại [1] Ngô Thị Nam - Phạm Thị Hòa (2008). Giáo dục âm 
 học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh. nhạc (tập 1,2). NXB Giáo dục 
[3] Hoàng Thị Phương (2014). Giáo trình giáo dục môi [2] Hoàng Hoa (2008). Giáo trình Hòa âm ứng dụng. 
 trường cho trẻ mầm non. NXB Đại học Sư phạm. NXB Đại học Sư phạm 
[4] Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (2014). Chương [3] Phạm Tú Hương (2004). Lí thuyết âm nhạc cơ bản. 
 trình chi tiết giáo dục đại học (theo học chế tín chỉ), 
 NXB Đại học Sư phạm. 
 ngành đào tạo: Giáo viên mầm non - Hệ chính quy 
 [4] Hoàng Phê (chủ biên, 1994). Từ điển tiếng Việt. NXB 
 (Tài liệu lưu hành nội bộ). 
[5] Michael Knoll (2014). Project Method. In: Khoa học xã hội - Trung tâm Từ điển học Hà Nội. 
 Encyclopedia of Educational Theory and [5] Nhiều tác giả (1993). Phát hiện, đào tạo bồi dưỡng 
 Philosophy, ED: D. C. Phillips, Thousend Oaks, năng khiếu, tài năng văn hóa nghệ thuật. NXB Văn 
 CA: Sage (2014), pp 665-669. hóa - Thông tin. 
[6] Đỗ Hương Trà (chủ biên, 2015). Dạy học tích hợp [6] Hồng Đăng (1972). Các nhạc khí trong dàn nhạc 
 phát triển năng lực học sinh (Quyển 1 -Khoa học tự giao hưởng. NXB Văn hóa. 
 nhiên). NXB Đại học Sư phạm. [7] Nguyễn Thị Ánh Tuyết (chủ biên, 2013). Giáo trình 
[7] Đinh Văn Vang (2009). Giáo trình tổ chức hoạt động Tâm lí học trẻ em lứa tuổi mầm non. NXB Đại học 
 vui chơi cho trẻ mầm non. NXB Giáo dục Việt Nam. Sư phạm.
 96 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_van_de_ve_cam_thu_am_nhac_cua_tre.pdf