Mối quan hệ giữa thái độ ngôn ngữ và sự lựa chọn ngôn ngữ (Nghiên cứu trường hợp cộng đồng phương ngữ bắc tại Thành phố Hồ Chí Minh)
Sự lựa chọn ngôn ngữ là một vấn đề quan trọng và tất yếu sẽ nảy sinh trong giao tiếp ở các môi trường đa ngữ. Đặc biệt, trong giao tiếp đa phương ngữ, khi xuất hiện biến thể, tất yếu sẽ nảy sinh sự lựa chọn ngôn ngữ. Sự lựa chọn ngôn ngữ chịu tác động của nhiều yếu tố, yếu tố chủ quan và khách quan. Trong đó, thái độ ngôn ngữ là một yếu tố chủ quan đóng vai trò quan trọng.
Việc nghiên cứu thái độ ngôn ngữ, mối quan hệ giữa thái độ ngôn ngữ với hành vi ngôn ngữ và sự lựa chọn ngôn ngữ là hết sức cần thiết và có ý nghĩa. Bài viết này tìm hiểu mối quan hệ giữa thái độ ngôn ngữ với sự lựa chọn ngôn ngữ của người Việt qua tư liệu tiếng Việt trên cơ sở nghiên cứu trường hợp đối với việc sử dụng một số tiểu từ tình thái cuối câu của cộng đồng phương ngữ Bắc (PNB) tại Thành phố Hồ Chí Minh (Tp. HCM).
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối quan hệ giữa thái độ ngôn ngữ và sự lựa chọn ngôn ngữ (Nghiên cứu trường hợp cộng đồng phương ngữ bắc tại Thành phố Hồ Chí Minh)
NGÔN NGỮ SỐ 11 2012 MỐI QUAN HỆ GIỮA THÁI ĐỘ NGÔN NGỮ VÀ SỰ LỰA CHỌN NGÔN NGỮ (Nghiên cứu trường hợp cộng đồng phương ngữ Bắc tại Thành phố Hồ Chí Minh) PGS.TS TRỊNH CẨM LAN 1. Đặt vấn đề Sự lựa chọn ngôn ngữ là một vấn đề quan trọng và tất yếu sẽ nảy sinh trong giao tiếp ở các môi trường đa ngữ. Đặc biệt, trong giao tiếp đa phương ngữ, khi xuất hiện biến thể, tất yếu sẽ nảy sinh sự lựa chọn ngôn ngữ. Sự lựa chọn ngôn ngữ chịu tác động của nhiều yếu tố, yếu tố chủ quan và khách quan. Trong đó, thái độ ngôn ngữ là một yếu tố chủ quan đóng vai trò quan trọng. Việc nghiên cứu thái độ ngôn ngữ, mối quan hệ giữa thái độ ngôn ngữ với hành vi ngôn ngữ và sự lựa chọn ngôn ngữ là hết sức cần thiết và có ý nghĩa. Bài viết này tìm hiểu mối quan hệ giữa thái độ ngôn ngữ với sự lựa chọn ngôn ngữ của người Việt qua tư liệu tiếng Việt trên cơ sở nghiên cứu trường hợp đối với việc sử dụng một số tiểu từ tình thái cuối câu của cộng đồng phương ngữ Bắc (PNB) tại Thành phố Hồ Chí Minh (Tp. HCM). 2. Cơ sở lí luận 2.1. Thái độ ngôn ngữ Thái độ ngôn ngữ (language attitude), theo góc nhìn của các nhà tâm lí học xã hội, thường tập trung vào lí giải việc các cá nhân tham gia giao tiếp làm gì với ngôn ngữ và nghĩ gì về ngôn ngữ? Thái độ ngôn ngữ thường được nghiên cứu theo hai khuynh hướng: khuynh hướng tinh thần luận (mentalism) và khuynh hướng hành vi luận (behaviorism). Theo tinh thần luận, thái độ được Williams (1974) định nghĩa là “trạng thái bên trong do một loại kích thích nào đó gây nên và trạng thái đó có thể làm trung gian cho những phản ứng của cơ thể xảy ra sau đó” [1]. Theo quan điểm này, thái độ của cá nhân với đối tượng sẽ quy định sự ứng xử của cá nhân với đối tượng ấy, nghĩa là thái độ sẽ dẫn đến hành vi và ngược