Một số điều kiện bảo đảm cho hoạt động - Giám sát và phản biện xã hội của mặt trận tổ quốc Việt Nam

Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã khẳng định “Xây dựng quy chế giám sát và phản biện xã hội

của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị

- xã hội và nhân dân đối với việc hoạch định

đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định

lớn của Đảng và việc tổ chức thực hiện, kể

cả đối với công tác tổ chức và cán bộ”; đồng

thời, cũng chỉ rõ “Nhà nước ban hành cơ chế

để Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội và

nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản

biện xã hội”.

Do vậy, có thể khẳng định rằng, tinh thần của

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

X của Đảng ta là: Phát huy vai trò của Mặt trận

Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân

dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng

cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và

sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,

vì dân; phát huy quyền làm chủ của nhân dân,

tạo sự đồng thuận xã hội và xây dựng khối đại

đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc.

Thời gian qua, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,

các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đã

thực hiện hoạt động giám sát; tích cực tham gia

góp ý kiến vào dự thảo nghị quyết của Đảng,

chính sách, pháp luật của Nhà nước; chủ động

phối hợp với cơ quan nhà nước xây dựng và

ban hành một số quy định, cụ thể hoá một bước

cơ chế giám sát và đã đạt được kết quả bước

đầu. Tuy nhiên, đến nay hoạt động giám sát và

phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ

chức chính trị - xã hội và nhân dân còn nhiều

hạn chế, hiệu quả chưa cao. Phản biện xã hội

là nhiệm vụ mới, rất quan trọng, khó khăn và

nhạy cảm, nhưng chưa có cơ chế phản biện xã

hội cụ thể, chưa có quy định thật rõ về mục

đích, yêu cầu, nguyên tắc, chủ thể, đối tượng,

nội dung. phản biện xã hội. Do đó, để phát huy

tốt vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong

hoạt động giám sát và phản biện xã hội cần có

các điều kiện bảo đảm sau.

Một số điều kiện bảo đảm cho hoạt động - Giám sát và phản biện xã hội của mặt trận tổ quốc Việt Nam trang 1

Trang 1

Một số điều kiện bảo đảm cho hoạt động - Giám sát và phản biện xã hội của mặt trận tổ quốc Việt Nam trang 2

Trang 2

Một số điều kiện bảo đảm cho hoạt động - Giám sát và phản biện xã hội của mặt trận tổ quốc Việt Nam trang 3

Trang 3

Một số điều kiện bảo đảm cho hoạt động - Giám sát và phản biện xã hội của mặt trận tổ quốc Việt Nam trang 4

Trang 4

Một số điều kiện bảo đảm cho hoạt động - Giám sát và phản biện xã hội của mặt trận tổ quốc Việt Nam trang 5

Trang 5

Một số điều kiện bảo đảm cho hoạt động - Giám sát và phản biện xã hội của mặt trận tổ quốc Việt Nam trang 6

Trang 6

pdf 6 trang baonam 8620
Bạn đang xem tài liệu "Một số điều kiện bảo đảm cho hoạt động - Giám sát và phản biện xã hội của mặt trận tổ quốc Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số điều kiện bảo đảm cho hoạt động - Giám sát và phản biện xã hội của mặt trận tổ quốc Việt Nam

