Mối quan hệ giữa xuất khẩu và năng suất lao động của doanh nghiệp
Bài viết này nghiên cứu mối quan hệ giữa xuất khẩu và năng suất lao động của doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ tại Việt Nam với dữ liệu được sử dụng là dữ liệu bảng về hoạt động doanh nghiệp trong 10 năm từ 2002-2012. Để phân tích mối quan hệ trên, hai lý thuyết được sử dụng là tự chọn lọc (self-selection) và học từ xuất khẩu (learning-by-export). Nghiên cứu cho thấy tác động của hiệu ứng tự chọn lọc quyết định việc doanh nghiệp tham gia hay không tham gia vào thị trường xuất khẩu và hiệu ứng học từ xuất khẩu tác động đến năng suất của doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường xuất khẩu, đồng thời giúp doanh nghiệp nâng cao hoạt động kinh doanh, cải thiện về vốn đầu tư và quy mô của doanh nghiệp.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối quan hệ giữa xuất khẩu và năng suất lao động của doanh nghiệp
50 Phạm Đình Long và Nguyễn Chí Tâm. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 60(3), 50-58 MỐI QUAN HỆ GIỮA XUẤT KHẨU VÀ NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP PHẠM ĐÌNH LONG Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh – long.pham@ou.edu.vn NGUYỄN CHÍ TÂM Cục thuế Thành phố Hồ Chí Minh – nctam.hcm@gmail.com (Ngày nhận: 28/11/2017; Ngày nhận lại: 04/04/2018; Ngày duyệt đăng: 04/05/2018) TÓM TẮT Bài viết này nghiên cứu mối quan hệ giữa xuất khẩu và năng suất lao động của doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ tại Việt Nam với dữ liệu được sử dụng là dữ liệu bảng về hoạt động doanh nghiệp trong 10 năm từ 2002-2012. Để phân tích mối quan hệ trên, hai lý thuyết được sử dụng là tự chọn lọc (self-selection) và học từ xuất khẩu (learning-by-export). Nghiên cứu cho thấy tác động của hiệu ứng tự chọn lọc quyết định việc doanh nghiệp tham gia hay không tham gia vào thị trường xuất khẩu và hiệu ứng học từ xuất khẩu tác động đến năng suất của doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường xuất khẩu, đồng thời giúp doanh nghiệp nâng cao hoạt động kinh doanh, cải thiện về vốn đầu tư và quy mô của doanh nghiệp. Từ khóa: Hiệu ứng tự chọn lọc; Học từ xuất khẩu; Năng suất doanh nghiệp; Quy mô của doanh nghiệp. Relationship between Exporting and Productivity of the Enterprises ABSTRACT This paper investigates the relationship between exporting and productivity of Vietnam small and medium enterprises using firm level panel dataset in the period 2002-2012. To analyze this relationship, we apply two approaches, namely self-selection and learning-by-export. Our study reveals that the self-selection determines whether or not the SMEs join the export market and the learning-by export affects the firm productivity when they participate in the export market, and it also improves their business activities, investment capital and scales up the business. Keywords: Self-selection; Learning-by-export; Firm productivity; Firm size. 1. Giới thiệu Mục tiêu của nghiên cứu là phân tích mối quan hệ giữa xuất khẩu và năng suất lao động của doanh nghiệp (DN) bằng việc vận dụng 2 lý thuyết (i) Lý thuyết về Sự tự chọn lọc (Self – Selection, SS), (ii) Lý thuyết về Học hỏi bằng việc xuất khẩu (Learning–By–Exporting, LBE) làm nền tảng phân tích mối quan hệ trên. Những DN hoạt động hiệu quả và có năng suất cao hơn những DN khác của cùng quốc gia và hoạt động trong cùng ngành, có xu hướng mở rộng