Một số kết quả thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Tuyên Quang

Việt Nam là quốc gia thống nhất gồm 54 dân tộc

sinh sống, trong đó có 53 dân tộc thiểu số. Hầu hết

các dân tộc thiểu số cư trú trên địa bàn có vị trí chiến

lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc

phòng, an ninh và môi trường sinh thái. Trong tiến

trình hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân

tộc ta, cộng đồng các dân tộc Việt Nam có vai trò đặc

biệt quan trọng, tạo nên sức mạnh to lớn trong sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhận thức rõ

điều đó, trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng và

Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách

phù hợp với thực tiễn đất nước, đảm bảo nguyên tắc

“bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng

phát triển” [1;70].

Tuyên Quang là một tỉnh miền núi nằm ở phía

Bắc Việt Nam. Diện tích đất tự nhiên 5.868 km2.

Tỉnh có 07 đơn vị hành chính cấp huyện, trong đó có

02 huyện nghèo (huyện Na Hang và huyện Lâm

Bình). Dân số toàn tỉnh hơn 784.000 người với 22

dân tộc cùng chung sống, trong đó dân tộc thiểu số

445.504 người, chiếm 56,7%, gồm: dân tộc Tày

chiếm 25,5%, Dao chiếm 12,7%, Sán Chay chiếm

8,7%, Mông 2,3%, Nùng chiếm 1,9%, Sán Dìu chiếm

1,7%, còn lại là các dân tộc khác [3;2]. Những năm

qua, dưới sự chỉ đạo của các cấp ủy đảng và chính

quyền các cấp, tình hình kinh tế - xã hội vùng dân tộc

và miền núi của tỉnh đã có nhiều chuyển biến tích

cực. Nhiều chính sách dân tộc đã được triển khai và

thực hiện có hiệu quả góp phần làm thay đổi đáng kể

diện mạo nông thôn miền núi và vùng đồng bào dân

tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh. Đời sống vật chất và

tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số ngày một

nâng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân từ 3-5%/

năm [3;2].

Một số kết quả thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Tuyên Quang trang 1

Trang 1

Một số kết quả thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Tuyên Quang trang 2

Trang 2

Một số kết quả thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Tuyên Quang trang 3

Trang 3

Một số kết quả thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Tuyên Quang trang 4

Trang 4

Một số kết quả thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Tuyên Quang trang 5

Trang 5

Một số kết quả thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Tuyên Quang trang 6

Trang 6

Một số kết quả thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Tuyên Quang trang 7

Trang 7

pdf 7 trang baonam 10160
Bạn đang xem tài liệu "Một số kết quả thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Tuyên Quang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số kết quả thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Tuyên Quang

