Mối quan hệ giữa thái độ ngôn ngữ và sự lựa chọn ngôn ngữ (Nghiên cứu trường hợp cộng đồng phương ngữ bắc tại Thành phố Hồ Chí Minh)

Sự lựa chọn ngôn ngữ là một vấn đề quan trọng và tất yếu sẽ nảy sinh trong giao tiếp ở các môi trường đa ngữ. Đặc biệt, trong giao tiếp đa phương ngữ, khi xuất hiện biến thể, tất yếu sẽ nảy sinh sự lựa chọn ngôn ngữ. Sự lựa chọn ngôn ngữ chịu tác động của nhiều yếu tố, yếu tố chủ quan và khách quan. Trong đó, thái độ ngôn ngữ là một yếu tố chủ quan đóng vai trò quan trọng.

Việc nghiên cứu thái độ ngôn ngữ, mối quan hệ giữa thái độ ngôn ngữ với hành vi ngôn ngữ và sự lựa chọn ngôn ngữ là hết sức cần thiết và có ý nghĩa. Bài viết này tìm hiểu mối quan hệ giữa thái độ ngôn ngữ với sự lựa chọn ngôn ngữ của người Việt qua tư liệu tiếng Việt trên cơ sở nghiên cứu trường hợp đối với việc sử dụng một số tiểu từ tình thái cuối câu của cộng đồng phương ngữ Bắc (PNB) tại Thành phố Hồ Chí Minh (Tp. HCM).

Mối quan hệ giữa thái độ ngôn ngữ và sự lựa chọn ngôn ngữ (Nghiên cứu trường hợp cộng đồng phương ngữ bắc tại Thành phố Hồ Chí Minh) trang 1

Trang 1

Mối quan hệ giữa thái độ ngôn ngữ và sự lựa chọn ngôn ngữ (Nghiên cứu trường hợp cộng đồng phương ngữ bắc tại Thành phố Hồ Chí Minh) trang 2

Trang 2

Mối quan hệ giữa thái độ ngôn ngữ và sự lựa chọn ngôn ngữ (Nghiên cứu trường hợp cộng đồng phương ngữ bắc tại Thành phố Hồ Chí Minh) trang 3

Trang 3

Mối quan hệ giữa thái độ ngôn ngữ và sự lựa chọn ngôn ngữ (Nghiên cứu trường hợp cộng đồng phương ngữ bắc tại Thành phố Hồ Chí Minh) trang 4

Trang 4

Mối quan hệ giữa thái độ ngôn ngữ và sự lựa chọn ngôn ngữ (Nghiên cứu trường hợp cộng đồng phương ngữ bắc tại Thành phố Hồ Chí Minh) trang 5

Trang 5

Mối quan hệ giữa thái độ ngôn ngữ và sự lựa chọn ngôn ngữ (Nghiên cứu trường hợp cộng đồng phương ngữ bắc tại Thành phố Hồ Chí Minh) trang 6

Trang 6

Mối quan hệ giữa thái độ ngôn ngữ và sự lựa chọn ngôn ngữ (Nghiên cứu trường hợp cộng đồng phương ngữ bắc tại Thành phố Hồ Chí Minh) trang 7

Trang 7

Mối quan hệ giữa thái độ ngôn ngữ và sự lựa chọn ngôn ngữ (Nghiên cứu trường hợp cộng đồng phương ngữ bắc tại Thành phố Hồ Chí Minh) trang 8

Trang 8

Mối quan hệ giữa thái độ ngôn ngữ và sự lựa chọn ngôn ngữ (Nghiên cứu trường hợp cộng đồng phương ngữ bắc tại Thành phố Hồ Chí Minh) trang 9

Trang 9

Mối quan hệ giữa thái độ ngôn ngữ và sự lựa chọn ngôn ngữ (Nghiên cứu trường hợp cộng đồng phương ngữ bắc tại Thành phố Hồ Chí Minh) trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang Trúc Khang 11/01/2024 1700
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Mối quan hệ giữa thái độ ngôn ngữ và sự lựa chọn ngôn ngữ (Nghiên cứu trường hợp cộng đồng phương ngữ bắc tại Thành phố Hồ Chí Minh)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối quan hệ giữa thái độ ngôn ngữ và sự lựa chọn ngôn ngữ (Nghiên cứu trường hợp cộng đồng phương ngữ bắc tại Thành phố Hồ Chí Minh)