lại, hành vi là kết quả của thái độ. Hạn chế của hướng tiếp cận tinh thần luận là ở phương pháp thí nghiệm, bởi lẽ nếu như thái độ được xem như một trạng thái bên trong hơn là những phản ứng có thể quan sát được từ bên ngoài thì chúng ta phải dựa vào những biểu hiện gián tiếp của những trạng thái đó và những biểu hiện này hoàn toàn không dễ phát hiện. Còn theo hướng tiếp cận hành vi luận, thái độ được nhìn thấy một cách giản đơn từ những phản ứng của con người đối với những cảnh huống xã hội. Điều đó có nghĩa là thái độ của cá nhân nằm ngay ở hành vi của cá nhân đó, và vì vậy, muốn biết thái độ, chỉ cần quan sát hành vi. Như Ngôn ngữ số 11 năm 2012 4 vậy, thái độ chính là một loại hành vi [1]. Nghiên cứu thái độ ngôn ngữ theo hướng này đơn giản hơn ở chỗ nhà nghiên cứu chỉ cần quan sát và phân tích sự ứng xử công khai. Do những ưu điểm này mà khuynh hướng hành vi luận được nhiều nhà nghiên cứu áp dụng. Việc nghiên cứu thái độ ngôn ngữ của chúng tôi cũng thực hiện trên cơ sở cách tiếp cận này. Thái độ ngôn ngữ được phân biệt với thái độ nói chung ở chỗ nó hướng tới ngôn ngữ. Nghiên cứu thái độ ngôn ngữ có thể giải đáp những vấn đề chẳng hạn như: các biến thể của một ngôn ngữ nào đó là phong phú hay nghèo nàn? gợi cảm hay không gợi cảm? dễ nghe hay khó nghe? chuẩn mực hay không chuẩn mực?...; hoặc xem xét thái độ đối với người nói một ngôn ngữ hay phương ngữ nào đó; hay cũng có khi là thái độ hướng tới người nói những biến thể ngôn ngữ chứ không hướng tới bản thân ngôn ngữ. Việc hình thành thái độ ngôn ngữ chịu sự ảnh hưởng của nhiều nhân tố xã hội như tuổi tác, giới tính, trình độ giáo dục, nghề nghiệp... Ngược lại, rất nhiều những hành vi ứng xử ngôn từ lại chịu ảnh hưởng trực tiếp của thái độ ngôn ngữ. Trong giao tiếp đa phương ngữ, thái độ ngôn ngữ có thể ảnh hưởng tới việc nhìn nhận tích cực hay không tích cực về một biến thể ngôn ngữ nào đó và vì vậy, nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc lựa chọn biến thể nào để giao tiếp. Thông qua sự nhìn nhận đối với các biến thể, cùng với ảnh hưởng của một số nhân tố xã hội khác, thái độ ngôn ngữ có thể hướng tới sự biến đổi hay bảo lưu trong ứng xử ngôn từ, hướng tới việc nhìn nhận tích cực hay không tích cực đối với sự biến đổi hay bảo lưu đó. 2.2. Sự lựa chọn ngôn ngữ Sự lựa chọn ngôn ngữ (language choice) là một phạm vi nghiên cứu trong ngôn ngữ học xã hội, nghiên cứu những nhân tố chi phối việc lựa chọn một ngôn ngữ hay một biến thể ngôn ngữ nào đó của một người giao tiếp và những cơ chế của sự lựa chọn đó. Sự lựa chọn có thể là kết quả của một hành vi có ý thức với ý định chủ quan, cũng có thể diễn ra một cách vô thức và ngoài ý định chủ quan của chủ thể. Khi sự lựa chọn là kết quả của một hành vi có ý thức, người ta nói rằng đó là tác động của thái độ ngôn ngữ. Về mặt lí thuyết, sự lựa chọn ngôn ngữ là một hiện tượng tất yếu sẽ xảy ra trong giao tiếp ở môi trường đa ngữ hay đa phương ngữ. Trên thực tế, có một số loại lựa chọn khác nhau, với cơ chế khác nhau, và tất nhiên, sẽ được dán nhãn khác ... n những cá nhân thuộc cộng đồng được nghiên cứu cũng không có thái độ tích cực đối với sự thay đổi của chính những thành viên thuộc cộng đồng mình và có lẽ đó chính là nguyên nhân lí giải cho khuynh hướng bảo lưu rất cao các biến thể Bắc. Nhìn vấn đề từ một góc độ khác, góc độ đặc trưng ngữ dụng của bản thân các tiểu từ tình thái cuối câu trong phương ngữ Nam, có thể thấy rằng có một số tiểu từ của phương ngữ này mà người nghe chỉ cảm thấy gần gũi, dễ nghe khi nó được nói bằng một âm hưởng đậm chất Nam bộ, còn nếu giọng nói không mang âm hưởng ấy thì việc sử dụng các tiểu từ này dường như là khó có thể chấp nhận. Trong khi sự biến đổi không nhận được sự đánh giá tích cực của cộng đồng thì sự bảo lưu, tức việc người gốc Bắc dùng biến thể Bắc lại giành được thái độ đánh giá rất tích cực. Bảng 1 cho thấy các chỉ số không thích, không gần gũi, không dễ nghe rất thấp cũng có nghĩa là chỉ số thích, gần gũi, dễ Ngôn ngữ số 11 năm 2012 8 nghe rất cao đối với sự bảo lưu này. Các thang đo có giá trị trung bình lần lượt là 2,37; 2,21 và 2,33. Nếu so với chỉ số đánh giá việc người Bắc dùng biến thể Nam thì đây là một khoảng cách rất lớn. Điều này phản ánh tính khuynh hướng rõ rệt về thái độ ngôn ngữ của cộng đồng đối với các biến thể mà họ cần lựa chọn. Tương tự, sự đánh giá tốt của cộng đồng PNB tại Tp HCM cũng dành cho các biến thể Nam do người Nam sử dụng. Các giá trị trung bình của cả ba thang đo ở mức tương tự như thái độ đánh giá đối với người gốc Bắc dùng biến thể Bắc. Các ý kiến cũng đều có độ tập trung cao ở các nấc thang 1 và 2, cao nhất nằm ở bậc 1. Như vậy, các biến thể Nam của các tiểu từ tình thái nếu được người Nam với chất giọng và âm hưởng đặc trưng của phương ngữ Nam Bộ sử dụng thì lại nhận được sự đánh giá rất tích cực của cộng đồng PNB, đặc biệt là ở cảm giác nhẹ nhàng, mềm mại, dễ nghe và nhiều khi rất dễ thương (nếu người sử dụng là nữ). Đây chính là những nhận định chúng tôi thu được khi phỏng vấn sâu một số CTV thuộc cộng đồng PNB. 4.2. Thái độ ngôn ngữ trong tương quan với các đặc trưng xã hội của người nói Để khảo sát tương quan giữa thái độ ngôn ngữ với các đặc trưng xã hội của người nói, trước hết chúng tôi thực hiện một thao tác quy đổi hai câu trả lời trên thang đo đạc ngữ nghĩa với 7 bậc trên đây thành câu trả lời với 3 phương án lựa chọn. Câu hỏi 1 với nội dung là “Việc người gốc Bắc chuyển dùng từ biến thể Bắc sang biến thể Nam là có cần thiết hay không?” và câu hỏi 2 với nội dung là “Việc người gốc Bắc chuyển dùng từ biến thể Bắc sang biến thể Nam là hay hay không hay?”