Một số kết quả thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Tuyên Quang
No.18_Oct 2020|Số 18 – Tháng 10 năm 2020|p.133-139 DOI: 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO 
ISSN: 2354 - 1431 
MỘT SỐ KẾT QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 
Ở TỈNH TUYÊN QUANG 
Lê Thị Hồng Hạnh1*, Trần Thị Phượng1 
1 Trường Chính trị tỉnh Tuyên Quang 
*
 Email: honghanhtq1987@gmail.com 
Thông tin bài viết Tóm tắt 
Ngày nhận bài: 
28/4/2020 
Ngày duyệt đăng: 
20/9/2020 
 Chính sách dân tộc là một trong những nội dung quan trọng nhằm phát triển kinh 
tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số ở nước ta. Bài viết này tập trung đánh giá những 
kết quả đã đạt được cũng như những tồn tại, hạn chế trong quá trình thực hiện 
chính sách dân tộc ở tỉnh Tuyên Quang, từ đó đề ra giải pháp để nâng cao hiệu 
quả thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang hiện nay. 
Từ khóa: 
dân tộc, chính sách dân 
tộc, tỉnh Tuyên Quang, dân 
tộc thiểu số, vùng dân tộc 
thiểu số. 
1. Đặt vấn đề 
Việt Nam là quốc gia thống nhất gồm 54 dân tộc 
sinh sống, trong đó có 53 dân tộc thiểu số. Hầu hết 
các dân tộc thiểu số cư trú trên địa bàn có vị trí chiến 
lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc 
phòng, an ninh và môi trường sinh thái. Trong tiến 
trình hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân 
tộc ta, cộng đồng các dân tộc Việt Nam có vai trò đặc 
biệt quan trọng, tạo nên sức mạnh to lớn trong sự 
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhận thức rõ 
điều đó, trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng và 
Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách 
phù hợp với thực tiễn đất nước, đảm bảo nguyên tắc 
“bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng 
phát triển” [1;70]. 
Tuyên Quang là một tỉnh miền núi nằm ở phía 
Bắc Việt Nam. Diện tích đất tự nhiên 5.868 km2. 
Tỉnh có 07 đơn vị hành chính cấp huyện, trong đó có 
02 huyện nghèo (huyện Na Hang và huyện Lâm 
Bình). Dân số toàn tỉnh hơn 784.000 người với 22 
dân tộc cùng chung sống, trong đó dân tộc thiểu số 
445.504 người, chiếm 56,7%, gồm: dân tộc Tày 
chiếm 25,5%, Dao chiếm 12,7%, Sán Chay chiếm 
8,7%, Mông 2,3%, Nùng chiếm 1,9%, Sán Dìu chiếm 
1,7%, còn lại là các dân tộc khác [3;2]. Những năm 
qua, dưới sự chỉ đạo của các cấp ủy đảng và chính 
quyền các cấp, tình hình kinh tế - xã hội vùng dân tộc 
và miền núi của tỉnh đã có nhiều chuyển biến tích 
cực. Nhiều chính sách dân tộc đã được triển khai và 
thực hiện có hiệu quả góp phần làm thay đổi đáng kể 
diện mạo nông thôn miền núi và vùng đồng bào dân 
tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh. Đời sống vật chất và 
tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số ngày một 
nâng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân từ 3-5%/ 
năm [3;2]. 
Tuy nhiên, hiện nay “kinh tế - xã hội ở một số địa 
phương có đông đồng bào dân tộc thiểu số trong tỉnh 
chưa phát triển”, “đời sống một bộ phận nhân dân 
vùng sâu, vùng xa còn khó khăn”, “kết cấu hạ tầng 
L.T.H.Hanh et al/ No.18_Oct 2020|p.133-139 
nông thôn ở các xã, thôn, bản vùng sâu, vùng xa còn 
hạn chế”, “chất lượng giáo dục, y tế, văn hóa ở vùng 
dân tộc thiểu số so với mặt bằng chung của tỉnh vẫn 
còn thấp” [3;19]. Thực tiễn đó cho thấy, việc đánh 
giá những kết quả đã đạt được trong thực hiện chính 
sách dân tộc, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm 
nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách dân tộc đang 
