Một số nội dung cơ bản về giáo dục ý thức nghề nghiệp cho học sinh trung cấp nghề ở nước ta hiện nay
Giáo dục ý thức nghề nghiệp (YTNN) cho học sinh (HS) trung cấp nghề hiện nay là giúp các em có được nhận
thức đúng đắn, biểu hiện bằng thái độ, hành động trong nghề nghiệp của mình. Các nhà khoa học cũng như các nhà
quản lí nhân sự ở nước ta thời gian qua đã dự báo tình trạng “thừa thầy kém, thiếu thợ giỏi” và đã có những giải pháp
để khắc phục. Nhưng cho đến nay, theo kết quả điều tra xã hội học của các Trung tâm hướng nghiệp giáo dục thì số
lượng những HS phổ thông lựa chọn con đường học nghề còn rất thấp, hầu hết nguyện vọng của các em là học lên
đại học; khi không vào được đại học, các em mới chuyển sang học nghề. Tuy nhiên, dù đã học nghề nhưng một số
em vẫn chưa yên tâm với tương lai của mình. Do đó, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng
sản Việt Nam đã chỉ rõ: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt
Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế
quản lí giáo dục Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng dạy nghề và giáo dục chuyên nghiệp, phát triển đội ngũ
giáo viên và cán bộ quản lí là khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng GD-ĐT, coi trọng giáo dục đạo đức,
lối sống, năng lực sáng tạo, kĩ năng thực hành, khả năng lập nghiệp” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, tr 51-52).
Hiện nay, dạy nghề ở Việt Nam đang chuyển mạnh từ đào tạo chủ yếu “cung” sang đào tạo theo “cầu” của thị
trường lao động trong nước, đồng thời tăng sức cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế. Mỗi năm, có hàng nghìn
HS, sinh viên học nghề ra trường đóng góp năng lực, trí tuệ của mình vào công cuộc đổi mới đất nước. Tuy nhiên,
trong xu hướng toàn cầu hoá, điều kiện để nguồn nhân lực Việt Nam tham gia vào thị trường lao động là những
chuẩn mực về giá trị lao động, đặc biệt là YTNN, trình độ chuyên môn kĩ thuật - công nghệ, đạo đức nghề nghiệp
cũng như cách ứng xử với tập thể và quan hệ của người lao động với sản phẩm làm ra. Đây vừa là cơ hội, vừa là thử
thách đối với người lao động Việt Nam.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số nội dung cơ bản về giáo dục ý thức nghề nghiệp cho học sinh trung cấp nghề ở nước ta hiện nay
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 490 (Kì 2 - 11/2020), tr 8-13 ISSN: 2354-0753 8 MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ GIÁO DỤC Ý THỨC NGHỀ NGHIỆP CHO HỌC SINH TRUNG CẤP NGHỀ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY Nguyễn Đình Tú Trường Trung cấp Kinh tế - Kỹ thuật Nguyễn Hữu Cảnh, Thành phố Hồ Chí Minh Email: ndtu@tech-nhc.edu.vn Article History Received: 10/8/2020 Accepted: 16/9/2020 Published: 20/11/2020 Keywords legal awareness, vocational intermediate, career consciousness, student, practical skills. ABSTRACT Career conscious education for students in vocational secondary schools is now a very important content in our Party's human education-training strategy. The article focuses on researching the main contents of career awareness education for vocational secondary school students in the current context, specifically educating the sense of law observance; industrial style education; educating a sense of responsibility and progressive spirit; educating the sense of labor discipline and learning; training skills for students... The above contents will help students of vocational secondary schools raise awareness, creative thinking capacity, fostering a sense of careers for students; educate them to love the job; have solid morality and bravery; have creative thinking and good practice capacity; have integration skills and a sense to rise up in study, practice to establish a body, establish a career; always active, acutely absorbing new scientific knowledge, contributing to bringing the country more and more quickly into the path of world economic integration. 