Mối quan hệ giữa thái độ ngôn ngữ và sự lựa chọn ngôn ngữ (Nghiên cứu trường hợp cộng đồng phương ngữ bắc tại Thành phố Hồ Chí Minh)
NGÔN NGỮ 
SỐ 11 2012 
MỐI QUAN HỆ GIỮA THÁI ĐỘ NGÔN NGỮ 
VÀ SỰ LỰA CHỌN NGÔN NGỮ 
(Nghiên cứu trường hợp cộng đồng phương ngữ Bắc 
tại Thành phố Hồ Chí Minh) 
 PGS.TS TRỊNH CẨM LAN
1. Đặt vấn đề 
Sự lựa chọn ngôn ngữ là một vấn 
đề quan trọng và tất yếu sẽ nảy sinh 
trong giao tiếp ở các môi trường đa 
ngữ. Đặc biệt, trong giao tiếp đa phương 
ngữ, khi xuất hiện biến thể, tất yếu 
sẽ nảy sinh sự lựa chọn ngôn ngữ. Sự 
lựa chọn ngôn ngữ chịu tác động của 
nhiều yếu tố, yếu tố chủ quan và khách 
quan. Trong đó, thái độ ngôn ngữ là 
một yếu tố chủ quan đóng vai trò 
quan trọng. 
Việc nghiên cứu thái độ ngôn ngữ, 
mối quan hệ giữa thái độ ngôn ngữ 
với hành vi ngôn ngữ và sự lựa chọn 
ngôn ngữ là hết sức cần thiết và có ý 
nghĩa. Bài viết này tìm hiểu mối quan 
hệ giữa thái độ ngôn ngữ với sự lựa 
chọn ngôn ngữ của người Việt qua tư 
liệu tiếng Việt trên cơ sở nghiên cứu 
trường hợp đối với việc sử dụng một 
số tiểu từ tình thái cuối câu của cộng 
đồng phương ngữ Bắc (PNB) tại Thành 
phố Hồ Chí Minh (Tp. HCM). 
2. Cơ sở lí luận 
2.1. Thái độ ngôn ngữ 
Thái độ ngôn ngữ (language 
attitude), theo góc nhìn của các nhà 
tâm lí học xã hội, thường tập trung 
vào lí giải việc các cá nhân tham gia 
giao tiếp làm gì với ngôn ngữ và nghĩ 
gì về ngôn ngữ? Thái độ ngôn ngữ 
thường được nghiên cứu theo hai khuynh 
hướng: khuynh hướng tinh thần luận 
(mentalism) và khuynh hướng hành 
vi luận (behaviorism). Theo tinh thần 
luận, thái độ được Williams (1974) định 
nghĩa là “trạng thái bên trong do một 
loại kích thích nào đó gây nên và trạng 
thái đó có thể làm trung gian cho những 
phản ứng của cơ thể xảy ra sau đó” [1]. 
Theo quan điểm này, thái độ của cá 
nhân với đối tượng sẽ quy định sự ứng 
xử của cá nhân với đối tượng ấy, nghĩa 
là thái độ sẽ dẫn đến hành vi và ngược 
lại, hành vi là kết quả của thái độ. Hạn 
chế của hướng tiếp cận tinh thần luận 
là ở phương pháp thí nghiệm, bởi lẽ 
nếu như thái độ được xem như một 
trạng thái bên trong hơn là những phản 
ứng có thể quan sát được từ bên ngoài 
thì chúng ta phải dựa vào những biểu 
hiện gián tiếp của những trạng thái đó 
và những biểu hiện này hoàn toàn không 
dễ phát hiện. Còn theo hướng tiếp cận 
hành vi luận, thái độ được nhìn thấy 
một cách giản đơn từ những phản ứng 
của con người đối với những cảnh 
huống xã hội. Điều đó có nghĩa là thái 
độ của cá nhân nằm ngay ở hành vi 
của cá nhân đó, và vì vậy, muốn biết 
thái độ, chỉ cần quan sát hành vi. Như 
 Ngôn ngữ số 11 năm 2012 4
vậy, thái độ chính là một loại hành 
vi [1]. Nghiên cứu thái độ ngôn ngữ 
theo hướng này đơn giản hơn ở chỗ 
nhà nghiên cứu chỉ cần quan sát và 
phân tích sự ứng xử công khai. Do 
những ưu điểm này mà khuynh hướng 