là nhiệm vụ cấp bách nhằm phát triển kinh tế - xã hội 
bền vững, đảm bảo ổn định an ninh chính trị ở tỉnh 
Tuyên Quang hiện nay. 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Một số khái niệm 
Chính sách dân tộc 
Hiện nay, khái niệm “chính sách dân tộc” được 
luận giải phong phú và có nhiều cách tiếp cận khác 
nhau. Tuy nhiên, hiểu một cách chung nhất, “chính 
sách dân tộc chính là tổng hợp những quan điểm, 
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước được đề 
ra, tác động trực tiếp đến các dân tộc và quan hệ dân 
tộc” [2;178], qua đó góp phần nâng cao chất lượng 
mọi mặt cho các dân tộc và vùng đồng bào dân tộc ở 
Việt Nam. 
Thực hiện chính sách dân tộc 
“Thực hiện chính sách dân tộc là việc đưa pháp 
luật, chính sách vào cuộc sống trên cơ sở cụ thể hóa 
các Nghị quyết của Đảng, Nhà nước từ khâu hướng 
dẫn, thông tin, phân công trách nhiệm, chuẩn bị các 
điều kiện nguồn lực tài chính, nhân lực cần thiết bảo 
đảm thực hiện đúng mục tiêu, tiến độ theo yêu cầu 
quy định trong chính sách” [2; 178]. 
Chính sách dân tộc là một trong những chính sách 
lớn của Nhà nước ta. Đây cũng là một công cụ quản 
lý nhà nước quan trọng, tác động trực tiếp đến mọi 
mặt đời sống kinh tế, chính trị, xã hội vùng đồng bào 
dân tộc thiểu số. Thực hiện tốt chính sách này góp 
phần duy trì sự ổn định và phát triển vùng đồng bào 
dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Hiện nay, trong bối 
cảnh đất nước ta đang trong quá trình đẩy mạnh công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và tiến hành quá 
trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng thì việc 
thực hiện chính sách dân tộc càng có ý nghĩa quan 
trọng khi nó thực sự đi vào cuộc sống nhằm tạo ra 
bước chuyển biến mới trong phát triển kinh tế - xã 
hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số. 
2.2 Những kết quả  ... 
19/4/2016 và Quyết định số 59/QĐ-Ttg ngày 
16/01/2017 của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, trong 
02 năm 2018 và 2019, tỉnh đã cấp 18 loại báo, tạp chí 
với số lượng 852.227 tờ [4;5], [5; 8]. Nhờ được cấp 
miễn phí các loại báo, tạp chí, đồng bào dân tộc thiểu 
số trên địa bàn tỉnh được cập nhật các thông tin thời 
sự trong tỉnh, trong nước và quốc tế, nắm bắt được 
các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, 
pháp luật của Nhà nước, từ đó chủ động thực hiện 
các chính sách và cảnh giác trước các âm mưu thủ 
đoạn của kẻ thù nhằm lợi dụng phá hoại khối đại 
đoàn kết dân tộc. 
Về thực hiện các chính sách về giáo dục, y tế, 
chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số 
Những năm qua tỉnh đã quan tâm thực hiện việc 
đổi mới công tác dạy và học ở các cấp học, bậc học, 
giữ vững kết quả phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ 
L.T.H.Hanh et al/ No.18_Oct 2020|p.133-139 
tuổi, hoàn thành phổ cập giáo dục cho trẻ mầm non 5 
tuổi. Các chế độ đối với học sinh các trường dân tộc 
nội trú, trường bán trú theo Thông tư liên tịch số 
109/2009/TTLT/BTC-BGDĐT ngày 29/5/2009 liên 
Bộ Tài chính - Giáo dục và Đào tạo được thực hiện 
đầy đủ. Học sinh và trường phổ thông ở xã, thôn, bản 
đặc biệt khó khăn được hỗ trợ theo Nghị định 
116/2016/NĐ-CP ngày 18/7/2016 của Chính phủ; trẻ 
mẫu giáo, học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số ít 
người được hưởng chính sách ưu tiên theo Nghị định 
số 57/2017/NĐ-CP ngày 09/05/2017 của Chính. Đến 
năm 2019, trên địa bàn tỉnh đã có 399 học sinh dân 
tộc rất ít người được hỗ trợ với tổng kinh phí là 3.524 