Một số điều kiện bảo đảm cho hoạt động - Giám sát và phản biện xã hội của mặt trận tổ quốc Việt Nam
Số 13(174) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 457
2010
CHÍNH SÁCH
N
ghị quyết Đại hội Đại biểu toàn 
quốc lần thứ X của Đảng đã 
khẳng định “Xây dựng quy chế 
giám sát và phản biện xã hội 
của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị 
- xã hội và nhân dân đối với việc hoạch định 
đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định 
lớn của Đảng và việc tổ chức thực hiện, kể 
cả đối với công tác tổ chức và cán bộ”; đồng 
thời, cũng chỉ rõ “Nhà nước ban hành cơ chế 
để Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội và 
nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản 
biện xã hội”. 
Do vậy, có thể khẳng định rằng, tinh thần của 
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 
X của Đảng ta là: Phát huy vai trò của Mặt trận 
Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân 
dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng 
cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và 
sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Nhà nước 
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, 
vì dân; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, 
tạo sự đồng thuận xã hội và xây dựng khối đại 
đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và 
bảo vệ Tổ quốc.
Thời gian qua, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, 
các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đã 
thực hiện hoạt động giám sát; tích cực tham gia 
góp ý kiến vào dự thảo nghị quyết của Đảng, 
chính sách, pháp luật của Nhà nước; chủ động 
phối hợp với cơ quan nhà nước xây dựng và 
ban hành một số quy định, cụ thể hoá một bước 
cơ chế giám sát và đã đạt được kết quả bước 
đầu. Tuy nhiên, đến nay hoạt động giám sát và 
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ 
chức chính trị - xã hội và nhân dân còn nhiều 
hạn chế, hiệu quả chưa cao. Phản biện xã hội 
là nhiệm vụ mới, rất quan trọng, khó khăn và 
nhạy cảm, nhưng chưa có cơ chế phản biện xã 
hội cụ thể, chưa có quy định thật rõ về mục 
đích, yêu cầu, nguyên tắc, chủ thể, đối tượng, 
nội dung... phản biện xã hội. Do đó, để phát huy 
tốt vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong 
hoạt động giám sát và phản biện xã hội cần có 
các điều kiện bảo đảm sau.
1. Bảo đảm về nhận thức
 Giám sát và phản biện xã hội, đặc biệt là 
phản biện xã hội là chủ trương mới của Đảng ta 
nhằm phát huy và mở rộng một bước dân chủ 
MỘT SỐ ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM CHO HOẠT ĐỘNG
NGUYễN THANH BìNH *
(*) Ban Dân chủ - Pháp luật, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI 
CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
46 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 13(174) 72010
CHÍNH SÁCH
trong xã hội, khơi dậy ý thức và trách nhiệm 
xã hội, huy động sự tham gia của các tổ chức 
nhân dân và cá nhân đóng góp trực tiếp vào 
việc xây dựng chủ trương, chính sách của Đảng 
và pháp luật của Nhà nước; bảo đảm cho chủ 
trương, chính sách của Đảng và pháp luật của 
Nhà nước khi ban hành được sự hưởng ứng và 
chấp hành nghiêm chỉnh của mọi công dân, 
khắc phục được những khiếm khuyết mà trong 
xã hội thường nêu về sự quan liêu, chủ quan, 
lợi ích cục bộ, xa thực tế, thiếu khả thi và hình 
thức trong quá trình xây dựng v.v.. đồng thời 
chất lượng xây dựng văn bản từng bước được 
nâng cao.
 Phản biện xã hội thể hiện quan hệ hợp tác, 