thị trường kinh doanh của mình ra nước ngoài thông qua hoạt động xuất khẩu. Việc DN có năng suất cao hơn các DN khác và có xu hướng tìm đến thị trường mới để mở rộng hoạt động (Bernard và Wagner (1997), Clerides (1998), Bernard và Jensen (1999)) được gọi là Sự tự chọn lọc (Self- selection, SS). Sau khi tham gia vào thị trường xuất khẩu, thị trường xuất khẩu sẽ tác động đến DN buộc DN phải thay đổi để thích nghi, đồng thời thông qua việc cạnh tranh của các DN khác trong cùng lĩnh vực giúp cho các DN tham gia xuất khẩu cải thiện được lợi Phạm Đình Long và Nguyễn Chí Tâm. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 60(3), 50-58 51 nhuận của mình (Bernard và Wagner, 1997; Bernard và Jensen, 1999; Aw và cộng sự, 2000). Việc DN tham gia vào thị trường xuất khẩu và cải thiện được năng suất của mình đồng thời lợi nhuận tăng lên được gọi là Học hỏi bằng việc xuất khẩu (Learning-By- Exporting, LBE). Để minh chứng cho hai lý thuyết nói trên, đã có rất nhiều nghiên cứu đã được thực hiện tại nhiều quốc gia như Mỹ (Bernard và Jensen, 1999), Anh (Greenway và Kneller, 2004) đến các quốc gia đang phát triển như Đài Loan (Liu và cộng sự, 1999) đều đi đến cùng kết luận là năng suất lao động của DN là yếu tố tác động để DN quyết định tham gia xuất khẩu hay còn được gọi là tác động của hiệu ứng Tự chọn lọc (self-selection, SS) và sau khi tham gia xuất khẩu thì những tác động từ thị trường xuất khẩu hay còn gọi là hiệu ứng Học bằng xuất khẩu (learning-by- exporting, LBE) giúp cho năng suất lao động của DN tăng cao hơn và đồng thời giúp DN phát triển hơn về qui mô và vốn so với trước khi tham gia xuất khẩu. Trong phạm vi nghiên cứu, chúng tôi phân tích tác động của xuất khẩu đến năng suất lao động của Doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) với dữ liệu khảo sát về hoạt động kinh doanh trong vòng 10 năm (2002 – 2012). DN có qui mô vừa và nhỏ (SMEs), đây là một hình thức DN đặc thù của nền kinh tế Việt Nam, những DN này có đặc điểm chung là có qui mô rất nhỏ và vốn đầu tư rất thấp, ngành nghề sản xuất đơn giản, không có hàm lượng công nghệ cao. Việc nghiên cứu tác động của xuất khẩu đến năng suất của SMEs và kết quả sẽ làm cơ sở để các SMEs có thể nhận thấy các vấn đề gây hạn chế và trở ngại cho họ trong việc tham gia xuất khẩu và có biện pháp cải thiện để hoạt động kinh doanh ngày càng phát triển hơn. Phần còn lại của nghiên cứu được cấu trúc như sau: Phần 2 trình bày cách tiếp cận thực nghiệm của chúng tôi để thử ... ộng (Rebecca, 2008) được xác định từ việc so sánh giữa NSLĐ (Rebecca, 2008) kỳ trước và kỳ hiện tại, nếu NSLĐ của kỳ hiện tại cao hơn kỳ trước thì prodShock = 1 và ngược lại prodShock = 0; Biến aLabour đại diện cho tổng lao động của SMes (Bernard và Wagner, 1997; Bernard và Jensen, 1999; Aw, 2000; Rebecca, 2008), xác định tổng nhân công thuê trong thời gian đang hoạt động; Biến labourProd (labour productivity) là Năng suất lao động được tính bằng Giá trị tăng thêm (value added) trên Tổng nhân công (aLabour). Giá trị tăng thêm (Value Added) = Tổng sản phẩm (production) – Tổng chi phí nguyên vật liệu (raw materials) – Tổng chi phí gián tiếp (indirect cost) (Bernard và Wagner, 1997; Bernard và Jensen, 1999). Biến capLabour: Là tỷ lệ giữa vốn (capital) và tổng lao động (aLabour), capLabour = Vốn/Tổng lao động. Trong đó, Vốn được xác định bằng tổng tài sản hữu hình của DN (physical assets). 