Mô thức tâm lí trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng

Trong tác phẩm tự sự, có hai loại mô thức: loại hình tâm lí tập trung vào mô tả trạng thái tâm lí và những xúc cảm thể nghiệm của nhân vật. Loại hình phi tâm lí tập trung vào mô tả hành động của nhân vật. Bài viết tìm hiểu cấu trúc của mô thức tâm lí trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng theo quan điểm này, qua việc phân tích những biểu hiện của nó như cái ghen, tính tự ái và tâm lí ích kỷ, vụ lợi, tâm lí quý tộc quái dị

Mô thức tâm lí trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng trang 1

Trang 1

Mô thức tâm lí trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng trang 2

Trang 2

Mô thức tâm lí trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng trang 3

Trang 3

Mô thức tâm lí trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng trang 4

Trang 4

Mô thức tâm lí trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng trang 5

Trang 5

Mô thức tâm lí trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng trang 6

Trang 6

Mô thức tâm lí trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng trang 7

Trang 7

Mô thức tâm lí trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng trang 8

Trang 8

Mô thức tâm lí trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng trang 9

Trang 9

Mô thức tâm lí trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng trang 10

Trang 10

pdf 10 trang Trúc Khang 08/01/2024 6660
Bạn đang xem tài liệu "Mô thức tâm lí trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mô thức tâm lí trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng

Mô thức tâm lí trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 41.2018
115
MÔ THỨC TÂM LÍ TRONG TIỂU THUYẾT
CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG
Nguyễn Mạnh Quỳnh1 
TÓM TẮT
Trong tác phẩm tự sự, có hai loại mô thức: loại hình tâm lí tập trung vào mô tả trạng 
thái tâm lí và những xúc cảm thể nghiệm của nhân vật. Loại hình phi tâm lí tập trung vào mô 
tả hành động của nhân vật. Bài viết tìm hiểu cấu trúc của mô thức tâm lí trong tiểu thuyết 
của Vũ Trọng Phụng theo quan điểm này, qua việc phân tích những biểu hiện của nó như cái 
ghen, tính tự ái và tâm lí ích kỷ, vụ lợi, tâm lí quý tộc quái dị 
Từ khóa: Tiểu thuyết, mô thức tâm lí, trần thuật, nhân vật, Vũ Trọng Phụng.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Khái niệm thức tự sự (narrative mood) do nhà tự sự học đƣa ra có rất nhiều nội dung 
nhƣ khoảng cách (distance), góc nhìn hay phối cảnh (perspective), tụ điểm (focalization) 
trong đó, có vấn đề mô thức tự sự (narrative mode). Theo Genette, một văn bản, hoặc là 
trần thuật các sự kiện (kể những gì mà nhân vật làm) hoặc là trần thuật ngôn từ (kể những 
gì nhân vật nói hoặc nghĩ). Quan điểm này về mặt nào đó cũng trùng với ý kiến của 
Todorov khi ông cho rằng trong một tác phẩm văn học tự sự, có hai loại mô thức là lấy 
tình tiết làm trung tâm và lấy nhân vật làm trung tâm. Loại hình lấy nhân vật làm trung tâm 
(gọi là loại hình tâm lí) tập trung vào mô tả trạng thái tâm lí và những xúc cảm thể nghiệm 
của nhân vật. Loại hình lấy tình tiết làm trung tâm (gọi là loại hình phi tâm lý) tập trung 
vào hành động của nhân vật [2; tr. 498]. Bài viết này tìm hiểu cấu trúc của mô thức tâm lí
trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng theo quan điểm trên. 
2. NỘI DUNG
Nếu nhƣ các tác giả Tự lực văn đoàn “ƣu tiên cho những cảm giác êm ái, ngọt ngào, 
tƣơi đẹp, đầy thơ mộng” (Trần Đình Sử), thì Vũ Trọng Phụng lại chú tâm đến những “tấn 
trò đời” của lòng ngƣời, những trạng thái tâm lí đầy kịch tính, trớ trêu, ngang trái. Cái 
ghen, tính tự ái, tính ích kỷ hẹp hòi và những ham muốn dục vọng không thể kìm nén nổi 
cùng với tâm lí quý tộc quái dị là những yếu tố tiêu biểu cấu thành mô thức tâm lí trong 
các tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng. Mô thức này đã chi phối ngòi bút miêu tả nội tâm 
nhân vật trong các sáng tác của ông.
2.1. Cái ghen
Có thể nhận thấy rằng, trong các tiểu thuyết - tâm lí của Vũ Trọng Phụng, ông hay 
nhắc đến sự ghen tuông và các biến thể của nó nhƣ ghen ghét, nghi ngờ, nghi hoặc. Xét 
1 Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 41.2018
116
riêng ở cấp độ tín hiệu ngôn từ, tần số lặp lại của các từ ghen là khá nhiều: Dứt tình: 12 
lần, Lấy nhau vì tình: 61 lần, Làm đĩ: 38 lần. Điều này chứng tỏ ghen tuông đã trở thành 
một nỗi ám ảnh trong cảm thức của nhà văn cũng nhƣ trong tâm lí các nhân vật của ông. 
Theo Vũ Trọng Phụng, ghen là trạng thái tâm lí tất yếu của kẻ đang yêu và cũng tất yếu 
dẫn đến lòng thù hận. Hình nhƣ tất cả các tác phẩm của nhà văn viết về chuyện tình ái đều 
đi theo cái mô hình nhận thức ấy. Vì yêu Tiết Hằng, ghen với Đào Quân mà Việt Anh lấy 
oán trả ân, đáp lại sự thịnh tình của bạn cũ bằng việc bỏ mặc bạn trong lúc nguy nan. Kết 
quả là Đào Quân chết thảm trƣớc khi kịp nhận ra bộ mặt thật của Việt Anh (Dứt tình). 