phối hợp giữa chủ thể phản biện và chủ thể 
được phản biện trong quá trình thực hiện phản 
biện, giữa cơ quan nhà nước với Mặt trận Tổ 
quốc; giữa cơ quan quyền lực và tổ chức của 
nhân dân, do đó cần có sự thống nhất về nhận 
thức và hành động trong toàn Đảng, Nhà nước 
và xã hội, nhất là trong cán bộ, công chức và 
nhân dân. Từ đó, các kiến nghị phản biện xã hội 
của Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt 
Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận 
phải được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền tiếp 
nhận và giải trình đầy đủ trước khi dự án, đề án 
được ban hành, thực hiện.
Muốn không ngừng nâng cao nhận thức của 
nhân dân về tầm quan trọng trong hoạt động 
giám sát và phản biện xã hội của họ, của Mặt 
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cần nâng 
cao ý thức chính trị và ý thức pháp luật của nhân 
dân thông qua việc tăng cường tuyên truyền, 
phổ biến, giáo dục chủ trương, đường lối của 
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất 
là các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp 
luật về quyền giám sát và phản biện xã hội của 
họ. Bên cạnh đó, cần nâng cao dân trí và có 
biện pháp cụ thể để khuyến khích, động viên 
các tầng lớp nhân dân tham gia đối thoại với 
đảng viên, cán bộ, công chức và các tổ chức, 
cơ quan đảng, nhà nước. Trang bị cho nhân dân 
các thông tin và kiến thức cần thiết để họ có thể 
tự mình trực tiếp thực hiện quyền giám sát và 
phản biện xã hội.
 Về nhận thức, cần phải thấy rằng, giám sát 
và phản biện xã hội là quyền của dân, là trách 
nhiệm của Mặt trận với dân, với Đảng. Đảng là 
thành viên lãnh đạo của Mặt trận, Đảng cần tạo 
mọi điều kiện để Mặt trận hoàn thành nhiệm 
vụ đưa giám sát và phản biện xã hội vào cuộc 
sống, trở thành một nếp sinh hoạt thường xuyên 
ở mọi nơi trong cả nước. Thông qua Mặt trận, 
nhân dân thực hiện quyền giám sát và phản 
biện xã hội giúp Đảng và Nhà n ... ụ, bảo đảm được tính thống nhất 
trong một cơ chế pháp lý hữu hiệu để nhân dân 
thực hiện quyền giám sát và quyền phản biện 
xã hội.
Hai là, nghiên cứu ban hành một số luật sau: 
Thứ nhất, ban hành Luật về hoạt động giám sát 
của nhân dân, trong đó có quy định về hoạt 
động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. 
Trong Luật này quy định đầy đủ và rõ ràng về 
nội dung, hình thức, cơ chế và hiệu quả pháp 
lý của hoạt động giám sát của Mặt trận. Đồng 
thời, Luật cũng quy định rõ về trách nhiệm của 
các cơ quan nhà nước trước các yêu cầu kiến 
nghị giám sát của Mặt trận cũng như bảo đảm 
những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện 
quyền và trách nhiệm giám sát của Mặt trận. 
Đó là những cơ sở pháp lý quan trọng để thực 
hiện tốt và có hiệu quả chức năng giám sát của 
Mặt trận đối với hoạt động của cơ quan nhà 
nước, các đại biểu dân cử và cán bộ, công chức 
nhà nước, góp phần tăng cường sự lãnh đạo của 
Đảng đối với Nhà nước và phát huy quyền làm 
chủ của nhân dân thông qua Mặt trận. Thứ hai, 
ban hành Luật về hoạt động phản biện xã hội. 
Phản biện xã hội là một trong những giải pháp 
cấp thiết nhằm thực hiện quyền dân chủ, tự do 
của nhân dân. Hơn thế, đó còn là giải pháp quan 
trọng nhằm góp phần đổi mới sự lãnh đạo của 
Đảng, tăng cường hiệu quả quản lý, điều hành 
của Nhà nước và nâng cao chất lượng hoạt động 
của các tổ chức chính trị - xã hội, của Mặt trận 
Tổ quốc Việt Nam.
Ba là, xuất phát từ cơ chế hoạt động của hệ 
thống chính trị nước ta là Đảng lãnh đạo, Nhà 