hành vi luận được nhiều nhà nghiên 
cứu áp dụng. Việc nghiên cứu thái độ 
ngôn ngữ của chúng tôi cũng thực hiện 
trên cơ sở cách tiếp cận này. 
Thái độ ngôn ngữ được phân biệt 
với thái độ nói chung ở chỗ nó hướng 
tới ngôn ngữ. Nghiên cứu thái độ ngôn 
ngữ có thể giải đáp những vấn đề chẳng 
hạn như: các biến thể của một ngôn 
ngữ nào đó là phong phú hay nghèo 
nàn? gợi cảm hay không gợi cảm? dễ 
nghe hay khó nghe? chuẩn mực hay 
không chuẩn mực?...; hoặc xem xét 
thái độ đối với người nói một ngôn 
ngữ hay phương ngữ nào đó; hay cũng 
có khi là thái độ hướng tới người nói 
những biến thể ngôn ngữ chứ không 
hướng tới bản thân ngôn ngữ. 
Việc hình thành thái độ ngôn ngữ 
chịu sự ảnh hưởng của nhiều nhân tố 
xã hội như tuổi tác, giới tính, trình độ 
giáo dục, nghề nghiệp... Ngược lại, 
rất nhiều những hành vi ứng xử ngôn 
từ lại chịu ảnh hưởng trực tiếp của thái 
độ ngôn ngữ. Trong giao tiếp đa phương 
ngữ, thái độ ngôn ngữ có thể ảnh hưởng 
tới việc nhìn nhận tích cực hay không 
tích cực về một biến thể ngôn ngữ nào 
đó và vì vậy, nó sẽ ảnh hưởng trực 
tiếp đến việc lựa chọn biến thể nào 
để giao tiếp. Thông qua sự nhìn nhận 
đối với các biến thể, cùng với ảnh hưởng 
của một số nhân tố xã hội khác, thái 
độ ngôn ngữ có thể hướng tới sự biến 
đổi hay bảo lưu trong ứng xử ngôn 
từ, hướng tới việc nhìn nhận tích cực 
hay không tích cực đối với sự biến 
đổi hay bảo lưu đó. 
2.2. Sự lựa chọn ngôn ngữ 
Sự lựa chọn ngôn ngữ (language 
choice) là một phạm vi nghiên cứu 
trong ngôn ngữ học xã hội, nghiên 
cứu những nhân tố chi phối việc lựa 
chọn một ngôn ngữ hay một biến thể 
ngôn ngữ nào đó của một người giao 
tiếp và những cơ chế của sự lựa chọn 
đó. Sự lựa chọn có thể là kết quả của 
một hành vi có ý thức với ý định chủ 
quan, cũng có thể diễn ra một cách 
vô thức và ngoài ý định chủ quan của 
chủ thể. Khi sự lựa chọn là kết quả 
của một hành vi có ý thức, người ta 
nói rằng đó là tác động của thái độ 
ngôn ngữ. 
Về mặt lí thuyết, sự lựa chọn ngôn 
ngữ là một hiện tượng tất yếu sẽ xảy 
ra trong giao tiếp ở môi trường đa ngữ 
hay đa phương ngữ. Trên thực tế, có 
một số loại lựa chọn khác nhau, với 
cơ chế khác nhau, và tất nhiên, sẽ được 
dán nhãn khác  ... n những cá nhân thuộc cộng đồng 
được nghiên cứu cũng không có thái độ 
tích cực đối với sự thay đổi của chính 
những thành viên thuộc cộng đồng mình 
và có lẽ đó chính là nguyên nhân lí giải 
cho khuynh hướng bảo lưu rất cao các 
biến thể Bắc. Nhìn vấn đề từ một góc 
độ khác, góc độ đặc trưng ngữ dụng 
của bản thân các tiểu từ tình thái cuối 
câu trong phương ngữ Nam, có thể thấy 
rằng có một số tiểu từ của phương ngữ 
này mà người nghe chỉ cảm thấy gần 
gũi, dễ nghe khi nó được nói bằng một 
âm hưởng đậm chất Nam bộ, còn nếu 
giọng nói không mang âm hưởng ấy 
thì việc sử dụng các tiểu từ này dường 