2.1.2. Kiểm định hiệu ứng Learning-By- Export Chúng tôi sử dụng hướng tiếp cận việc kiểm định hiệu ứng Learning-By-Exporting được đề xuất bởi Bigsten và cộng sự (2004), Fernandes và Isgut (2005) và Van Biesebroeck (2005). Mô hình được đề xuất tại phương trình 2. (2) 54 Phạm Đình Long và Nguyễn Chí Tâm. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 60(3), 50-58 lnLBP: Logarit (Năng suất lao động). export: Biến dummy có giá trị [0 1]. Số năm kinh nghiệm yearExp (year experience) được xác định bằng cách tính từ thời điểm thực hiện khảo sát trừ cho năm DN bắt đầu thực hiện xuất khẩu, yearExp = Năm khảo sát – Năm bắt đầu + 1, biến có giá trị từ [0 ... n]. Lợi nhuận từ xuất khẩu lnExRevenue xác định bằng tỷ lệ lợi nhuận từ xuất khẩu so với Tổng lợi nhuận DN đạt được trong năm (Clerides, 1998; Baldwin và Gu, 2003; Van Biesebroeck, 2005). Z1: Đại diện cho 2 yếu tố sản xuất là Vốn và Lao động, tính bằng logarit (capital) và logarit (aLabour). Z2: Các biến trong mô hình SS được tính bằng logarit, gồm: export, labourProd, alabour, capLabour, được lấy ở trễ 2. s: Ngành, nghề hoạt động của DN. e: Sai số của mô hình. Mô hình LBE được kiểm định nội sinh bằng phương pháp GMM, áp dụng cách thực hiện của Blundell và Bond (1998) là kiểm định biến phụ thuộc bị nội sinh bằng việc sử dụng biến công cụ là các biến dùng trong mô hình để hỗ trợ. 2.2. Kết quả nghiên cứu Kết quả kiểm định của mô hình Self-selection Biến mô hình FEM Tên các biến trong mô hình export prodShockt-1 2.175*** Cú shock năng suất aLabourt-1 0.000713 Tổng nhân công (qui mô) capLabourt-1 0.000508 Tỷ lệ vốn trên lao động labourProdt-1 -0.000453 Năng suất lao động gOwneri=1 -0.0555 Nhóm loại hình chủ sở hữu improveGoodsi=1 0.493 Cải thiện chất lượng sản phẩm gIndustryi=2 0.474 Nhóm ngành nghề xuất khẩu *** p < 0,01, ** p < 0,05, * p < 0,1 Mô hình trên đã kiểm soát tự tương quan và phương sai sai số thay đổi bằng ước lượng vững cho sai số chuẩn Nguồn: Tính toán của tác giả Với kết quả mô hình trên, có những phân tích sau: prodShock có tác động cùng chiều như kỳ vọng đến biến phụ thuộc là export. Như vậy, việc thay đổi năng suất lao động kỳ sau cao hơn kỳ trước có ý nghĩa quyết định đến việc gia nhập vào thị trường xuất khẩu của DN. Như giả thuyết ban đầu đã đề cập đến, đối với DN có năng suất vượt trội hơn những DN cùng ngành thì sẽ đi đến quyết định gia nhập thị trường xuất khẩu. Đối với số nhân công (aLabour) và tỷ lệ vốn trên nhân công (capLabour) có tác động cùng chiều với biến phụ thuộc, điều này Phạm Đình Long và Nguyễn Chí Tâm. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 60(3), 50-58 55 thể hiện rằng việc bước vào thị trường xuất khẩu ban đầu là chủ yếu do sự gia tăng về năng suất lao động, vốn và qui mô (tổng lao động) trong kỳ trước gần như không thay đổi (hệ số thấp). Tuy nhiên, với thời gian dài thì việc tăng về qui mô và đầu tư về vốn sẽ là điều tất yếu khi tham gia vào xuất khẩu, điều này phù hợp với giả thuyết về hiệu ứng LBE như đã định nghĩa ở trên. Đối với năng suất lao động (labourProd) có tác động ngược chiều so với kỳ vọng, nhưng với hệ số coef thấp thì tác động không đáng kể đến quyết định gia nhập xuất khẩu. Đối với biến loại hình chủ sở hữu (gOwner) có tác động ngược chiều với biến phụ thuộc cho thấy rằng việc xuất khẩu có tác động mạnh việc chuyển đổi loại hình hoạt động của DN từ dạng kinh doanh nhỏ lẻ như hộ gia đình, DN tư nhân sẽ ngày càng giảm, thay vào đó các