nước quản lý, nhân dân làm chủ, cần tổ chức 
triển khai thực hiện Luật Phòng, chống tham 
nhũng một cách toàn diện. Trong đó, chú trọng 
việc tăng cường hoạt động giám sát của nhân 
dân đối với đảng viên, cán bộ, công chức và 
các tổ chức, cơ quan đảng, nhà nước. Cần có 
các điều kiện bảo đảm, các phương án bảo vệ 
cho những cá nhân mạnh dạn tố cáo các hành vi 
tham nhũng, đi đôi với chế độ khen thưởng kịp 
thời. Nâng Pháp lệnh Dân chủ cơ sở thành Luật 
Dân chủ cơ sở. Đây là một việc cần sớm được 
tiến hành để tạo cơ sở pháp lý cho việc thực 
hành dân chủ trực tiếp ở cơ sở. Bởi vì, về lâu 
dài, nếu cứ để hình thức pháp lệnh thì tính ổn 
định không cao và giá trị pháp lý thấp hơn hình 
thức luật. Hơn nữa, cần quán triệt quan điểm: 
hạn chế tối đa việc ban hành văn bản quy phạm 
pháp luật dưới hình thức pháp lệnh. Đối với 
Luật Khiếu nại, tố cáo, cần nhanh chóng hoàn 
thiện trên cơ sở tổng kết việc thực hiện Luật 
Báo chí đóng vai trò ngày càng lớn trong phản biện xã hội - Ảnh: S.T
48 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 13(174) 72010
CHÍNH SÁCH
Khiếu nại, tố cáo hiện hành và tổng kết việc 
thực hiện Chỉ thị số 09-CT/TW, ngày 6/3/2002, 
của Ban Bí thư, về “Một số vấn đề cấp bách cần 
thực hiện trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo 
hiện nay”. Trước mắt, có thể tách Luật Khiếu 
nại, tố cáo thành Luật Khiếu nại và Luật Tố 
cáo, đi đôi với việc đổi mới quy trình giải quyết 
khiếu nại, tố cáo để nâng cao chất lượng của 
hoạt động giải quyết khiếu nại và giải quyết tố 
cáo. Tất cả những việc làm nói trên đều nhằm 
góp phần hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm 
cho nhân dân tham gia hoạt động giám sát và 
phản biện xã hội.
Bốn là, tăng cường hoạt động giám sát của 
nhân dân phải được tiến hành đồng thời với việc 
tăng cường hoạt động giám sát của các cơ quan 
có chức năng kiểm tra, thanh tra, giám sát thuộc 
bộ máy đảng và nhà nước. Cụ thể, tăng cường 
sự phối hợp, kết hợp giữa hoạt động giám sát 
của nhân dân, thông qua hoạt động của Mặt 
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành 
viên cũng như của Ban thanh tra nhân dân, 
với hoạt động thanh tra của Thanh tra Chính 
phủ, hoạt động kiểm tra của Đảng và hoạt động 
giám sát tối cao của Quốc hội. Đặc biệt, cần 
chú trọng việc phối hợp giữa hoạt động giám 
sát của nhân dân với hoạt động giám sát tối cao 
của Quốc hội. Bởi vì, hoạt động giám sát tối 
cao của Quốc hội là hoạt động giám sát mang 
tính quyền lực nhà nước cao nhất, và do vậy, 
khi được kết hợp với hoạt động giám sát trực 
tiếp của nhân dân (giám sát mang tính xã hội), 
sẽ tạo ra một cơ chế pháp lý bảo đảm cho hoạt 
động giám sát của nhân dân được tiến hành có 
hiệu quả trên thực tế.
Năm là, thiết lập mối quan chặt chẽ hơn 
nữa giữa Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ 
quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân 
dân. Muốn vậy, cần cải tiến, hoàn thiện chế 
độ, thể chế bầu cử, bảo đảm đại biểu dân cử 
vừa mang tính đại diện, vừa hoạt động có chất 
lượng, hiệu quả, nhất là đối với đại biểu Quốc 
hội, đại biểu Hội đồng nhân dân và cán bộ làm 
việc trong các cơ quan của Mặt trận Tổ quốc. 
Để làm tốt việc này, Mặt trận Tổ quốc cần đổi 
mới về chất hoạt động giới thiệu đại biểu và 
hoạt động hiệp thương lựa chọn danh sách đại 
biểu. Đồng thời, cử tri cần được cung cấp đầy 
đủ thông tin về ứng cử viên cũng như chương 
trình hành động của họ khi trúng cử; và cuối 
cùng, cần tăng cường hoạt động giám sát trực 
tiếp của cử tri trong lúc bầu cử.
2.2. Thể chế trực tiếp 
Trước mắt cần ban hành ba Quy chế giám 
sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, 
các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân với 
ba loại hình khác nhau là: 
Thứ nhất, Giám sát và phản biện xã hội đối 
với tổ chức đảng và đảng viên; 
Thứ hai, Giám sát và phản biện xã hội đối 
với Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Toà án, Viện 
kiểm sát, cơ quan tư pháp khác, cán bộ công 
chức của các cơ quan này và đại biểu dân cử;
Thứ ba, Giám sát và phản biện xã hội đối 
với các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà 
nước và cán bộ, công chức trong hệ thống các 
cơ quan đó.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần kiến nghị 
đề xuất với Đảng có Nghị quyết hoặc Chỉ thị 
chuyên đề và Nhà nước cần thể chế hóa bằng 
văn bản pháp luật về phản biện xã hội, để quy 
định rõ về đối tượng, phạm vi, nội dung, hình 
thức, cơ chế cụ thể và điều kiện đảm bảo thì 
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mới thực hiện tốt 
được vai trò phản biện xã hội. Xin được kiến 
nghị một số nội dung liên quan đến việc thực 
hiện nhiệm vụ phản biện xã hội của Mặt trận 
Tổ quốc Việt Nam cần được quán triệt trong 
ba quy chế nêu trên như sau:
- Phạm vi nội dung phản biện xã hội: Không 
phải mọi chủ trương, chính sách của Đảng và 
pháp luật của Nhà nước Mặt trận Tổ quốc Việt 
Nam đều phản biện, mà chỉ phản biện những 
chủ trương, chính sách, pháp luật có liên quan 
đến quyền, nghĩa vụ và lợi ích chính đáng của 
các tầng lớp nhân dân, đến tổ chức bộ máy 
và cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị, 
những chính sách cụ thể đối với các giai cấp, 
các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo 
và người Việt Nam ở nước ngoài; quyền và 
trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; 
Số 13(174) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 497
2010
CHÍNH SÁCH
kế hoạch, chương trình và những chính sách 
cụ thể về kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng 
và đối ngoại.
- Chủ thể được phản biện xã hội là cơ quan, 
tổ chức của Đảng, cơ quan nhà nước ở trung 
ương và địa phương có thẩm quyền xây dựng 
đề án và thời điểm phản biện xã hội được bắt 
đầu từ khi khởi thảo dự án, đề án.
- Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các 
tổ chức thành viên của Mặt trận với tư cách 
là chủ thể phản biện xã hội có quyền và trách 
nhiệm: Chủ động đề nghị cơ quan, tổ chức có 
thẩm quyền xây dựng dự án, đề án chuyển đến 
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức 
thành viên hữu quan văn kiện khởi thảo dự án, 
đề án và dự thảo dự án, đề án để phản biện; tổ 
chức phản biện, gửi kết quả phản biện đến cơ 
quan, tổ chức hữu quan để giải quyết. Cơ quan, 
tổ chức có thẩm quyền xây dựng dự án, đề án 
trả lời bằng văn bản về việc tiếp thu phản biện 
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức 
thành viên hữu quan. Trường hợp cơ quan, tổ 
chức được phản biện không tiếp thu kết quả 
phản biện, thì có quyền kiến nghị lên cơ quan, 
tổ chức cấp trên trực tiếp hoặc cơ quan tổ chức 
có thẩm quyền xem xét, quyết định. Được bảo 
đảm các điều kiện cần thiết để thực hiện phản 
biện và chịu trách nhiệm trước nhân dân về 
nội dung phản biện của tổ chức mình.
- Cơ quan, tổ chức với tư cách là chủ thể 
được phản biện có quyền và trách nhiệm: Đề 
nghị Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ 
chức thành viên hữu quan thực hiện việc phản 