như là khó có thể chấp nhận. 
Trong khi sự biến đổi không nhận 
được sự đánh giá tích cực của cộng 
đồng thì sự bảo lưu, tức việc người gốc 
Bắc dùng biến thể Bắc lại giành được 
thái độ đánh giá rất tích cực. Bảng 1 
cho thấy các chỉ số không thích, không 
gần gũi, không dễ nghe rất thấp cũng 
có nghĩa là chỉ số thích, gần gũi, dễ 
 Ngôn ngữ số 11 năm 2012 8
nghe rất cao đối với sự bảo lưu này. 
Các thang đo có giá trị trung bình lần 
lượt là 2,37; 2,21 và 2,33. Nếu so với 
chỉ số đánh giá việc người Bắc dùng 
biến thể Nam thì đây là một khoảng 
cách rất lớn. Điều này phản ánh tính 
khuynh hướng rõ rệt về thái độ ngôn 
ngữ của cộng đồng đối với các biến 
thể mà họ cần lựa chọn. 
Tương tự, sự đánh giá tốt của 
cộng đồng PNB tại Tp HCM cũng dành 
cho các biến thể Nam do người Nam 
sử dụng. Các giá trị trung bình của cả 
ba thang đo ở mức tương tự như thái 
độ đánh giá đối với người gốc Bắc dùng 
biến thể Bắc. Các ý kiến cũng đều có 
độ tập trung cao ở các nấc thang 1 và 2, 
cao nhất nằm ở bậc 1. Như vậy, các 
biến thể Nam của các tiểu từ tình thái 
nếu được người Nam với chất giọng 
và âm hưởng đặc trưng của phương 
ngữ Nam Bộ sử dụng thì lại nhận được 
sự đánh giá rất tích cực của cộng đồng 
PNB, đặc biệt là ở cảm giác nhẹ nhàng, 
mềm mại, dễ nghe và nhiều khi rất dễ 
thương (nếu người sử dụng là nữ). 
Đây chính là những nhận định chúng 
tôi thu được khi phỏng vấn sâu một 
số CTV thuộc cộng đồng PNB. 
4.2. Thái độ ngôn ngữ trong tương 
quan với các đặc trưng xã hội của 
người nói 
Để khảo sát tương quan giữa thái 
độ ngôn ngữ với các đặc trưng xã hội 
của người nói, trước hết chúng tôi thực 
hiện một thao tác quy đổi hai câu trả 
lời trên thang đo đạc ngữ nghĩa với 7 
bậc trên đây thành câu trả lời với 3 
phương án lựa chọn. Câu hỏi 1 với nội 
dung là “Việc người gốc Bắc chuyển 
dùng từ biến thể Bắc sang biến thể Nam 
là có cần thiết hay không?” và câu hỏi 
2 với nội dung là “Việc người gốc Bắc 
chuyển dùng từ biến thể Bắc sang biến 
thể Nam là hay hay không hay?”. 
CTV đánh dấu ở nấc 1 và 2 sẽ 
tương đương với phương án trả lời 
“khẳng định”; CTV đánh dấu ở nấc 6 
và 7 sẽ tương đương với phương án 
trả lời “phủ định”; CTV đánh dấu ở 
nấc 3, 4 và 5 sẽ tương đương với phương 
án trả lời “trung dung”. Tỉ lệ các phương 
án trả lời như sau: 
Bảng 2: Thái độ đối với việc thay đổi (2) 
Thang đánh giá 
% các phương án trả lời 
Khẳng định Trung dung Phủ định Tổng 
Cần - không cần 12,7 28,6 58,7 100% 
Hay - không hay 11,2 31,7 57,1 100% 
Kết quả ở bảng 2 cho thấy ở cộng 
đồng PNB tại Tp HCM, thái độ phủ 
định đối với sự thay đổi chiếm đa số 
(58,7 và 57,1%), điều đó cũng có nghĩa 
là người gốc Bắc tại Tp HCM có xu 
hướng tán đồng đối với sự bảo lưu các 
biến thể Bắc trong cộng đồng của họ. 
Thật vậy, 12,7 và 11,2% số CTV cho 
rằng cần phải thay đổi và sự thay đổi 