. CTV đánh dấu ở nấc 1 và 2 sẽ tương đương với phương án trả lời “khẳng định”; CTV đánh dấu ở nấc 6 và 7 sẽ tương đương với phương án trả lời “phủ định”; CTV đánh dấu ở nấc 3, 4 và 5 sẽ tương đương với phương án trả lời “trung dung”. Tỉ lệ các phương án trả lời như sau: Bảng 2: Thái độ đối với việc thay đổi (2) Thang đánh giá % các phương án trả lời Khẳng định Trung dung Phủ định Tổng Cần - không cần 12,7 28,6 58,7 100% Hay - không hay 11,2 31,7 57,1 100% Kết quả ở bảng 2 cho thấy ở cộng đồng PNB tại Tp HCM, thái độ phủ định đối với sự thay đổi chiếm đa số (58,7 và 57,1%), điều đó cũng có nghĩa là người gốc Bắc tại Tp HCM có xu hướng tán đồng đối với sự bảo lưu các biến thể Bắc trong cộng đồng của họ. Thật vậy, 12,7 và 11,2% số CTV cho rằng cần phải thay đổi và sự thay đổi đó là hay là những tỉ lệ rất nhỏ so với xấp xỉ 90% tổng số CTV có thái độ trung dung và ngược lại. Tỉ lệ đó có Mối quan hệ... 9 sự tương ứng hợp lí với những giá trị đã đưa ra ở bảng 1 theo cách tính của Lambert trên các thang đo. Những kết quả thể hiện trên hai bảng 1 và 2 có thể sẽ là những dự báo có ý nghĩa đối với sự lựa chọn các biến thể trên thực tế. Như đã trình bày, thái độ ngôn ngữ của một cá nhân, về mặt lí thuyết, cũng chịu những ảnh hưởng nhất định bởi những đặc điểm xã hội của cá nhân đó. Để minh họa điều này qua thực tiễn tiếng Việt, chúng tôi cũng thử khảo sát mối tương quan giữa thái độ ngôn ngữ với một vài đặc trưng xã hội được giả định là có ảnh hưởng nào đó đến việc một cá nhân có thái độ như thế nào đối với ngôn ngữ và đối với việc sử dụng ngôn ngữ của mình. Bảng 3 là những kết quả khảo sát mối tương quan đó. Bảng 3: Tương quan giữa thái độ ngôn ngữ với các đặc trưng xã hội của người nói Các đặc trưng xã hội % các phương án trả lời Khẳng định Trung dung Phủ định Tổng Giới tính Nam Nữ p = 0,039 (*) 1 7,1 17,1 25,0 31,4 67,9 51,4 100 100 Trình độ giáo dục: Đại học – Đại học + p = 0,065 (+) 19,2 8,1 23,1 32,4 57,7 59,5 100 100 Đăc điểm hôn nhân Kết hôn với người Bắc Kết hôn với người Nam Chưa gia đình p = 0,400 13,2 16,7 7,7 26,3 41,7 23,1 60,5 41,7 69,2 100 100 100 Tính chất công việc Giao tiếp ít Giao tiếp nhiều p = 0,766 15,4 12,0 23,1 30,0 61,5 58,0 100 100 Theo kết quả trên đây, có một sự khác biệt tương đối về thái độ giữa nam và nữ. Theo đó, nhóm nữ có thái độ khẳng định đối với sự thay đổi mạnh hơn rõ rệt đối với nhóm nam (17,1 so với 7,1), ngược lại, nhóm nam có thái độ phủ định đối với sự thay đổi này mạnh hơn rõ rệt so với nhóm nữ. Điều đó có nghĩa là nam có thái độ khẳng định đối với sự bảo lưu và nữ có thái độ khẳng định đối với sự biến đổi mạnh hơn nhóm còn lại. Tương quan này có sự khác biệt đạt mức đáng kể thống kê với p = 0,039. Tiếp đó, Ngôn ngữ số 11 năm 2012 10 trong tương quan giữa trình độ giáo dục với thái độ ngôn ngữ, thái độ khẳng định rằng cần biến đổi nghiêng về phía nhóm CTV có trình độ dưới đại học và thái độ phủ định điều này nghiêng hẳn về phía nhóm có trình độ từ đại học trở lên. Điều đó có nghĩa là nhóm có trình độ học vấn cao tỏ rõ xu hướng bảo lưu các biến