biện đối với dự án, đề án thuộc thẩm quyền 
xây dựng, ban hành của cơ quan, tổ chức mình 
từ khi khởi thảo dự án, đề án. Tiếp thu toàn bộ 
kết quả phản biện, không tiếp thu hoặc tiếp 
thu từng nội dụng của kiến nghị phản biện 
và trả lời bằng văn bản để chủ thể phản biện 
biết. Đối thoại với chủ thể phản biện về những 
nội dung, kiến nghị phản biện khi cần làm rõ. 
Cung cấp đầy đủ thông tin, tài liệu liên quan 
đến nội dung phản biện của dự án, đề án theo 
yêu cầu của chủ thể khi thực hiện phản biện 
và cấp kinh phí từ dự án, đề án để chủ thể thực 
hiện phản biện xã hội.
- Nguồn lực con người và nguồn tài chính để 
thực hiện phản biện xã hội cần được đảm bảo 
và quy định rõ trong ba quy chế. Cần đảm bảo 
điều kiện về tài chính, vật chất thực thi công tác 
giám sát, phản biện xã hội; có chế độ đãi ngộ 
phù hợp để khuyến khích cán bộ mặt trận.
- Quá trình tổ chức phản biện xã hội phải 
đảm bảo tính Đảng, tính nhân dân; tính trung 
thực; tính khoa học, khách quan và thiết thực. 
Đồng thời các kiến nghị phản biện xã hội của 
Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ 
chức thành viên phải được cơ quan tổ chức 
có thẩm quyền tiếp thu và giải trình đầy đủ 
trước khi dự án, đề án được ban hành, thực 
hiện. Như vậy, hoạt động phản biện của Mặt 
trận Tổ quốc Việt Nam sẽ thực sự góp phần 
làm cho chủ trương, đường lối, chính sách, 
pháp luật của Đảng và Nhà nước sát hợp với 
thực tiễn của đời sống xã hội, đáp ứng tốt nhất 
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong 
giai đoạn cách mạng hiện nay.
3. Bảo đảm về nguồn lực 
Phát huy vai trò của các thành viên rộng 
lớn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, của các cá 
nhân tiêu biểu, các Hội đồng Tư vấn của Mặt 
trận Tổ quốc Việt Nam (hiện ở Trung ương 
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có 8 Hội đồng 
Tư vấn trên các lĩnh vực pháp luật về kinh tế, 
văn hoá, xã hội, khoa học và giáo dục và đối 
ngoại), lực lượng cộng tác viên và đoàn viên, 
hội viên là những chuyên gia trên các lĩnh vực. 
Đồng thời, thông qua hoạt động của Mặt trận 
và các tổ chức thành viên, Mặt trận thường 
xuyên tổng hợp ý kiến, đề nghị, kiến nghị của 
cử tri và các tầng lớp nhân dân tập hợp dư 
luận xã hội là nguồn thông tin, tư liệu vô cùng 
phong phú về cả lý luận và thực tiễn để có cơ 
sở phản biện. 
Mặt trận cần xây dựng lực lượng nòng cốt 
làm nhiệm vụ tiên phong, đột phá. Mặt trận và 
các đoàn thể nhân dân phải có những người 
thật sự có đức, có tài, có dũng khí, dám phản 
biện và biết phản biện. Mặt trận cần có các biện 
pháp nâng cao trình độ đội ngũ lãnh đạo mặt 
trận các cấp, có chính sách quy hoạch đào tạo, 
50 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 13(174) 72010
CHÍNH SÁCH
bồi dưỡng và thu hút cán bộ có năng lực, trình 
độ, phẩm chất, đạo đức. Tập hợp xây dựng 
một đội ngũ chuyên gia có trình độ chính trị, 
chuyên môn, có chính kiến, có tư duy độc lập, 
thực sự “phụng công, thủ pháp”, theo tinh thần 
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực sự có “tâm”, 
nắm và hiểu được nguyện vọng chính đáng, 
hợp lý của dân và có đủ năng lực phản biện. 
Với tổ chức hệ thống mặt trận chặt chẽ, hợp lý, 
hoạt động có hiệu quả sẽ thực hiện được chức 
năng giám sát và phản biện xã hội mà Đảng, 
Nhà nước và nhân dân mong muốn.
Quá trình tổ chức phản biện xã hội phải 
đảm bảo tính đảng, tính nhân dân, tính trung 
thực, tính khoa học, khách quan và thiết thực 
như đã nêu trên. Muốn có những ý kiến phản 