DN dạng hộ gia đình với vốn của một cá nhân đầu tư sẽ chuyển sang loại hình có qui mô cao hơn với vốn góp là cổ phần của nhiều nơi, như vậy qui mô và vốn đầu tư sẽ tăng theo. Đối với cải thiện chất lượng sản phẩm (improveGoods) có tác động cùng chiều, tuy không đủ ý nghĩa thống kê nhưng cũng cho thấy rằng trong thời gian đầu gia nhập thị trường, DN không có sự thay đổi về chất lượng sản phẩm, nhưng có thể trong tương lai sẽ có sự cải thiện. Đối với biến ngành nghề (gIndustry) có tác động cùng chiều với biến phụ thuộc, cho thấy ngành nghề về khai thác tài nguyên và sản xuất máy móc có xu hướng xuất khẩu nhiều hơn so với các ngành khác. Kết quả mô hình Learning-By-Export Biến mô hình SGMM Tên biến lnLBP lnVAt-1 -0.0121 Giá trị tăng thêm L.export -0.137* Có hoạt động xuất khẩu lnCap 0.0183 Vốn của DN lnLabour -0.884*** Tổng nhân công lnExRevenue 0.898*** Lợi nhuận từ xuất khẩu yearExpt-1 0.0213** Số năm kinh nghiệm xuất khẩu Exportt-2 -0.0756 Có hoạt động xuất khẩu lnLBPt-2 -0.0387** Năng suất lao động lnLabourt-2 0.0232 Tổng nhân công lnCLt-2 0.0462* Tỷ lệ vốn trên lao động gIndustryi=2 0.0892 Nhóm ngành sản xuất (1: NPL và lương thực; 2: Tài nguyên) AR (1) 0,078 < 0,1 AR (2) 0,107 > 0,1 Hansen 0,913 > 0,1 Nguồn: Tính toán của tác giả 56 Phạm Đình Long và Nguyễn Chí Tâm. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 60(3), 50-58 Với kết quả kiểm định của AR (1) và AR (2) và Hansen của phương pháp là SGMM (System GMM) với hệ số Arellano-Bond và Hansen đạt mức giá trị phù hợp, kết luận mô hình không có hiện tượng nội sinh. Với kết quả mô hình như trên, có những nhận xét như sau: Việc xuất khẩu của kỳ trước có hiệu quả với DN, qui mô, năm kinh nghiệm trên thị trường xuất khẩu và lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu đều tăng theo. Tại thời điểm DN bắt đầu xuất khẩu thì qui mô không thay đổi (biến lnLabourt-2). Tuy nhiên, sau khi đã tham gia vào xuất khẩu, đến thời điểm hiện tại thì qui mô của DN có xu hướng tăng cao hơn so với thời điểm bắt đầu xuất khẩu. Lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu tăng, đồng thời số năm kinh nghiệm trong xuất khẩu cũng tăng theo, chứng tỏ xuất khẩu làm tăng lợi nhuận và tích lũy kinh nghiệm hoạt động trên thị trường xuất khẩu. 3. Kết luận Kết quả trên cho thấy, tác động của xuất khẩu đến năng suất của DN là có hiệu quả tích cực, phù hợp với lý thuyết và các nghiên cứu trước. Kết quả đã trả lời được câu hỏi là xuất khẩu tác động đến năng suất của DN và ngược lại, năng suất dưới tác động của xuất khẩu ngày càng tăng sẽ là động lực giúp DN tiếp tục duy trì việc xuất khẩu. Việc một DN muốn tham gia vào thị trường xuất khẩu cần phải có sự chuẩn bị về vốn và qui mô của DN. Khi tham gia vào thị trường xuất khẩu, có một sự cạnh tranh giữa những đối thủ từ quốc gia nhập khẩu và các hàng hóa khác cùng loại trên thị trường, ngoài ra còn có sự chọn lọc từ chính khách hàng với nhu cầu và thị hiếu đa dạng. Việc DN nổi trội hơn cùng ngành và qui mô cao hơn sẽ giúp cho DN có lợi thế về qui mô khi cạnh tranh với DN nước ngoài, trong thời gian đầu tham gia thị trường xuất khẩu, DN phải tốn một khoản chi phí nhất định cho những vấn đề sau: Chi phí thăm dò thị trường mới; Chi phí quảng cáo; Chi phí đầu tư mới cho sản phẩm. Những chi phí trên sẽ làm tăng giá thành của sản phẩm, nếu DN bán giá cao hơn giá mặt bằng chung của thị trường xuất khẩu thì hàng hóa sẽ không bán được và đồng