1. Mở đầu Giáo dục ý thức nghề nghiệp (YTNN) cho học sinh (HS) trung cấp nghề hiện nay là giúp các em có được nhận thức đúng đắn, biểu hiện bằng thái độ, hành động trong nghề nghiệp của mình. Các nhà khoa học cũng như các nhà quản lí nhân sự ở nước ta thời gian qua đã dự báo tình trạng “thừa thầy kém, thiếu thợ giỏi” và đã có những giải pháp để khắc phục. Nhưng cho đến nay, theo kết quả điều tra xã hội học của các Trung tâm hướng nghiệp giáo dục thì số lượng những HS phổ thông lựa chọn con đường học nghề còn rất thấp, hầu hết nguyện vọng của các em là học lên đại học; khi không vào được đại học, các em mới chuyển sang học nghề. Tuy nhiên, dù đã học nghề nhưng một số em vẫn chưa yên tâm với tương lai của mình. Do đó, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lí giáo dục Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng dạy nghề và giáo dục chuyên nghiệp, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lí là khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng GD-ĐT, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kĩ năng thực hành, khả năng lập nghiệp” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, tr 51-52). Hiện nay, dạy nghề ở Việt Nam đang chuyển mạnh từ đào tạo chủ yếu “cung” sang đào tạo theo “cầu” của thị trường lao động trong nước, đồng thời tăng sức cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế. Mỗi năm, có hàng nghìn HS, sinh viên học nghề ra trường đóng góp năng lực, trí tuệ của mình vào công cuộc đổi mới đất nước. Tuy nhiên, trong xu hướng toàn cầu hoá, điều kiện để nguồn nhân lực Việt Nam tham gia vào thị trường lao động là những chuẩn mực về giá trị lao động, đặc biệt là YTNN, trình độ chuyên môn kĩ thuật - công nghệ, đạo đức nghề nghiệp cũng như cách ứng xử với tập thể và quan hệ của người lao động với sản phẩm làm ra. Đây vừa là cơ hội, vừa là thử thách đối với người lao động Việt Nam. Sau hơn 30 năm đổi mới, đất nước đã đạt được nhiều thành tựu trên tất cả các lĩnh vực. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường trong quá trình hội nhập đã gây ra những mặt trái đối với xã hội Việt Nam, như: lối sống thực dụng, thờ ơ, vô cảm, xa hoa, lãng phí và kéo theo nhiều tệ nạn xã hội khác. Đặc biệt đối với thế hệ trẻ, đã xuất hiện sự sa sút về YTNN. Bên cạnh những HS, sinh viên siêng năng, cần cù, sáng tạo, sống có hoài bão, lí tưởng nghề nghiệp thì vẫn còn không ít các em tỏ ra thờ ơ, ăn chơi, đua đòi, hưởng thụ, lười nhác, sống dựa dẫm... Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đưa ra những hoạch định: “Đẩy mạnh dạy nghề và gắn kết đào tạo với doanh nghiệp. Phân cấp quản lí hợp lí trong đào tạo nghề. Quan tâm phát triển giáo dục, dạy nghề trong đồng bào dân tộc thiểu VJE Tạp chí Giáo dục, Số 490 (Kì 2 - 11/2020), tr 8-13 ISSN: 2354-0753 9 số và các vùng khó khăn. Đẩy mạnh đào tạo nghề theo nhu cầu phát triển của xã hội; có cơ chế và chính sách thiết lập mối liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp với cơ sở đào tạo...” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, tr 296-297). Cùng với đó, chất lượng lao động nghề còn thấp, chưa ngang tầm khu vực, chưa đáp ứng được nhu cầu của CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế; vẫn còn khoảng cách giữa trình độ tay nghề ... Những người có tác phong công nghiệp đều biết rõ công việc mà họ phải làm, phải hoàn thành trong ngày và việc gì phải làm trước, việc gì phải làm sau. - Tính thân thiện với mọi người dựa trên các quan hệ hợp tác và phân công: Trong công việc cần phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa hợp tác và phân công. Ngày nay, hầu hết các công việc đều cần phải có sự hợp tác, cùng làm của nhiều người, nhiều tổ chức. Hợp tác đang là xu hướng nổi trội; đối với tập thể hay gia đình, người có tác VJE Tạp chí Giáo dục, Số 490 (Kì 2 - 11/2020), tr 8-13 ISSN: 2354-0753 11 phong công nghiệp phải biết nhìn nhận mọi người với con mắt phân công và hợp tác trong mọi vấn đề. Theo đó, họ dễ thân thiện, đoàn kết, phối hợp với nhau trên cơ sở khách quan hơn là kiểu tình cảm cá nhân, kéo bè kéo cánh, cục bộ, chia rẽ... - Đánh giá con người chủ yếu dựa trên kết quả công việc: Kết quả công việc luôn là thước đo về tính chuyên nghiệp của người lao động. Nếu có thái độ làm việc tận tâm, tận lực; làm việc với tinh thần tự giác, thực sự yêu nghề sẽ giúp cho người lao động quên đi mệt nhọc, tránh được sự đố kị và những suy nghĩ tiêu cực. Họ sẽ có được những niềm vui và luôn hoàn thành tốt công việc; biết quý trọng, học tập người nào có sáng kiến, cải tiến hợp lí hóa sản xuất, làm cho lao động và cuộc sống nhẹ nhàng, thảnh thơi hơn mà năng suất cao, hiệu quả hơn. Như vậy, giáo dục tác phong công nghiệp là giáo dục cho người học tính khẩn trương, năng động; tính kế hoạch và hợp lí hóa; tính trách nhiệm, kỉ luật và tôn trọng luật pháp ngay khi còn học ở ghế nhà trường, nhất là các trường đào tạo nghề. Để thực hiện có hiệu quả công tác giáo dục tác phong công nghiệp, chúng ta có thể tập trung vào những việc sau đây: Nhà trường (gồm cả phổ thông và chuyên nghiệp, dạy nghề) phải duy trì nghiêm nội quy, kỉ luật, chú trọng xây dựng và giáo dục nền nếp, tác phong cho HS; xây dựng và đưa nội dung giáo dục tác phong công nghiệp trước khi giới thiệu việc làm cho các em. Do vậy, việc giáo dục tác phong công nghiệp cho người lao động cũng như sinh viên, HS là nhu cầu rất cần thiết. 2.2.3. Giáo dục ý thức trách nhiệm và tinh thần cầu tiến Giáo dục ý thức trách nhiệm và tinh thần cầu tiến là một trong những nội dung của giáo dục YTNN cho HS. Hiện nay, khi đất nước đang tiến nhanh vào thời kì hội nhập trên con đường CNH, HĐH thì việc giáo dục ý thức trách nhiệm và tinh thần cầu tiến cho những lao động tương lai lại càng trở nên cấp thiết hơn. Nội dung này rất quan trọng, giúp người lao động có khả năng thích ứng với bất kì sự thay đổi nào trong môi trường công việc của mình. Sự thích nghi nhanh với mọi hoàn cảnh trong học tập, làm việc cũng là một trong những thể hiện của tính chuyên nghiệp. Vì vậy, chúng ta nên chủ động chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết để người lao động có thể hội nhập với môi trường làm việc năng động và hiện đại như ngày nay. Người có ý thức trách nhiệm và tinh thần cầu tiến là người thường xuyên học tập, tu dưỡng, rèn luyện, tự hoàn thiện bản thân; có tinh thần cố gắng vươn lên; tích cực nắm bắt, cập nhật kịp thời, cải tiến phương pháp làm việc; chủ động xây dựng kế hoạch làm việc rõ ràng, cụ thể; rèn luyện lối làm việc nghiêm túc và có trách nhiệm để thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Do vậy, giáo dục ý thức trách nhiệm và tinh thần cầu tiến cho HS thể hiện qua việc giáo dục ý thức chấp hành nội quy nhà trường, ý thức về những việc làm của mình và sẵn sàng chịu trách nhiệm trước tập thể; luôn nêu cao tinh thần học hỏi, nghiên cứu độc lập, sáng tạo, mạnh dạn tham gia các hoạt động, tham gia hợp tác và phân công công việc, luôn hoàn thành nhiệm vụ được giao. Ngược lại, sự thiếu trách nhiệm của người lao động sẽ kéo theo cách làm việc qua loa, cẩu thả, có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Vì thế, không một nhà quản lí doanh