biện đúng, chính xác phải có hệ thống thông 
tin tốt, nhanh nhạy, nhưng đồng thời cũng 
phải có hệ thống phân tích thông tin trên cơ 
sở khoa học để xác nhận thông tin chính xác, 
đúng đắn của đa số. Đòi hỏi cấp bách của Mặt 
trận hiện nay là phải có hệ thống tiếp nhận và 
xử lý thông tin, trên cơ sở đó để Mặt trận dựa 
vào đấy đưa ra những ý kiến của mình. Đồng 
thời, Mặt trận cũng dựa vào báo chí để phản 
ánh kịp thời, mang tính công khai những vấn 
đề giám sát, phản biện...
4. Xác định lại chức năng, nhiệm vụ chủ 
yếu của Mặt trận Tổ quốc 
 Trong thời kỳ đổi mới đất nước và hội nhập 
quốc tế, Mặt trận cần tập trung vào 5 nhiệm vụ 
chủ yếu sau: Một là, tập hợp, xây dựng khối đại 
đoàn kết toàn dân; Hai là: phát huy dân chủ; 
Ba là: đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, 
chính đáng của nhân dân; Bốn là: xây dựng sự 
đồng thuận xã hội; Năm là: giám sát và phản 
biện xã hội. Năm nhiệm vụ này có mối quan 
hệ gắn bó chặt chẽ, bổ sung và tạo điều kiện 
cho nhau trong thực tiễn hoạt động của Mặt 
trận và đều xuất phát từ các Nghị quyết gần 
đây của Đảng ta, trong đó phản biện xã hội là 
một trong những chủ trương mới của Đảng, 
nhằm “xây dựng và từng bước hoàn thiện nền 
dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực 
thuộc về nhân dân”. Đây là một vấn đề mới 
góp phần nâng cao chất lượng lãnh đạo của 
Đảng và sự quản lý của Nhà nước. 
Trong điều kiện đặc thù của thể chế chính 
trị nước ta với chỉ một đảng lãnh đạo, để củng 
cố và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, 
Mặt trận có vai trò hết sức lớn, nhất là khi 
Đảng chủ động yêu cầu Mặt trận phải làm 
tốt chức năng phản biện xã hội. Đây chính 
là nhiệm vụ lớn lao mà không một tổ chức 
nào có thể đảm đương thay Mặt trận được. Vì 
vậy, phải dám mạnh dạn tập trung vào chức 
năng quan trọng này, giảm bớt những việc 
tuy có thể cũng quan trọng và có ích, song 
các tổ chức khác có thể làm.
Chúng ta đang sống trong một thế giới của 
những thành tựu kỳ diệu của cách mạng khoa 
học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông 
tin, một thế giới của Internet nối mạng toàn 
cầu. Ở mọi nơi, các hệ thống thứ bậc đang bị 
thách thức từ bên dưới, vì vậy, hệ thống cấu 
trúc theo chiều dọc phải tự biến đổi thành cấu 
trúc theo chiều ngang và có tính cộng tác hơn 
để tạo ra nhiều giá trị hơn. Đặc điểm cấu trúc 
này bắt gặp với tư tưởng Hồ Chí Minh về một 
cấu trúc xã hội và thể chế chính trị, trong đó 
“quyền hành và lực lượng đều nơi dân”. Chức 
năng phản biện xã hội của Mặt trận là một biểu 
hiện sinh động của tư tưởng đó. Là tổ chức 
duy nhất có điều kiện tập hợp rộng rãi mọi 
tầng lớp nhân dân trong xã hội, Mặt trận có 
lợi thế hơn hẳn so với bất cứ tổ chức nào để 
thực hiện tốt chức năng phản biện xã hội. Vì 
thế nhằm tạo ra sự đồng thuận xã hội làm động 
lực cho đất nước vượt qua những thách thức, 
biến thách thức thành vận hội, đưa đất nước 
bứt lên, cần phải làm cho phản biện xã hội dần 
trở thành chức năng chính của Mặt trận trong 
giai đoạn mới. Mặt trận với lợi thế của mình 
phải vươn lên trên một tầm cao mới của nhận 
thức và hành động để đáp ứng đòi hỏi mới của 
đất nước, khởi động, tổ chức và phát huy tính 
đồng thuận xã hội, động lực mạnh mẽ của phát 
triển và hội nhập. Muốn vậy phải mạnh dạn 
đổi mới tổ chức, phương pháp công tác của 
Mặt trận tương xứng với chức năng và nhiệm 
vụ mới như phản biện xã hội.

File đính kèm:

  • pdfmot_so_dieu_kien_bao_dam_cho_hoat_dong_giam_sat_va_phan_bien.pdf