nghĩa với việc lỗ. Do đó, lợi thế về qui mô sẽ giúp DN bù đắp lại phần chi phí phải bỏ ra khi sản xuất hàng hóa bán cho thị trường quốc tế, giúp giá thành cạnh tranh hơn, theo thời gian thì DN sẽ có chỗ đứng trong thị trường. Việc DN không có sự chuẩn bị về vốn và qui mô sẽ là một điểm hạn chế lớn với những chi phí và những vấn đề khác, và sẽ làm cho DN không thể tiếp tục duy trì xuất khẩu. Như vậy, một DN phải trở thành một DN hoạt động tốt hơn những DN trong cùng ngành để có thể tham gia và thị trường xuất khẩu, đồng thời tiếp tục duy trì và lớn mạnh hơn. Sau khi tham gia vào thị trường xuất khẩu, dưới tác động của thị trường, vốn và qui mô của DN cũng tăng theo, đồng thời lợi nhuận và kinh nghiệm cũng có sự tiến bộ hơn. Tuy nhiên, theo thời gian, DN lại có xu hướng rút ra khỏi thị trường xuất khẩu hơn, mặc dù việc tham gia vào xuất khẩu thời gian đầu thật sự có hiệu quả trong việc cải thiện tình hình hoạt động của DN. Tuy việc DN có xu hướng rút ra khỏi thị trường xuất khẩu do năng suất lao động giảm nhiều dù DN đã có sự vượt trội về qui mô và vốn như đã nêu ở trên. Khi xem xét lại môi trường kinh doanh của DN có thể nhận thấy, việc các SMEs tham gia vào xuất khẩu chủ yếu là các DN hộ gia đình, đây là loại hình DN không có qui mô lớn, vốn ít, ngành sản xuất đơn giản chủ yếu tập trung vào lĩnh vực khai thác tài nguyên và gia công sản phẩm. Tách biệt vai trò của năng suất lao động đối với xuất khẩu và xuất khẩu đối với năng suất lao động đã cho một cái nhìn chi tiết hơn về vai trò của từng tác động. Năng suất lao động là yếu tố đầu tiên mà một DN phải đạt được, đây là nền tảng vững chắc giúp DN có thể tiến vào thị trường xuất khẩu và có đủ thời gian để thích nghi và xuất khẩu thật sự làm thay đổi hoạt động kinh doanh của DN. Kết Phạm Đình Long và Nguyễn Chí Tâm. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 60(3), 50-58 57 quả của mô hình cho thấy là các DN cần có các biện pháp điều chỉnh phù hợp trong chiến lược kinh doanh của mình để nhằm đạt mục tiêu là tham gia xuất khẩu. Việc tham gia vào xuất khẩu nhìn chung là có lợi cho hoạt động kinh doanh, sản xuất của DN trong nhiều phương diện. Thị trường xuất khẩu làm cho DN có cơ hội đổi mới và cải thiện hoạt động kinh doanh của mình, với kết quả mô hình cho thấy rằng, DN khi tham gia vào sẽ tích lũy được kinh nghiệm trong hoạt động xuất khẩu đồng thời cải thiện thu nhập từ xuất khẩu của mình. Ngoài ra, bản thân DN phải chú trọng việc đổi mới công nghệ và chất lượng sản phẩm để có thể tiếp tục duy trì hoạt động xuất khẩu của mình Tài liệu tham khảo Arellano, M., Bond, S.R. (1991). Some tests of specification for panel data: Monte Carlo evidence and an application to employment equations. Review of Economic Studies, 58, 277-297. Aw, B., Chung, S. and Roberts, M. (2000). Productivity and turnover in the export market: micro-level evidence from Republic of Korea and Taiwan (China). World Bank Economic Review, 14(1), 65-90. Aw, B., Roberts, M., and Winston, T. (2007). Export market participation, investments in R&D and worker training, and the evolution of firm productivity. The World Economy, 14(1), 83-104. Aw, B., Roberts, M., and Yi Xu, D. (2011). R&D investments, exporting, and productivity dynamics. American Economic Review, 101(4), 1312-44. Baldwin, J. and W. Gu. (2003). Export-market Paritcipation and Productivity Performance in Canadian Manufacturing. Canadian Journal