đó là hay là những tỉ lệ rất nhỏ so với 
xấp xỉ 90% tổng số CTV có thái độ 
trung dung và ngược lại. Tỉ lệ đó có 
Mối quan hệ... 9 
sự tương ứng hợp lí với những giá trị 
đã đưa ra ở bảng 1 theo cách tính của 
Lambert trên các thang đo. Những kết 
quả thể hiện trên hai bảng 1 và 2 có thể 
sẽ là những dự báo có ý nghĩa đối với 
sự lựa chọn các biến thể trên thực tế. 
Như đã trình bày, thái độ ngôn 
ngữ của một cá nhân, về mặt lí thuyết, 
cũng chịu những ảnh hưởng nhất định 
bởi những đặc điểm xã hội của cá nhân 
đó. Để minh họa điều này qua thực 
tiễn tiếng Việt, chúng tôi cũng thử khảo 
sát mối tương quan giữa thái độ ngôn 
ngữ với một vài đặc trưng xã hội được 
giả định là có ảnh hưởng nào đó đến 
việc một cá nhân có thái độ như thế 
nào đối với ngôn ngữ và đối với việc 
sử dụng ngôn ngữ của mình. Bảng 3 
là những kết quả khảo sát mối tương 
quan đó. 
Bảng 3: Tương quan giữa thái độ ngôn ngữ với các đặc trưng xã hội của 
người nói 
Các đặc trưng xã hội 
% các phương án trả lời 
Khẳng định Trung dung Phủ định Tổng 
Giới tính Nam 
 Nữ 
p = 0,039 (*)
1 
7,1 
17,1 
25,0 
31,4 
67,9 
51,4 
100 
100 
Trình độ giáo dục: Đại học – 
 Đại học + 
p = 0,065 (+) 
19,2 
8,1 
23,1 
32,4 
57,7 
59,5 
100 
100 
Đăc điểm 
hôn nhân 
Kết hôn với 
người Bắc 
Kết hôn với 
người Nam 
Chưa gia đình p 
= 0,400 
13,2 
16,7 
7,7 
26,3 
41,7 
23,1 
60,5 
41,7 
69,2 
100 
100 
100 
Tính chất 
công việc 
Giao tiếp ít 
Giao tiếp nhiều 
p = 0,766 
15,4 
12,0 
23,1 
30,0 
61,5 
58,0 
100 
100 
Theo kết quả trên đây, có một 
sự khác biệt tương đối về thái độ giữa 
nam và nữ. Theo đó, nhóm nữ có thái 
độ khẳng định đối với sự thay đổi mạnh 
hơn rõ rệt đối với nhóm nam (17,1 
so với 7,1), ngược lại, nhóm nam có 
thái độ phủ định đối với sự thay đổi 
này mạnh hơn rõ rệt so với nhóm nữ. 
Điều đó có nghĩa là nam có thái độ 
khẳng định đối với sự bảo lưu và nữ 
có thái độ khẳng định đối với sự biến 
đổi mạnh hơn nhóm còn lại. Tương 
quan này có sự khác biệt đạt mức đáng 
kể thống kê với p = 0,039. Tiếp đó, 
 Ngôn ngữ số 11 năm 2012 10
trong tương quan giữa trình độ giáo 
dục với thái độ ngôn ngữ, thái độ khẳng 
định rằng cần biến đổi nghiêng về phía 
nhóm CTV có trình độ dưới đại học 
và thái độ phủ định điều này nghiêng 
hẳn về phía nhóm có trình độ từ đại 
học trở lên. Điều đó có nghĩa là nhóm 
có trình độ học vấn cao tỏ rõ xu hướng 
bảo lưu các biến thể Bắc của cộng đồng 
mình. Giá trị của p cho thấy sự khác 
biệt chưa đáng kể song cũng rất có ý 
nghĩa. Trong khi đó, sự khác biệt về 
đặc điểm hôn nhân và tính chất công 
việc lại không cung cấp cho ta một chỉ 
báo có ý nghĩa nào về thái độ khẳng 
định hay phủ định đối với sự thay đổi. 
Vấn đề đặt ra ở đây là liệu có tồn tại 
một độ chênh nào đấy giữa thái độ 
ngôn ngữ (mang tính chủ quan) với 
việc sử dụng các biến thể ngôn ngữ 
trên thực tế (mang tính khách quan) 