Trong tiểu thuyết Lấy nhau vì tình Vũ Trọng Phụng kể lại một câu chuyện gần tƣơng tự 
nhƣ một truyện ngắn của ông (truyện Cái ghen đàn ông). Liêm yêu Quỳnh, hai ngƣời 
thành vợ chồng theo kiểu “tiền dâm hậu thú”. Ghen đã trở thành bản tính gốc của Liêm. 
Anh ta nghi ngờ vợ một cách quá đáng, sỉ nhục Quỳnh đến điều. Hậu quả là Quỳnh phải tự 
vẫn để tỏ “tấm lòng trinh bạch”. Nếu coi tác phẩm là tiểu thuyết tâm lí - luận đề thì luận 
đề ở đây chính là luận đề về tính ghen trong tình yêu và tình vợ chồng. Khi mới bắt đầu
yêu nhau, trong lòng Liêm đã có “trăm nghìn mối ghen tuông chƣa có nghĩa lí”. Ban đầu là 
những “mối ghen tuông bóng gió” cứ âm ỉ rồi “tăng đến cực độ”, cho đến lúc gặp bức thƣ 
nặc danh thì cái ghen “đƣợc lúc phát phì ra” thành những lời lẽ thô tục và ác độc khiến cô 
vợ mới cƣới đƣợc sáu ngày không chịu đựng nổi phải nhảy xuống Hồ Tây! Cả tác phẩm 
hầu nhƣ chỉ là sự độc diễn những màn ghen tuông vô lý của Liêm. Ngƣời kể chuyện thuyết 
minh cho cái ghen của Liêm. Liêm thì biện hộ cho sự nghi ngờ của mình: “Anh biết anh có 
lỗi lắm, nhƣng mà chính là vì quá yêu em, quá ghen em”. Quỳnh thì buộc phải thét lên 
công phẫn: “Ghen đâu lại có thể ghen nhƣ thế!"
Cũng có ý kiến cho rằng Lấy nhau vì tình thực chất là lời thuyết minh cho luận đề 
đƣợc đặt vào cửa miệng ông chú của Quỳnh khi ông này thuyết lý cho cháu rể: “Trong 
việc này, nếu anh đã ghen, đã giận đến bậc nói những lời càn dỡ ấy chỉ là vợ anh đã yêu 
anh trƣớc khi đáng đƣợc phép yêu, ấy chỉ bởi hai anh chị đã lấy nhau vì tình, thế thôi. Yêu 
tinh thần rồi lấy nhau thì còn ghen ít. Nếu yêu... vật chất rồi mới lấy nhau, sự ghen tuông 
mới đẻ ra những cử chỉ bỉ ổi đáng xấu hổ lạ thƣờng”. Ý kiến này thực ra chỉ đúng có một 
nửa. Ý nghĩa khách quan ... n nhân tình về nhà làm tình ngay trƣớc mặt. Lớn lên chút ít, cô gái này gặp 
cảnh “Báo giới đầy rẫy những mục bàn luận cách tìm khoái lạc cho xác thịt (...) văn chƣơng 
và mĩ thuật đã bị đem ra lợi dụng, chỉ cốt để tán dƣơng cuộc phụng sự Dâm thần”, “những 
tiệm khiêu vũ phá tan hạnh phúc gia đình, làm cho đàn bà hoá đĩ, làm cho đàn ông mọc 
sừng”, “những mốt y phục nam nữ làm cho đàn bà mỗi ngày phô thêm một ít đùi, một ít đít, 
một ít vú... Ở những nơi thành thị, chỗ nào cũng có tiếng gọi xác thịt, cũng có sức cám dỗ 
của Dâm thần”. Hoàn cảnh ấy ảnh hƣởng đến tƣ chất của một cô gái trẻ vốn “thông minh 
tính bẩm”, ham hiểu biết, nhƣng lại thiếu sự chỉ bảo, dạy dỗ đúng đắn, đã đẩy cô trƣợt dài 
trên con đƣờng sa ngã. Cảm hứng của tác phẩm, vì thế nghiêng về tố cáo, phê phán hơn là 
“hô hào nhà đạo đức và các bậc làm cha mẹ lo chăm đến hạnh phúc của con cái” nhƣ tác giả 
đã viết trong Thay lời tựa cho cuốn tiểu thuyết này.
Tâm lý “tính dục” đã làm xuất hiện một kiểu con ngƣời đặc biệt là con người tâm -
sinh lí, cho phép cắt nghĩa tột cùng tính chƣa nói hết, tính mập mờ vốn là một thuộc tính 
trong tiếng nói nội tâm của nhân vật. Ở những con ngƣời này, tính cách của nó vừa có mặt 
yếu tố tâm lí - xã hội vừa chịu sự chi phối của yếu tố bản năng - sinh lí. Khi hai yếu tố này 
“đan xen” với nhau thì sẽ dẫn đến hai khả năng: 1/Có sự hoà hợp, điều tiết để con ngƣời tự 
thích ứng. 2/ Khi “đối nghịch” nhau, chúng sẽ soi chiếu, tố cáo nhau, phơi bày những phi lý, 