triệu đồng [3; 9]. Từ nguồn ngân sách tỉnh và hỗ trợ 
từ dự án Hỗ trợ y tế các tỉnh vùng Đông Bắc Bộ và 
Đồng Bằng sông Hồng, Tuyên Quang đã thực hiện 
hỗ trợ 100% mức đóng bảo hiểm y tế cho người 
thuộc hộ cận nghèo, đảm bảo 100% người thuộc hộ 
nghèo, cận nghèo, người dân tộc thiểu số sống ở 
vùng khó khăn, người dân sống ở vùng đặc biệt khó 
khăn được cấp thẻ bảo hiểm y tế [3; 9]. Hệ thống cơ 
sở vật chất y tế và chất lượng đội ngũ cán bộ y tế 
vùng đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng được nâng 
cao, góp phần chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân 
tộc thiểu số. 
Về thực hiện chính sách đối với người có uy tín 
trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số 
Hàng năm, Ban Dân tộc tỉnh chủ trì, phối hợp với 
Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tình, 
Công an tỉnh triển khai, rà soát, bầu chọn bổ sung 
danh sách người có uy tín trong vùng đồng bào dân 
tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh theo Quyết định số 
12/2018/QĐ-Ttg ngày 06/3/2018 của Thủ tướng 
Chính phủ. Năm 2019, toàn tỉnh có 1.247 người có 
uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số [5; 6]. Người 
có uy tín được cấp phát đầy đủ các loại báo theo quy 
định, được thăm hỏi, động viên kịp thời theo đúng 
chính sách đã quy định về ốm đau, qua đời, gia đình 
không may gặp rủi ro, thiên tai. Tỉnh đã tổ chức 
nhiều hội nghị tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, cung 
cấp thông tin cho người có uy tín trên địa bàn tỉnh. 
Đại biểu người có uy tín trên địa bàn tỉnh được bầu 
chọn đã phát huy vai trò tích cực trong công tác phổ 
biến, tuyên truyền các chủ trương của Đảng, chính 
sách và pháp luật của Nhà nước ở nơi cư trú; kịp thời 
trao đổi thông tin, phản ánh tâm tư nguyện vọng 
chính đáng của quần chúng nhân dân đối với cấp ủy, 
chính quyền các cấp, giữ vững khối đại đoàn kết dân 
tộc; góp phần tích cực trong công tác giảm nghèo, 
xây dựng nông thôn mới. 
Về thực hiện các chính sách phổ biến, giáo dục 
pháp luật và tuyên truyền vận động đồng bào vùng 
dân tộc thiểu số 
Thực hiện đề án “Đẩy mạnh công tác phổ biến, 
giáo dục pháp luật và tuyên truyền vận động đồng 
bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2017 -
2021” theo Quyết định số 1163/QĐ-TTg ngày 
08/8/2017 của Thủ tướng Chính phủ, trong 2 năm 
2018 và 2019, Ban dân tộc tỉnh đã phối hợp với Ủy 
ban nhân dân các huyện tổ chức nhiều hội nghị phổ 
biến, giáo dục pháp luật cho hàng trăm đại biểu, 
trong đó có các đại biểu là cán bộ làm công tác dân 
tộc cấp huyện, cấp xã; trưởng thôn, bản; đại diện các 
tổ chức đoàn thể thôn, bản và đồng bào dân tộc thiểu 
số ở các xã đặc biệt khó khăn. Các nội dung tuyên 
truyền tập trung vào các quy định pháp luật về hôn 
nhân và gia đình, an toàn giao thông, phòng chống 
tội phạm buôn bán người, phòng chống bạo lực gia 
đình, các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và 
Nhà nước 
Đề án giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân 
cận huyết thống trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số 
theo Quyết định số 498/QĐ-Ttg ngày 14/4/2015 của 
Thủ tướng Chính phủ được triển khai theo hướng 
chọn mô hình điểm để thực hiện. Năm 2018, Ban 
Dân tộc tỉnh đã tổ chức điều tra, khảo sát, thu thập 
thông tin, đánh giá thực trạng tình trạng tảo hôn ở các 
xã đặc biệt khó khăn thuộc 6 huyện trên địa bàn tỉnh, 
sau đó chọn 02 xã (xã Hùng Lợi và xã Trung Minh 
huyện Yên Sơn) làm mô hình điểm để thực hiện Đề 