hay không? Câu trả lời sẽ được tìm 
ra ở phần tiếp theo của bài viết. 
4.3. Thái độ ngôn ngữ đối với 
sự lựa chọn ngôn ngữ 
Khảo sát tương quan giữa thái 
độ ngôn ngữ với sự lựa chọn các biến 
thể ngôn ngữ của cộng đồng PNB tại 
Tp HCM trên thực tế, chúng tôi thu 
được kết quả như sau: 
Bảng 4: Tương quan giữa thái độ ngôn ngữ với việc lựa chọn các biến thể 
Tiểu từ 
Ngôn 
trung 
 Thái độ 
 % lựa chọn các biến thể 
Tổng Biến thể Nam Biến thể Bắc 
à (Bắc) 
hoặc ha 
(Nam) 
Hỏi - đoán Khẳng định 37,5 62,5 100 
Phủ định 8,1 91,9 100 
Trung dung 11,2 88,9 100 
 p = 0,075(+) 
Hỏi - đánh 
giá 
Khẳng định 50,0 50,0 100 
Phủ định 16,2 83,8 100 
Trung dung 11,1 88,9 100 
 p = 0,050 (*) 
chứ (Bắc) 
hoặc ha/ 
chớ (Nam) 
Khẳng 
định - bác 
bỏ 
Khẳng định 75,0 25,0 100 
Phủ định 16,2 83,8 100 
Trung dung 33,2 66,7 100 
 p = 0,003 (**) 
nhé (Bắc) 
hoặc 
nghe/ 
nghen 
(Nam) 
Chào Khẳng định 87,5 12,5 100 
Phủ định 43,2 56,8 100 
Trung dung 66,7 33,3 100 
 p = 0,039 (*) 
Mối quan hệ... 11 
 Đề nghị Khẳng định 50,0 50.0 100 
Phủ định 24,3 75,7 100 
Trung dung 55,6 44,4 100 
 p = 0,045 (*) 
Hỏi - xin 
phép 
Khẳng định 75,0 25,0 100 
Phủ định 27,0 73,0 100 
Trung dung 50,0 50,0 100 
 p = 0,024 (*) 
hả (Bắc) 
hoặc ha 
(Nam) 
Hỏi - chào Khẳng định 50,0 50,0 100 
Phủ định 5,4 94,6 100 
Trung dung 5,6 94,4 100 
 p = 0,001 (**) 
này (Bắc) 
hoặc nè 
(Nam) 
Thu hút sự 
chú ý 
Khẳng định 62,5 37,5 100 
Phủ định 16,2 83,8 100 
Trung dung 22,2 77,8 100 
 p = 0,020 (*) 
Bảng 4 cho thấy tỉ lệ CTV có thái 
độ khẳng định là cần phải thay đổi có 
tỉ lệ sử dụng các biến thể Nam trên 
thực tế cao hơn hẳn hai nhóm còn lại. 
Ở tất cả các tiểu từ với các đích ngôn 
trung được khảo sát, tỉ lệ này đều cao 
trên 50%, một số đích ngôn trung lên 
tới trên 70 hay 80%. Ngược lại, nhóm 
CTV có thái độ phủ định đối với việc 
cần phải thay đổi có tỉ lệ sử dụng các 
biến thể Bắc trên thực tế cũng cao hơn 
hẳn hai nhóm còn lại, thậm chí, ở một 
số đích ngôn trung, tỉ lệ này cao đến 
mức rất ấn tượng (thu hút sự chú ý: 
83,8%; hỏi - đoán: 91,9%; hỏi - chào: 
94%...). Ở đây, còn có một điều thực 
sự rất thú vị là nhóm CTV có thái độ 
trung dung, về cơ bản, lại cũng có tỉ 
lệ sử dụng các biến thể Bắc cao hơn 
hẳn tỉ lệ sử dụng các biến thể Nam 
tương ứng. Tất nhiên, đối với nhóm 
này, ở một vài đích ngôn trung vẫn 
tồn tại sự tương ứng đồng đều giữa 
hai loại biến thể và cá biệt có một - 
hai đích ngôn trung có tỉ lệ sử dụng 
biến thể Nam cao hơn nhưng không 
đáng kể. Điều quan trọng là các tương 
quan giữa thái độ ngôn ngữ và sự lựa 
chọn các biến thể ngôn ngữ trong bảng 4 
trên đây đều đạt mức độ khác biệt đáng 
kể. Chính sự khác biệt đáng kể trong 
các tương quan này cho thấy một khuynh 
hướng rõ nét trong ngôn từ của cộng 
đồng được nghiên cứu. Theo đó trên thực 
tế, những người có thái độ khẳng định 