quái gở, và nhân vật sẽ trở thành những con ngƣời mang bộ mặt rất ngớ ngẩn và nực cƣời. 
Vũ Trọng Phụng đã kết hợp cả hai mặt này để khám phá tâm lí con ngƣời trong các tác phẩm 
của ông. Bản chất dâm đãng của bà phó Đoan chiếu ứng, soi rọi cho cái gọi là “phong trào 
Âu hoá, vui vẻ, trẻ trung” mà thực chất là dâm ô, trụy lạc và ngƣợc lại, cho nên bà ta chẳng 
cần che đậy cái dâm của mình. Thấy nói chuyện hiếp dâm thì nhƣớn cổ lên hỏi dồn: “Ai? Ai 
thế?”, nghe bác sĩ Trực Ngôn thuyết lí về tình dục thì bà hắt hơi, vỗ tay, cho rằng cái sự dâm 
của mình “dù có tai vách mạch rừng chi nữa thì cũng không sao vì bà đã lẳng lơ theo đúng 
nghĩa lí sách vở của thánh hiền, nghĩa là bà đƣợc mừng thầm rằng mình đã trót hƣ hỏng một 
cách có tính chất khoa học”. Tuyết thì lại khác, cái libido hừng hực trong cô gái “còn tân một 
nửa” này lại đƣợc khoác áo lịch sự, lãng mạn, ngây thơ đúng mốt, hợp thời trang cho nên lúc 
nào cô ta cũng cố che đậy tính dục của mình trong cái vỏ mĩ miều. Kết quả là trong đám tang 
ông nội của mình, Tuyết phải mặc bộ cánh Ngây thơ “hở cả nách và nửa vú”, “để cho thiên 
hạ phải biết rằng mình chƣa đánh mất cả chữ Trinh”! Liêm yêu Quỳnh bằng “một tình cảm 
nồng nàn”, nhiều lúc cũng “vì thẹn mà không dám nhìn thẳng vào mặt Quỳnh” nhƣng chỉ 
qua vài ngày tiếp xúc với cử Tân, với thuốc phiện, với những cô đầm lai, gái điếm, tức là “hƣ 
thân một cách thƣợng lƣu trí thức”, anh chàng “giáo sƣ” này đã “ngày cũng nhƣ đêm, mơ 
mộng về những sự ám thị của tình dục” (Lấy nhau vì tình).
Quan niệm con ngƣời tâm - sinh lí cho phép tác giả kết hợp cả hai điểm nhìn để mô 
tả con ngƣời: điểm nhìn tâm lí - xã hội và điểm nhìn bản năng - sinh lí. Con ngƣời đƣợc 
Vũ Trong Phụng nhìn nhận vừa nhƣ là nạn nhân của hoàn cảnh, vừa nhƣ là nạn nhân của 
“chủ nghĩa định mệnh sinh lí”. Với quan niệm này, Vũ Trọng Phụng đã mở rộng góc nhìn 
về con ngƣời, do đó việc miêu tả tâm lí nhân vật đã đƣợc nâng lên một chất lƣợng mới.
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 41.2018
121
Có lẽ không nên chỉ căn cứ vào những câu văn triết lí về “căn tính dâm của loài 
ngƣời” của Vũ Trọng Phụng mà trách cứ ông quá đề cao, quá nhấn mạnh vai trò của 
bản năng, tính dục trong đời sống tâm lí nhân vật. Bởi vì, những câu văn nhƣ thế phần 
nhiều đƣợc tung ra bằng chất giọng hài hƣớc chế giễu, báng bổ hơn là nghiêm túc. 
Chẳng hạn nhƣ những lời “rao giảng” này của ông đốc tờ Trực Ngôn: “Thƣa các ngài, 
loài ngƣời chỉ lôi thôi vì một cái dâm mà thôi. Đứa bé mới đẻ, miệng bú mẹ, một tay 
mân mê một cái vú, ấy cũng là dâm rồi”; hoặc “Phải chăng về già hay sắp về già, ngƣời 
đời hết giấy phép thoả mãn tình dục? Không! Không! Vì điều ấy thuộc quyền tạo vật, 
chứ không còn thuộc cái ý chí của bọn phàm trần chúng ta”. Ngay cả khi tác giả triết lí 
thật nghiêm túc, ngƣời ta vẫn nhận ra cái giọng cợt nhạo nhƣ thế: “Tình dục cần cho 
xác thịt cũng nhƣ sự ăn uống, thì ái tình cao thƣợng chỉ là một thứ ái tình mà trong đó 
sự ham muốn của xác thịt không đƣợc thoả mãn, nghĩa là, nói tóm lại, đó chỉ là thứ ái 
tình thất vọng mà thôi” (Tựa Làm đĩ ).
Tuy thế, cũng phải công nhận rằng, ngòi bút của Vũ Trọng Phụng không phải 
không có lúc lúng túng khi chọn điểm nhìn để cảm nhận và mô tả con ngƣời. Có lúc, ông 