of Economics, 36(3), 634-657. Bernard, A. and J. Wagner. (1997). Exports and Success in German Manufacturing. Weltwirtschaftliches Archiv, 133(1), 134-147. Bernard, A., and Jensen, J. (1999). Exceptional exporter performance: cause, effect or both?. Journal of International Economics, 47(1), 1-25. Bigsten, A., and Gebreeyesus, M. (2009). Firm productivity and exports: evidence from Ethiopian manufacturing. Journal of Development Studies, University of Gothenburg Sweden, 45(10), 1594-1614. Bigsten, A., Collier, P., Dercon, S., Fafchamps, M., Gauthier, B., Gunning, J.W., Oduro, A., Oostendorp, R., Pattillo, C., Söderbom, M., Teal, F., and Zeufack, A. (2004). Do African manufacturing firms learn from exporting?. Journal of Development Studies, 40(3), 115-41. Blalock, G., and Gertler, P. (2004). Learning from exporting revisited in a less developed setting. Journal of Development Economics, 75, 397-416. Blundell, R., and Bond, S. (1998). Initial conditions and moment restrictions in dynamic panel data models. Journal of Econometrics, 87, 115-143. Clerides, S. K., Lach, S., and Tybout, J. R. (1998). Is learning by exporting important? Micro- dynamic evidence from Columbia, Mexico and Morocco. Quarterly Journal of Economics, 113(3), 903-47. Fernandes, A., and Isgut, A. (2005). Learning-by-doing, learning by exporting and productivity: Evidence from Colombia. World Bank, WPS3544. Giles, D.E.A, Giles, J.A and McCann, E. (1992). Causality, Unit Roots and Exported Growth: The New Zealand experience. Department of Economics, University of Canterbery. The Journal of International Trade and Economic Development, 1/2, November. 58 Phạm Đình Long và Nguyễn Chí Tâm. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 60(3), 50-58 Girma, S., Greenaway, D., and Kneller, R. (2004). Does exporting increase productivity? A microeconometric analysis of matched firms. Review of International Economics, 12(5), 855-866. Grossman and Helpman (1990). Comparative advantage and long-run growth. American Economic Review, 80(4), 796-815. Hansen, L.P., (1982). Large sample properties of generalised method of moment estimators. Econometrica, 50, 1029-1054. Krugman, P.R., Maurice Obstfeld, Melitz, M.J. International Economics: Theory and Policy 9th. Addison-Wesley, ISBN 214665-4. Lileeva, A., and Trefler, D. (2010). Improved access to foreign markets raises plant-level productivity for some plants. Quarterly Journal of Economics, 125(3), 1051-1099. Rebecca Freeman (2008). Labour productiviy indicators. OECD Statistics Directorate. Roberts, M., and Tybout, J. (1997). The decision to export in Colombia: an empirical model of entry with sunk costs. American Economic Review, 87, 545-564. Thirlwall A. P. (2003). Trade, the Balance of Payments and Exchange Rate policy in Developing Countries. Cheltenham Edward Elgar. Van Biesebroeck, J. (2005). Exporting raises productivity in sub-Saharan African Manufacturing Firms. Journal of International Economics, 67, 373-91. Van Huong Vu, (2012). Higher productivity in Exporters: Self-selection, learning by exporting or both? Evidence from Vietnamese manufacturing SMEs. Munich Personal RePEc Archive, 40708 (17), UTC. Xun Lu, Halbert White (2014). Robustness check and robustness tests in applied econometrics. Journal of Econometrics, 178, 194-206.
File đính kèm:
- moi_quan_he_giua_xuat_khau_va_nang_suat_lao_dong_cua_doanh_n.pdf