rằng cần phải thay đổi sẽ có xu hướng 
chuyển dùng các biến thể Nam, ngược 
lại, người có thái độ phủ định sẽ có 
xu hướng bảo lưu mạnh mẽ các biến 
thể Bắc. Mối tương quan thuận như 
 Ngôn ngữ số 11 năm 2012 12
vậy cũng được tìm thấy ở một số cộng 
đồng ngôn từ khác như cộng đồng làng 
Tân Khai, xã Vĩnh Tuy, Hà Nội trong 
nghiên cứu của Vũ Thị Thanh Hương 
với sự tương hợp giữa thái độ chấp 
nhận chuẩn với việc sử dụng đúng 
chuẩn trên thực tế đối với hai âm "l" 
và "n" [7]. Cộng đồng Nghệ Tĩnh ở 
Hà Nội trong nghiên cứu của chúng 
tôi cách đây vài năm cũng biểu hiện 
tương quan thuận giữa thái độ đối với 
một biến thể và việc lựa chọn biến 
thể đó trong giao tiếp [5]. 
5. Kết luận 
Kết quả nghiên cứu đã lần lượt 
trả lời ba câu hỏi đặt ra. Về thái độ 
đối với các biến thể ngôn ngữ, biến 
thể Nam của các tiểu từ tình thái cuối 
câu trong ngôn từ của cộng đồng PNB 
tại Tp HCM không nhận được sự ưa 
thích của chính họ, trong khi đó chính 
các biến thể đó trong ngôn từ của cộng 
đồng người Nam lại giành được sự 
ưa thích khá cao của cộng đồng PNB. 
Ngược lại, thái độ ủng hộ, ưa thích, 
cảm giác gần gũi, dễ nghe lại dành 
cho các biến thể Bắc trong ngôn từ 
của cộng đồng này. Kết quả nghiên 
cứu cũng cung cấp những bằng chứng 
quan trọng về mối tương quan thuận 
giữa thái độ ngôn ngữ và sự lựa chọn 
ngôn ngữ. Theo đó, thái độ tích cực 
đối với một biến thể ngôn ngữ nào 
đó có thể là dự báo cho sự chấp nhận 
và lựa chọn biến thể đó trong giao tiếp 
thực tế và ngược lại. Thực tế cho thấy, 
thái độ khẳng định đối với các biến 
thể Bắc và phủ định đối với các biến 
thể Nam của các tiểu từ tình thái cuối 
câu trong cộng đồng PNB đã dẫn đến 
khuynh hướng bảo lưu rõ rệt các biến 
thể Bắc trong ngôn từ của cộng đồng 
này. Như vậy, trái ngược hẳn với xu 
hướng thích nghi trong ứng xử ngôn 
từ ở nhiều cộng đồng khác nhau đã 
từng được nghiên cứu trong và ngoài 
nước, thái độ và sự lựa chọn ngôn ngữ 
của cộng đồng PNB tại Tp HCM đặt 
ra những giả định để chúng ta phải 
suy ngẫm và lí giải. Vấn đề đặt ra ở 
đây là những điều gì, những yếu tố 
nào chi phối việc hình thành thái độ 
và sự lựa chọn ngôn ngữ ngoài cảm 
giác và định giá chung của cộng đồng 
về các biến thể ngôn ngữ, ngoài một 
vài đặc trưng xã hội của người nói mà 
kết quả nghiên cứu trên kia đã thể hiện. 
Liệu những yếu tố như ngữ vực, phạm 
vi giao tiếp, đối tượng giao tiếp trong 
những tình huống giao tiếp cụ thể, rồi 
những vấn đề thuộc về ngôn điệu, những 
tương quan giữa đặc trưng xã hội và 
ngôn điệu của người nói có tham 
gia vào việc hình thành thái độ và sự 
lựa chọn ngôn ngữ hay không? Đây 
là những giả định mà chúng tôi có cảm 
giác là có cơ sở và hiện thực. Tuy nhiên, 
những tư liệu có trong tay chưa giúp 
chúng tôi có đủ bằng chứng khách 
quan để khẳng định điều đó. Câu trả 