thể Bắc của cộng đồng mình. Giá trị của p cho thấy sự khác biệt chưa đáng kể song cũng rất có ý nghĩa. Trong khi đó, sự khác biệt về đặc điểm hôn nhân và tính chất công việc lại không cung cấp cho ta một chỉ báo có ý nghĩa nào về thái độ khẳng định hay phủ định đối với sự thay đổi. Vấn đề đặt ra ở đây là liệu có tồn tại một độ chênh nào đấy giữa thái độ ngôn ngữ (mang tính chủ quan) với việc sử dụng các biến thể ngôn ngữ trên thực tế (mang tính khách quan) hay không? Câu trả lời sẽ được tìm ra ở phần tiếp theo của bài viết. 4.3. Thái độ ngôn ngữ đối với sự lựa chọn ngôn ngữ Khảo sát tương quan giữa thái độ ngôn ngữ với sự lựa chọn các biến thể ngôn ngữ của cộng đồng PNB tại Tp HCM trên thực tế, chúng tôi thu được kết quả như sau: Bảng 4: Tương quan giữa thái độ ngôn ngữ với việc lựa chọn các biến thể Tiểu từ Ngôn trung Thái độ % lựa chọn các biến thể Tổng Biến thể Nam Biến thể Bắc à (Bắc) hoặc ha (Nam) Hỏi - đoán Khẳng định 37,5 62,5 100 Phủ định 8,1 91,9 100 Trung dung 11,2 88,9 100 p = 0,075(+) Hỏi - đánh giá Khẳng định 50,0 50,0 100 Phủ định 16,2 83,8 100 Trung dung 11,1 88,9 100 p = 0,050 (*) chứ (Bắc) hoặc ha/ chớ (Nam) Khẳng định - bác bỏ Khẳng định 75,0 25,0 100 Phủ định 16,2 83,8 100 Trung dung 33,2 66,7 100 p = 0,003 (**) nhé (Bắc) hoặc nghe/ nghen (Nam) Chào Khẳng định 87,5 12,5 100 Phủ định 43,2 56,8 100 Trung dung 66,7 33,3 100 p = 0,039 (*) Mối quan hệ... 11 Đề nghị Khẳng định 50,0 50.0 100 Phủ định 24,3 75,7 100 Trung dung 55,6 44,4 100 p = 0,045 (*) Hỏi - xin phép Khẳng định 75,0 25,0 100 Phủ định 27,0 73,0 100 Trung dung 50,0 50,0 100 p = 0,024 (*) hả (Bắc) hoặc ha (Nam) Hỏi - chào Khẳng định 50,0 50,0 100 Phủ định 5,4 94,6 100 Trung dung 5,6 94,4 100 p = 0,001 (**) này (Bắc) hoặc nè (Nam) Thu hút sự chú ý Khẳng định 62,5 37,5 100 Phủ định 16,2 83,8 100 Trung dung 22,2 77,8 100 p = 0,020 (*) Bảng 4 cho thấy tỉ lệ CTV có thái độ khẳng định là cần phải thay đổi có tỉ lệ sử dụng các biến thể Nam trên thực tế cao hơn hẳn hai nhóm còn lại. Ở tất cả các tiểu từ với các đích ngôn trung được khảo sát, tỉ lệ này đều cao trên 50%, một số đích ngôn trung lên tới trên 70 hay 80%. Ngược lại, nhóm CTV có thái độ phủ định đối với việc cần phải thay đổi có tỉ lệ sử dụng các biến thể Bắc trên thực tế cũng cao hơn hẳn hai nhóm còn lại, thậm chí, ở một số đích ngôn trung, tỉ lệ này cao đến mức rất ấn tượng (thu hút sự chú ý: 83,8%; hỏi - đoán: 91,9%; hỏi - chào: 94%...). Ở đây, còn có một điều thực sự rất thú vị là nhóm CTV có thái độ trung dung, về cơ bản, lại cũng có tỉ lệ sử dụng các biến thể Bắc cao hơn hẳn tỉ lệ sử dụng các biến thể Nam tương ứng. Tất nhiên, đối với nhóm này, ở một vài đích ngôn trung vẫn tồn tại sự tương ứng đồng đều giữa hai loại biến thể và cá biệt có một - hai đích ngôn trung có tỉ lệ sử dụng biến thể Nam cao hơn nhưng không đáng kể. Điều quan trọng là các tương quan giữa thái độ ngôn ngữ và sự lựa chọn các biến thể ngôn ngữ trong bảng 4 trên đây đều đạt mức độ khác biệt đáng kể. Chính sự khác biệt đáng kể trong các tương quan này cho thấy một khuynh hướng rõ nét trong ngôn từ của cộng đồng được nghiên cứu. Theo đó trên thực tế, những người có thái độ khẳng định rằng cần phải thay đổi sẽ có xu hướng chuyển dùng các biến thể Nam, ngược lại, người có thái độ phủ định sẽ có xu hướng bảo lưu mạnh mẽ các biến thể Bắc. Mối tương quan thuận như Ngôn ngữ số 11 năm 2012 12 vậy cũng được tìm thấy ở một số cộng đồng ngôn từ khác như cộng đồng làng Tân Khai, xã Vĩnh Tuy, Hà Nội trong nghiên cứu của Vũ Thị Thanh Hương với sự tương hợp giữa thái độ chấp nhận chuẩn với việc sử dụng đúng chuẩn trên thực tế đối với hai âm "l" và "n" [7]. Cộng đồng Nghệ Tĩnh ở Hà Nội trong nghiên cứu của chúng tôi cách đây vài năm cũng biểu hiện tương quan thuận giữa thái độ đối với một biến thể và việc lựa chọn biến thể đó trong giao tiếp [5]. 5. Kết luận Kết quả nghiên cứu đã lần lượt trả lời ba câu hỏi đặt ra. Về thái độ đối với các biến thể ngôn ngữ, biến thể Nam của các tiểu từ tình thái cuối câu trong ngôn từ của cộng đồng PNB tại Tp HCM không nhận được sự ưa thích của chính họ, trong khi đó chính các biến thể đó trong ngôn từ của cộng đồng người Nam lại giành được sự ưa thích khá cao của cộng đồng PNB. Ngược lại, thái độ ủng hộ, ưa thích, cảm giác gần gũi, dễ nghe lại dành cho các biến thể Bắc trong ngôn từ của cộng đồng này. Kết quả nghiên cứu cũng cung cấp những bằng chứng quan trọng về mối tương quan thuận giữa thái độ ngôn ngữ và sự lựa chọn ngôn ngữ. Theo đó, thái độ tích cực đối với một biến thể ngôn ngữ nào đó có thể là dự báo cho sự chấp nhận và lựa chọn biến thể đó trong giao tiếp thực tế và ngược lại. Thực tế cho thấy, thái độ khẳng định đối với các biến thể Bắc và phủ định đối với các biến thể Nam của các tiểu từ tình thái cuối câu trong cộng đồng PNB đã dẫn đến khuynh hướng bảo lưu rõ rệt các biến thể Bắc trong ngôn từ của cộng đồng này. Như vậy, trái ngược hẳn với xu hướng thích nghi trong ứng xử ngôn từ ở nhiều cộng đồng khác nhau đã từng được nghiên cứu trong và ngoài nước, thái độ và sự lựa chọn ngôn ngữ của cộng đồng PNB tại Tp HCM đặt ra những giả định để chúng ta phải suy ngẫm và lí giải. Vấn đề đặt ra ở đây là những điều gì, những yếu tố nào chi phối việc hình thành thái độ và sự lựa chọn ngôn ngữ ngoài cảm giác và định giá chung của cộng đồng về các biến thể ngôn ngữ, ngoài một vài đặc trưng xã hội của người nói mà kết quả nghiên cứu trên kia đã thể hiện. Liệu những yếu tố như ngữ vực, phạm vi giao tiếp, đối tượng giao tiếp trong những tình huống giao tiếp cụ thể, rồi những vấn đề thuộc về ngôn điệu, những tương quan giữa đặc trưng xã hội và ngôn điệu của người nói có tham gia vào việc hình thành thái độ và sự lựa chọn ngôn ngữ hay không? Đây là những giả định mà chúng tôi có cảm giác là có cơ sở và