đứng trên điểm nhìn đạo đức - xã hội để lên án cái mà ông gọi là dâm tà và ủng hộ cho 
dâm chính, nhƣng cũng có lúc, ông quá nghiêng về góc nhìn sinh lí để lí giải cái “căn 
tính dâm”, thành thử, có ngƣời đã nghĩ, ông đứng ra chạy tội cho cái xã hội dâm đãng mà 
ông đang ra sức phủ nhận quyết liệt. Làm đĩ là tác phẩm mang sự lúng túng ấy rất rõ nét. 
Ở tiểu thuyết này, một mặt nhà văn cố công qui tội cho hoàn cảnh đẩy con ngƣời sa ngã 
vào chốn trụy lạc, mặt khác, do quá say mê với với lí thuyết Phân tâm học về mối xung 
đột giữa “bản ngã” (id) - vô thức và “tƣ ngã” (ego) - ý thức, về sự “ám ảnh” và “xâm 
tràn” của khoái lạc vào cõi ý thức để tự thoả mãn, Vũ Trọng Phụng đã say sƣa phân tích 
những cảm giác đê mê của nhục dục nhƣ là một nhân tố quan trọng xô đẩy con ngƣời 
vào chốn hoang dâm. Và khi quá đà, điều này đã lấn át mĩ cảm văn chƣơng. Ông quên 
mất rằng, hoặc không biết rằng, lí thuyết Phân tâm học còn có một khái niệm nữa bên 
cạnh “bản ngã” và “tƣ ngã” là “siêu ngã” (superego), “là một sức mạnh ràng buộc với ý 
thức cá nhân bằng những quan niệm luân lí và chuẩn mực đạo đức đƣợc hình thành trong 
bối cảnh xã hội và tiến trình lịch sử theo nguyên tắc lí tƣởng”. “Ba lĩnh vực này luôn 
luôn thâm nhập, chuyển hoá lẫn nhau tạo nên một động thái dồn dập những đè nén, 
kháng cự, tụ tập, khuếch tán...” [1; tr.199]. Không tính đến cái “siêu ngã” này, việc miêu 
tả tâm lí nhân vật có thể sẽ rơi vào chuệch choạc, không nhất quán, thiếu chiều sâu và 
mất đi ít nhiều sức thuyết phục. Nói Vũ Trọng Phụng không có nhiều thành công ở 
phƣơng diện thâm nhập nội tâm của nhân vật cũng là vì thế, mặc dù phƣơng thức tiếp 
cận tâm lí con ngƣời của ông là rất mới mẻ trong văn học đƣơng thời. 
Khi khảo sát tâm lí ghen tuông, ích kỉ, tự ái, vụ lợi, bi quan của con ngƣời, Vũ Trọng 
Phụng lại chủ yếu đứng trên bình diện tâm lí xã hội. Con ngƣời ở đây là con người tâm lí
theo đúng nghĩa của nó. 
Trúng số độc đắc là tác phẩm cuối cùng của Vũ Trọng Phụng và nhà văn đã đặt 
nhiều kì vọng vào tác phẩm này. Nhà phê bình Hoàng Thiếu Sơn nhận định: “Tác phẩm 
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 41.2018
122
cuối đời của Vũ Trọng Phụng, tác phẩm tuyệt mệnh ấy, quả là một tuyệt tác trên nhiều 
phƣơng diện” [4; tr.508]. Có thật tác phẩm là “một tuyệt tác trên nhiều phƣơng diện” hay 
không thì cũng cần phải suy nghĩ thêm. Nhƣng nhận định này của nhà nghiên cứu thì tỏ ra 
rất xác đáng: “Viết Trúng số độc đắc, Vũ Trọng Phụng đã tập trung tất cả bút lực để theo
dõi, phân tích, mô tả những thay đổi trong đời và trong lòng của một nhân vật, nhất là 
trong lòng [1; tr.504]. Phúc - nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết - cũng đƣợc xây dựng 
theo mô hình con ngƣời tâm lí của Vũ Trọng Phụng. Thất nghiệp, nghèo túng, bị khinh 
ghét tới mức là “ăn hại, đái nát, vô tích sự, gàn dở, không đáng bƣng bát cơm lên mà ăn”, 
Phúc luôn luôn cảm thấy phẫn uất và nhục nhã. Tấm vé số độc đắc đã làm thay đổi, làm 
đảo ngƣợc không những cả cuộc đời mà cả những suy nghĩ, toan tính, mơ ƣớc... của anh ta. 
Thái độ cung kính, nịnh hót, bợ đỡ của cha mẹ, vợ con, các em, bạn bè, báo chí, nhà 
buôn... chung quanh mƣời vạn đồng vé số đã khiến anh cay đắng nhận ra sự vô nghĩa lí 
của con ngƣời trƣớc thế lực của kim tiền. Nhƣng lẽ ra ý thức đƣợc điều đó Phúc phải 