lời vẫn còn ở phía trước. 
CHÚ THÍCH 
 p là độ khác biệt có ý nghĩa thống 
kê. Độ khác biệt này được xác định bằng 
một loại test kiểm định mức độ đáng kể 
của thống kê có tên là Chi-Square Test. 
Theo quy ước chung của SPSS, mức độ 
khác biệt có ý nghĩa thống kê được tính 
là 95%, tức là khi Chi-Square Test cho 
giá trị của p = 0,05. Tất cả mọi giá trị 
của p ≤ 0,05 đều được xem như là đạt 
mức độ khác biệt có ý nghĩa thống kê và 
p > 0,05 được xem như là không đạt mức 
độ khác biệt có ý nghĩa thống kê. Theo 
Mối quan hệ... 13 
đó, dấu (*) thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê, còn dấu (**) thể hiện sự khác 
biệt rất có ý nghĩa thống kê, còn dấu (+) 
thể hiện mức độ khác biệt gần đạt mức 
đáng kể thống kê mà trong một số trường 
hợp thì đây cũng là mức độ khác biệt 
đáng lưu ý. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Fasold, R. W., The sociolinguistics 
of society, Basil Blackwell, New York, 
1984. 
2. Lương Văn Hy, Ngôn từ, giới 
và nhóm xã hội: dẫn nhập một số vấn 
đề cơ bản và những trường phái lí thuyết 
chính, Trong Ngôn từ, giới và nhóm xã 
hội từ thực tiễn tiếng Việt, Nxb KHXH, 
H., 2000. 
3. Nguyễn Văn Khang, Ngôn ngữ 
học xã hội - những vấn đề cơ bản, Nxb 
KHXH, H., 1999. 
4. Trần Thị Ngọc Lang, Sự tiếp 
xúc giữa các phương ngữ ở Thành phố 
Hồ Chí Minh, Trong Những vấn đề ngôn 
ngữ học về các ngôn ngữ phương Đông, 
Viện ngôn ngữ học, H., 1986. 
5. Trịnh Cẩm Lan, Sự biến đổi 
ngôn từ của các cộng đồng chuyển cư 
đến thủ đô - Nghiên cứu trường hợp 
cộng đồng Nghệ Tĩnh ở Hà Nội, Nxb 
KHXH, 2007. 
6. Trịnh Cẩm Lan, Nghiên cứu sự 
biến đổi ngôn từ của cộng đồng Phương 
ngữ Bắc đến TPHCM sau 1975 (trên 
cứ liệu cách dùng một số tiểu từ tình 
thái cuối câu, Đề tại KHCN đặc biệt 
cấp ĐHQG Hà Nội, 2011. 
7. Vũ Thị Thanh Hương, Bước 
đầu tìm hiểu mối qua hệ giữa thái độ 
và hành vi ngôn ngữ, Kỉ yếu Hội thảo 
ngôn ngữ học Liên Á, ĐHQG Hà Nội 
& Viện KHXHVN, H., 2004. 
SUMMARY 
Through an analysis of language 
attitude the choice of modal partical 
in a Northern dialect community in 
Ho Chi Minh city , the paper points 
out a meaningfull relation between 
language attitude and language choice. 
The results suggest that the Northern 
dialect community in Ho Chi Minh 
city has a possitive attitude to Northern 
variants and a negative attitude to 
Southern variants in their speech 
community. The results also supply 
important evidences about the correlation 
between language attitude and language 
choice. As the result, the positive attitude 
to a certain variant can make speakers 
accept and choose that variant, on the 
contrary, the negative attitude to a 
certain variant can make speakers not 
to accept and not to choose the variant 
to communicate. 

File đính kèm:

  • pdfmoi_quan_he_giua_thai_do_ngon_ngu_va_su_lua_chon_ngon_ngu_ng.pdf