án. Theo đó, tỉnh đã tổ chức 07 hội nghị tuyên truyền 
“Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết 
trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số” trên địa bàn 
tỉnh với 731 đại biểu tham gia [4; 6]. Năm 2019, từ 
đánh giá kết quả thực hiện 02 mô hình điểm ở huyện 
Yên Sơn, Ban dân tộc tỉnh tiếp tục xây dựng kế 
hoạch để nhân rộng mô hình thực hiện Đề án trên địa 
bàn xã Xuân Lập, huyện Lâm Bình; trực tiếp hướng 
dẫn thành lập mô hình và tập huấn kỹ năng tuyên 
truyền cho Ban chỉ đạo cấp xã và thành viên Tổ tư 
vấn thôn, bản của xã Xuân Lập. 
Đề án “Hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới vùng dân 
tộc thiểu số giai đoạn 2018 - 2025 theo Quyết định số 
1898/QĐ-Ttg ngày 28/11/2017 của Thủ tướng Chính 
phủ được triển khai thực hiện nghiêm túc. Ban Dân 
tộc tỉnh đã phối hợp với Ủy ban nhân dân huyện 
Chiêm Hóa chỉ đạo duy trì, hướng dẫn hoạt động của 
Câu lạc bộ “Tăng cường sự tham gia của phụ nữ và 
thúc đẩy bình đẳng giới” ở xã Linh Phú, tổ chức đoàn 
đại biểu gồm 10 người đại diện thành viên Câu lạc bộ 
L.T.H.Hanh et al/ No.18_Oct 2020|p.133-139 
tham dự Hội nghị tập huấn nâng cao kiến thức pháp 
luật do Ủy ban dân tộc tổ chức tại Hà Nội, đồng thời 
chỉ đạo tổ chức đánh giá sơ kết 01 năm thực hiện mô 
hình tại xã Linh Phú. 
Nhờ tích cực thực hiện các chính sách dân dân 
tộc, hai năm qua, vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh 
Tuyên Quang đã có sự phát triển, công tác giảm 
nghèo đạt được nhiều kết quả quan trọng. Đời sống 
vật chất, tinh thần của đồng bào từng bước được nâng 
lên. Với tinh thần đoàn kết, phát huy nội lực, vượt 
qua những khó khăn, đồng bào dân tộc thiểu số trên 
địa bàn tỉnh đã tích cực thực hiện các phong trào thi 
đua yêu nước, các cuộc vận động do các cấp, các 
ngành phát động, cùng với cấp ủy, chính quyền địa 
phương triển khai thực hiện có hiệu quả chương 
trình, chính sách của Nhà nước, củng cố khối đại 
đoàn kết dân tộc, từ đó góp phần quan trọng vào 
những kết quả, thành tựu mà tỉnh đã đạt được trong 
thời gian qua. 
2.3. Một số hạn chế trong thực hiện chính sách 
dân tộc ở tỉnh Tuyên Quang 
Qua nghiên cứu thực trạng thực hiện chính sách 
dân tộc ở tỉnh Tuyên Quang từ năm 2018 đến năm 
2019 cho thấy đã đạt được những kết quả đáng khích 
lệ. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, 
trong việc thực hiện chính sách dân tộc cũng còn tồn 
tại một số hạn chế. Trong phát triển kinh tế nông - 
lâm nghiệp vùng đồng bào dân tộc thiểu số, năng 
suất, chất lượng sản phẩm một số cây trồng vật nuôi 
còn thấp. Chất lượng giảm nghèo chưa thật sự bền 
vững, tỷ lệ hộ nghèo là người dân tộc thiểu số còn 
cao. Đời sống một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số 
còn gặp nhiều khó khăn, nhiều hộ đồng bào dân tộc 
thiểu số chưa biết cách làm ăn, chủ yếu làm ăn manh 
mún, nhỏ lẻ, dựa vào khai thác rừng, làm nông, khai 
thác những nguồn lực tự nhiên sẵn có để sinh sống; 
sức lao động cũng chủ yếu dựa vào sức người, hạn 
chế trong việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật 
vào trong sản xuất. Thời gian gần đây, tuy đã bắt đầu 
áp dụng những công nghệ tiên tiến, máy móc vào 
trong sản xuất nhưng vẫn còn ít và thiếu đồng bộ. 
Một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số chưa chủ 
động trong thực hiện các chính sách, còn ỷ lại vào 
các chính sách hỗ trợ của nhà nước. Kinh tế một số 
địa phương có đông đồng bào dân tộc thiểu số chưa 
phát triển, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông 
nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa gắn với thị 
trường chuyển biến chậm. 
Kết cấu hạ tầng nông thôn của tỉnh tuy được tăng 
cường đầu tư nhưng chưa thực sự đáp ứng nhu cầu 
phát triển kinh tế - xã hội. Ở một số thôn, bản vùng 
sâu, vùng xa chưa có đường bê tông vào thôn, nên 
nhân dân đi lại rất khó khăn như thôn Trung Phìn, 
thôn Khuổi Phìn, xã Sinh Long; thôn bản Bung, xã 
Thanh Tương, Na Hang... Đặc biệt tại thôn Trung 
Phìn và thôn Khuổi Pìn (Sinh Long, Na Hang) và 
một số thôn, bản khác ở các xã vùng sâu, vùng xa 
thuộc một số huyện miền núi hiện nay chưa có điện 
lưới quốc gia vào thôn bản nên đời sống nhân dân rất 
khó khăn. Chất lượng giáo dục, văn hóa, y tế ở vùng 
dân tộc thiểu số so với mặt bằng chung của tỉnh còn 
thấp. Ở một số địa phương, trong vùng dân tộc thiểu 
số còn xảy ra tình trạng tảo hôn, đưa người đi lao 
động nước ngoài trái phép. Việc triển khai thực hiện 
một số chương trình, chính sách dân tộc còn có 
những khó khăn, bất cập. Ví dụ, việc bố trí vốn để 
thực hiện các chính sách đặc thù hỗ trợ vùng dân tộc 
thiểu số theo Quyết định số 2085/QĐ-Ttg ngày 
31/10/2016 và Quyết định số 2086/QĐ-Ttg ngày 
31/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ còn hạn chế, 
chưa đảm bảo theo kế hoạch đã đề ra [5;11]. 
Nguyên nhân của những hạn chế trên là do kinh 
tế của tỉnh vẫn còn khó khăn, nguồn thu ngân sách hạn 
chế, vì vậy việc bố trí nguồn lực cho công tác giảm 
nghèo chưa đáp ứng được nhu cầu. Một số địa phương 
chưa chủ động phát huy được tiềm năng, thế mạnh để 
phục vụ cho công tác phát triển kinh tế - xã hội. Xuất 
phát điểm kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu 
số thấp. Địa hình vùng dân tộc thiểu số phức tạp, giao 
thông đi lại không thuận tiện, ảnh hưởng đến việc tiếp 
nhận các dịch vụ, khoa học, kỹ thuật và công nghệ của 
đồng bào dân tộc thiểu số. Sự phối hợp giữa các 
ngành, các cấp có lúc chưa chặt chẽ. 
2.4. Một số giải pháp nhằm nâng hiệu quả 
chính sách dân tộc ở tỉnh Tuyên Quang 
Để khắc phục những hạn chế nêu trên và thực 
hiện có hiệu quả các chính sách dân tộc ở tỉnh Tuyên 
Quang cần sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống 
chính trị, các cấp, các ngành và đồng thời phải thực 
hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó cần thực hiện 
những giải pháp cơ bản sau: 
Một là, tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp 
ủy Đảng, chính quyền tỉnh Tuyên Quang trong triển 
khai thực hiện chính sách dân tộc. Trong đó, tập 
trung giải quyết kịp thời, có hiệu quả những mong 
muốn chính đáng của đồng bào dân tộc thiểu số trong 
triển khai thực hiện các chính sách. 
Hai là, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên 
và nhân dân về tầm quan trọng của chính sách dân 
tộc và thực hiện chính sách dân tộc thông qua việc 
tuyên truyền, giáo dục về các chủ trương, chính sách 
dân tộc, giáo dục nâng cao tinh thần cảnh giác cách 
mạng cho đồng bào dân tộc thiểu số. 
L.T.H.Hanh et al/ No.18_Oct 2020|p.133-139 
Ba là, tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả 
từng chính sách trên cơ sở bám sát tình hình thực tiễn 
địa phương để vận dụng các chính sách có hiệu quả. 
Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, 
đánh giá quá trình thực hiện chính sách dân tộc, đặc 
biệt hướng tới khuyến khích người dân, các tổ chức 
quần chúng cùng tham gia kiểm tra, giám sát việc 
thực hiện các chính sách. 
Năm là, tăng cường quản lý nhà nước về công tác 
dân tộc thông qua việc hoàn thiện pháp luật về công 