hiện thực. Tuy nhiên, những tư liệu có trong tay chưa giúp chúng tôi có đủ bằng chứng khách quan để khẳng định điều đó. Câu trả lời vẫn còn ở phía trước. CHÚ THÍCH p là độ khác biệt có ý nghĩa thống kê. Độ khác biệt này được xác định bằng một loại test kiểm định mức độ đáng kể của thống kê có tên là Chi-Square Test. Theo quy ước chung của SPSS, mức độ khác biệt có ý nghĩa thống kê được tính là 95%, tức là khi Chi-Square Test cho giá trị của p = 0,05. Tất cả mọi giá trị của p ≤ 0,05 đều được xem như là đạt mức độ khác biệt có ý nghĩa thống kê và p > 0,05 được xem như là không đạt mức độ khác biệt có ý nghĩa thống kê. Theo Mối quan hệ... 13 đó, dấu (*) thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, còn dấu (**) thể hiện sự khác biệt rất có ý nghĩa thống kê, còn dấu (+) thể hiện mức độ khác biệt gần đạt mức đáng kể thống kê mà trong một số trường hợp thì đây cũng là mức độ khác biệt đáng lưu ý. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Fasold, R. W., The sociolinguistics of society, Basil Blackwell, New York, 1984. 2. Lương Văn Hy, Ngôn từ, giới và nhóm xã hội: dẫn nhập một số vấn đề cơ bản và những trường phái lí thuyết chính, Trong Ngôn từ, giới và nhóm xã hội từ thực tiễn tiếng Việt, Nxb KHXH, H., 2000. 3. Nguyễn Văn Khang, Ngôn ngữ học xã hội - những vấn đề cơ bản, Nxb KHXH, H., 1999. 4. Trần Thị Ngọc Lang, Sự tiếp xúc giữa các phương ngữ ở Thành phố Hồ Chí Minh, Trong Những vấn đề ngôn ngữ học về các ngôn ngữ phương Đông, Viện ngôn ngữ học, H., 1986. 5. Trịnh Cẩm Lan, Sự biến đổi ngôn từ của các cộng đồng chuyển cư đến thủ đô - Nghiên cứu trường hợp cộng đồng Nghệ Tĩnh ở Hà Nội, Nxb KHXH, 2007. 6. Trịnh Cẩm Lan, Nghiên cứu sự biến đổi ngôn từ của cộng đồng Phương ngữ Bắc đến TPHCM sau 1975 (trên cứ liệu cách dùng một số tiểu từ tình thái cuối câu, Đề tại KHCN đặc biệt cấp ĐHQG Hà Nội, 2011. 7. Vũ Thị Thanh Hương, Bước đầu tìm hiểu mối qua hệ giữa thái độ và hành vi ngôn ngữ, Kỉ yếu Hội thảo ngôn ngữ học Liên Á, ĐHQG Hà Nội & Viện KHXHVN, H., 2004. SUMMARY Through an analysis of language attitude the choice of modal partical in a Northern dialect community in Ho Chi Minh city , the paper points out a meaningfull relation between language attitude and language choice. The results suggest that the Northern dialect community in Ho Chi Minh city has a possitive attitude to Northern variants and a negative attitude to Southern variants in their speech community. The results also supply important evidences about the correlation between language attitude and language choice. As the result, the positive attitude to a certain variant can make speakers accept and choose that variant, on the contrary, the negative attitude to a certain variant can make speakers not to accept and not to choose the variant to communicate.
File đính kèm:
- moi_quan_he_giua_thai_do_ngon_ngu_va_su_lua_chon_ngon_ngu_ng.pdf