nghiệp nào chấp nhận một nhân viên có ý thức trách nhiệm kém, bảo thủ và không có tinh thần cầu tiến. 2.2.4. Giáo dục ý thức kỉ luật lao động, học tập Theo quy định tại Điều 118, Bộ Luật Lao động: “Kỉ luật lao động là những quy định về việc tuân theo thời gian, công nghệ và điều hành sản xuất, kinh doanh thể hiện trong nội quy lao động” (Quốc hội, 2012). Là một chế định của Bộ Luật Lao động, chế độ kỉ luật lao động là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định nghĩa vụ, trách nhiệm của người lao động và người sử dụng lao động đối với doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức; quy định những biện pháp khuyến khích người lao động gương mẫu chấp hành cũng như những hình thức xử lí đối với người không chấp hành hoặc chấp hành không đầy đủ những nghĩa vụ, trách nhiệm đó. Quá trình lao động của con người đòi hỏi phải có trật tự, nền nếp để hướng hoạt động của từng người vào việc thực hiện kế hoạch chung và tạo ra kết quả chung đã định và điều đó phải thông qua kỉ luật lao động. Với ý nghĩa này, kỉ luật lao động càng trở nên quan trọng. Trong quan hệ lao động, xét về góc độ pháp lí và quản lí, kỉ luật lao động là yếu tố không thể thiếu, vì vậy người lao động phải có nghĩa vụ chấp hành những yêu cầu sau: - Chấp hành thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; - Chấp hành mệnh lệnh điều hành sản xuất, kinh doanh hợp pháp của người sử dụng lao động; - Chấp hành quy trình công nghệ, các quy định về nội quy an toàn lao động và vệ sinh lao động; - Bảo vệ tài sản và giữ bí mật công nghệ, kinh doanh thuộc phạm vi trách nhiệm được giao; - Chấp hành những quy định khác trong nội quy lao động mà người sử dụng lao động đề ra không trái pháp luật. Như vậy, giáo dục kỉ luật lao động là giáo dục những quy tắc làm việc mà trong quan hệ lao động, mỗi người đều phải chấp hành, nhằm đảm bảo trật tự của quá trình sản xuất; còn giáo dục kỉ luật lao động cho HS là giáo dục ý thức VJE Tạp chí Giáo dục, Số 490 (Kì 2 - 11/2020), tr 8-13 ISSN: 2354-0753 12 chấp hành nội quy, những nguyên tắc phân công trong lớp học, trong các giờ thực hành tại xưởng, cung cấp những kiến thức chung về an toàn lao động, vệ sinh lao động, bảo vệ tài sản nhà trường. 2.2.5. Rèn luyện các kĩ năng Đất nước ta đang trong giai đoạn tiến hành CNH, HĐH với xu thế hội nhập kinh tế thế giới, nên đòi hỏi phải có nguồn nhân lực được đào tạo tốt; một đội ngũ lao động có chuyên môn vững, tay nghề cao nhằm cung cấp cán bộ, lao động kĩ thuật cho các lĩnh vực sản xuất. Theo đó, các doanh nghiệp trong và ngoài nước hiện nay đang rất cần tuyển dụng một số lượng lớn lao động được đào tạo từ các trường chuyên nghiệp, dạy nghề. Tuy nhiên, có một thực tế là nhiều HS khi ra trường không xin được việc làm, một số phải làm việc trái ngành nghề hoặc đi làm được một thời gian rồi bị sa thải. Nguyên nhân chính là do họ yếu về chuyên môn, kém về kĩ năng, thiếu sự năng động, sáng tạo trong công việc. Do vậy, trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực, nếu người học không tự đào sâu nghiên cứu; không tự rèn luyện thêm các kĩ năng: tư duy, ứng xử, giao tiếp, hành động và không trau dồi thêm Tin học, Ngoại ngữ thì sẽ rất khó khăn trong việc ổn định nghề nghiệp cho bản thân. Để giúp HS có khả năng đáp ứng đầy đủ những tiêu chuẩn mà nhu cầu nghề nghiệp đòi hỏi trong tình hình hiện nay, các trường cần đưa ra những kĩ năng tự đào tạo, rèn luyện cho các em như sau: - Kĩ năng tư duy sáng tạo là khả năng nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, nhận biết vấn đề. Đây còn là khả năng hiểu được nguyên nhân, hiểu được tính logic, tính hệ thống khi xem xét, nghiên cứu vấn đề cần được xử lí, từ đó giải quyết nhiệm vụ một cách linh hoạt, sáng tạo, thích hợp với từng hoàn cảnh, điều kiện trong thực tiễn. Thông qua tư duy sáng tạo, HS có thể lĩnh hội kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo; đồng thời, làm cho hoạt động tư duy thêm linh hoạt, mềm dẻo. Nhờ vậy, HS có năng lực thích ứng cao trong quá trình lĩnh hội và vận dụng tri thức vào các tình huống mới muôn màu, muôn vẻ trong thực tiễn nghề nghiệp tương lai. Hơn thế nữa, đây phải là nguồn nhân lực tư duy sáng tạo; có khả năng tạo nghiệp; có tính đa năng, đa dạng và tính thích ứng cao; có sự tự chủ, năng động, trách nhiệm, sáng tạo, biết giao tiếp Ngày nay, việc rèn luyện kĩ năng tư duy sáng tạo cho HS trong các trường, đặc biệt là trường dạy nghề đã trở thành một trong những điều kiện cần thiết, góp phần làm cho khả năng tiếp thu và vận dụng tri thức của các em càng trở nên nhanh chóng, chính xác hơn. Chính năng lực tư duy đã tạo nên bản lĩnh trí tuệ của người học trong nền kinh tế tri thức và khả năng tiếp nhận, xử lí các thông tin của quá trình toàn cầu hoá. - Kĩ năng hành động là khả năng của con người biết vận dụng kiến thức vào công việc có hiệu quả; biết ứng dụng sáng tạo những thành tựu của khoa học công nghệ; biết tự tìm, tự tạo việc làm; có kĩ năng tổ chức, quản lí công việc tập thể, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh hợp tác của nền kinh tế nước ta trong thị trường quốc tế. Người có kĩ năng hành động sẽ luôn có tinh thần đồng đội cao, biết làm việc theo nhóm, biết tổ chức, thực hiện công việc chủ động, tự tin, linh hoạt, thành thạo. Vì vậy, họ luôn hoàn thành nhiệm vụ dù trong điều kiện thực tiễn đầy phức tạp, khó khăn. Kĩ năng hành động còn trang bị cho người lao động có sự nhạy cảm đối với nhu cầu và động cơ của công việc; giúp cho họ có được khả năng tự chủ, không để xảy ra sai sót và nếu có thì sẽ sẵn sàng nhận mọi trách nhiệm về mình. Theo đó, giáo dục YTNN cho HS khi đang học tập tại trường là phải tạo cơ hội cho các em phát huy kĩ năng hành động; thường xuyên tổ chức nhiều chương trình sinh hoạt tập thể cũng như các phong trào hoạt động thực tiễn nhằm rèn luyện ý thức, thái độ tích cực, sự tự tin, mạnh dạn trước đám đông cũng như giúp các em có ý thức, sống trách nhiệm hơn. Từ đó, sẽ làm việc năng động, chuyên nghiệp và hiệu quả hơn. - Kĩ năng giao tiếp, ứng xử là một trong những “kĩ năng mềm” cực kì quan trọng, là một tập hợp những quy tắc, nghệ thuật, cách ứng xử, đối đáp được đúc rút qua kinh nghiệm thực tế hằng ngày, nhằm giúp mọi người giao tiếp hiệu quả, thuyết phục hơn. Có thể nói, kĩ năng giao tiếp đã được nâng lên thành nghệ thuật giao tiếp với rất nhiều kĩ năng nhỏ khác, như: lắng nghe, thấu hiểu, sử dụng ngôn ngữ cơ thể, sử dụng ngôn từ, âm điệu, Để có được kĩ năng giao tiếp tốt đòi hỏi người sử dụng phải thực hành thường xuyên, áp dụng vào mọi hoàn cảnh trong cuộc sống. Riêng ở mỗi cá nhân, giao tiếp tốt không chỉ giúp họ chiếm được tình cảm, nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ từ người khác mà còn giúp họ học hỏi, bổ sung được nhiều kinh nghiệm, nắm bắt nhanh các thông tin hữu ích, các cơ hội để thực hiện tốt công việc của mình. Trong giao tiếp, chúng ta thường sử dụng lời nói để biểu đạt ý nghĩ và để trao đổi thông tin với người khác. Nhưng giao tiếp không chỉ đơn giản là nói chuyện với ai đó mà còn bao hàm rất nhiều các vấn đề, như: phải biết lắng nghe, biết phản hồi và đặc biệt là phải có tâm lí thoải mái, luôn bình tĩnh, tự tin. Có như vậy, giao tiếp mới mang lại hiệu quả tốt nhất. Trong nhà trường hiện nay, do quá đặt nặng công tác học tập, trau dồi chuyên môn, tay nghề mà việc rèn luyện kĩ năng giao tiếp, ứng xử cho các em có phần mờ nhạt. - Kĩ năng học và tự học: Trong quá trình học tập, việc xác định mục đích, xây dựng động cơ, lựa chọn phương pháp, hình thức học và tự học hợp lí là cần thiết. Nhưng quan trọng hơn, người học phải có hệ thống kĩ năng học và VJE Tạp chí Giáo dục, Số 490 (Kì 2 - 11/2020), tr 8-13 ISSN: 2354-0753 13 tự học; bởi lẽ, muốn có kĩ năng nghề nghiệp trước hết phải có kĩ năng làm việc độc lập, trên cơ sở phát huy tính tích cực nhận thức để chiếm lĩnh hệ thống tri thức. Như vậy, để hoạt động học tập đạt chất lượng và hiệu quả, HS phải có kĩ năng học và tự học. Chính kĩ năng tự học là điều kiện để người học biến động cơ học tập thành kết quả cụ thể và làm cho các em tự tin vào bản thân, bồi dưỡng và phát triển hứng thú, duy trì tính tích cực nhận thức trong hoạt động tự học, tự nghiên cứu. Kĩ năng học và tự học là việc HS biết lên kế hoạch học tập hợp lí, có phương pháp học tập đúng đắn, học chủ động, tích cực, ở mọi lúc mọi nơi và luôn kiên trì, nhẫn nại để đạt được kết quả tốt. Kĩ năng học và tự học không chỉ quan trọng trong khoảng thời gian ngồi trên ghế nhà trường, mà còn rất cần thiết cho suốt thời gian lao động của cả đời người. Ngày nay, khi thế giới biến đổi quá nhanh, nếu người học không có kĩ năng học và tự học để tiếp thu liên tục những đổi mới này thì các em sẽ tụt hậu. Chất lượng và hiệu quả giáo dục sẽ nâng cao khi và chỉ khi nó tạo ra được năng lực sáng tạo cho người học, biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục. Do đó, việc rèn luyện kĩ năng học và tự học, tự nghiên cứu cho HS trong các trường nghề là rất quan trọng và cần thiết. 3. Kết luận Giáo dục nghề nghiệp cho HS trong các trường dạy nghề nhằm tập trung giúp các em tìm hiểu sâu về nghề, giáo dục lòng yêu nghề, tạo điều kiện để các em nhanh chóng thích ứng với nghề, hào hứng học nghề và an tâm với nghề đã chọn. Ở các trường dạy nghề, HS có cơ hội tìm hiểu sâu hơn về nghề, thử sức với nghề và khẳng định tính đúng đắn của việc chọn nghề. Nhìn chung, giáo dục YTNN giúp cho HS hình thành quan điểm, thái độ đúng đối với lao động; biết quý trọng những công việc có ích cho xã hội, lao động có tổ chức, kỉ luật, năng suất và hiệu quả; cung cấp cho HS học vấn kĩ thuật tổng hợp, những tri thức cơ bản về kinh tế, kinh doanh, phát triển tư duy kĩ thuật hiện đại; định hướng nghề nghiệp, giúp các em biết lựa chọn nghề thích hợp, yêu ngành nghề đã chọn; rèn luyện tốt những kĩ năng, kĩ xảo trong lao động, từ đó góp phần sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội, đất nước. Tài liệu tham khảo Bộ GD-ĐT (2007). Quyết định số 50/2007/QĐ-BGDĐT, ngày 29/8/2007 về công tác giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên trong các đại học, học viện, trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. Hoàng Phê (chủ biên, 2007). Từ điển tiếng Việt. NXB Đà Nẵng. Hội đồng Trung ương (1999). Giáo trình Triết học Mác - Lênin (1999). NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. Nguyễn Khắc Toàn (2020). Thực trạng quản lí hoạt động đào tạo nghề ở Trường Cao đẳng Việt - Đức Nghệ An. Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt kì 1 tháng 5, tr 284-288. Nguyễn Viết Sự (2005). Giáo dục nghề nghiệp - Những vấn đề và giải pháp. NXB Giáo dục. Quốc hội (2005). Luật Giáo dục. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. Quốc hội (2006). Luật Dạy nghề. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. Quốc hội (2012). Bộ Luật Lao động. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. Vũ Tuấn (2019). Thực trạng quản lí đào tạo nghề ở các trường trung cấp ngành Giao thông vận tải đáp ứng nhu cầu xã hội. Tạp chí Giáo dục, số 468, tr 11-17.
File đính kèm:
- mot_so_noi_dung_co_ban_ve_giao_duc_y_thuc_nghe_nghiep_cho_ho.pdf