tác dân tộc, xây dựng hệ thống chính sách rõ ràng, cụ 
thể, không chồng chéo, mâu thuẫn, thống nhất đầu 
mối cơ quan chủ trì, tổ chức thực hiện chính sách 
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công tác dân tộc. 
3. Kết luận 
Tuyên Quang là một tỉnh có sự đa dạng về thành 
phần dân tộc. Các dân tộc trên địa bàn tỉnh giàu 
truyền thống đoàn kết, yêu nước, cùng gắn bó với 
nhau trong quá trình sinh sống. Mặc dù đồng dân tộc 
thiểu số nơi đây cư trú đan xen nhưng đều có bản sắc 
văn hóa riêng. Trong tiến trình đổi mới đất nước, 
đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc ở tỉnh 
Tuyên Quang đã tích cực chủ động tổ chức thực hiện 
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước trên địa 
bàn và đã thu được nhiều thành tựu quan trọng nhưng 
cũng không tránh khỏi một số hạn chế nhất định. 
Giải quyết đúng đắn và sáng tạo những khó khăn, 
hạn chế trong quá trình thực hiện sẽ góp phần phát 
triển kinh tế - xã hội, thay đổi diện mạo của vùng 
đồng bào dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang trên tinh 
thần đoàn kết, thống nhất, không ngừng khắc phục 
khó khăn về mọi mặt để phát triển, khẳng định ý chí 
vươn lên, tính tự lực tự cường, tin tưởng sâu sắc vào 
sự lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đổi mới hiện 
nay. Qua đó, chúng ta càng tin tưởng khẳng định 
rằng, đồng bào dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang sẽ 
phát triển xa hơn, tiến kịp với các dân tộc khác, cùng 
góp sức xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước 
giàu mạnh. 
REFERENCES 
1- Vietnam Communist Party, Document of the 
XI National Congress of Delegates, National Political 
Publishing House, Hanoi, 2011 
2- Ho Chi Minh National Academy of Politics, 
High-level curriculum of political theory: Ethnic 
theory and ethnic relations in Vietnam, Political 
Theory Publishing House, Hanoi, 2019, p. 13.14 
3-People's Committee of Tuyen Quang province, 
Documents of the third Congress of ethnic minorities 
in Tuyen Quang province in 2019 
4-People's Committee of Tuyen Quang province, 
Committee for Ethnic Minorities, Report on 
summary of ethnic affairs in 2018, directions and 
tasks of ethnic affairs in 2019 
5-People's Committee of Tuyen Quang province, 
Committee for Ethnic Minorities, Report on the 
implementation of ethnic work in 2019, directions 
and tasks of ethnic work in 2020 
6-People's Committee of Tuyen Quang province, 
Report on results of implementation of socio-
economic development tasks in 2018; expected 
socio-economic development plan in 2019 
7-People's Committee of Tuyen Quang province, 
Report on results of implementation of socio-
economic development tasks in 2019, expected 
socio-economic development plan 2020 
THE RESULTS OF IMPLEMENTING ETHNIC POLICY 
IN TUYEN QUANG PROVINCE 
Article info Abstract 
Recieved: 
28/4/2020 
Accepted: 
20/9/2020 
 Ethnic policy is one of the important contents, aiming at socio-economic 
development in ethnic minority areas across the our country. This article focuses 
on evaluating the achievements and limitations in the process of implementing 
ethnic policy in Tuyen Quang province, as well as coming up with solutions to 
improve efficiency of ethnic policy implementation in the locality. 
Keywords: 
ethnicity, ethnic policy, 
Tuyen Quang province, 
ethnic minorities, ethnic 
minority areas. 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_ket_qua_thuc_hien_chinh_sach_dan_toc_o_tinh_tuyen_qua.pdf