chống lại nó; đằng này anh ta lại bắt đầu cuộc sống trƣởng giả, trác táng, hƣ hỏng. Cái triết 
lí ngày nào khinh của cải, sống nhân ái, giúp đỡ ngƣời nghèo giờ đây bỗng nhiên biến mất 
qua một cơn ác mộng. Anh ta “chủ tâm mà khinh vợ ra mặt”, “nghĩ ra những ý tƣởng xỏ 
xiên... rắc xƣơng cho chó cắn nhau” rồi “giở nốt cái đểu ra” với bố và anh, “chỉ muốn ác 
thêm nữa nếu có thể, cho nó bõ với mọi sự khinh bỉ của thế nhân”. Anh ta biện hộ cho sự 
biến chất của mình là vì đồng tiền: “Xƣa kia tôi đạo đức vì chƣa đủ tiền để hƣ”, rằng “Đời 
thì có đứa nào tử tế gì với mình, và mình cần gì nhân đức với đứa nào”. Không phải Phúc 
không nhận ra cái vô lí ấy, nhƣng chính cái vô nghĩa lí của con ngƣời, của cuộc sống xung 
quanh chỉ vì tiền đã xô đẩy anh khiến anh không chống đỡ nổi. Câu chuyện kết thúc với sự 
“bừng ngộ” muộn màng đầy chua chát và bi quan, chán nản của Phúc: “Mình lạc đạo vong 
bần thì ai cũng khinh bỉ là ăn hại ngƣời, là gàn dở, cho dẫu là bạn thân, cho dẫu vợ, cho 
dẫu bố mẹ. Đến khi ăn hại đời thật sự té ra ai cũng quý hoá, sợ hãi mình (...) tôi đã học 
đƣợc bài học trọng đại của đời là loài ngƣời không ai tốt cả”...
Nhân vật của Nam Cao cũng có những phút giây bừng ngộ nhƣ thế. Đó là khi Hộ 
(Đời thừa), Thứ (Sống mòn) nhận ra cuộc sống của mình là sống thừa, mốc ra, mòn đi một 
cách vô nghĩa vì miếng cơm, manh áo ghì sát đất. Nhƣng dù sao, nhân vật của Nam Cao 
trong hoàn cảnh bế tắc nhất, khốn cùng nhất vẫn cố vƣơn lên giữ vững lẽ sống nhân đạo. 
Còn nhân vật của Vũ Trọng Phụng thì trƣợt dài trên con đƣờng tha hoá mà không gì cƣỡng 
lại đƣợc. Xét cho cùng, là xuất phát từ những quan niệm khác nhau về cuộc đời và con 
ngƣời. Và nhƣ vậy, tác phẩm của hai nhà văn hàm chứa chiều sâu ý nghĩa khác nhau, chứ 
không phải Vũ Trọng Phụng thiếu một trái tim nhân đạo. Bởi lẽ, tố cáo một trạng thái phi 
nhân tính, tố cáo cái “vô nghĩa lí” của cuộc đời là để đòi hỏi có một trạng thái có nhân tính, 
là khắc khoải đi tìm cái nghĩa lí của cuộc đời - một khía cạnh khác của giá trị nhân bản. 
2.4. Tâm lí quý tộc quái đản “vô nghĩa lý”
Ngƣời ta đã nói nhiều đến 3 từ “vô nghĩa lý” xuất hiện dày đặc trong các tác phẩm 
của Vũ Trọng Phụng. Nhƣng nhƣ có dịp chúng tôi đã trình bày, đây chính là việc đánh 
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 41.2018
123
tráo ý nghĩa tồn tại của sự vật, sự việc cho nhau [3; tr.324]. Hệ quả của sự đánh tráo này 
là con người trở nên cọc cạch, khấp khểnh, bị triệt tiêu các giá trị để trở thành những 
trống rỗng, những quái thai của thời đại. Đó là những “con ngƣời” đội lốt con ngƣời nên 
chúng chỉ là những hình nhân nghịch dị không hơn không kém! Với Số đỏ, ta gặp các 
nhân vật không chỉ với những hành vi múa may, quay cuồng một cách lố bịch, những 
câu nói vô nghĩa, vô duyên, mà còn là những suy tƣởng, lập luận đầy xuẩn ngốc của 
những con ngƣời vẫn vỗ ngực là “văn minh”, “Âu hoá”. Xuân Tóc Đỏ là thằng người
diễn rất đạt, rất sinh động những hành vi quái gở, máy móc, bất chấp hoàn cảnh, với bất 
kì ai, bất kì lúc nào và, cái đáng cƣời không phải chỉ ở đó, mà còn ở điều đáng ngạc 
nhiên là, cái vô lí, vô nghĩa đó lại nghiễm nhiên đƣợc xem là có lí, là “hợp thời”! Bài văn 
vần quảng cáo “nhức đầu giải cảm” của nó làm cho chàng thi sĩ lãng mạn phải xoa tay 
bái phục, đỏ mặt hổ thẹn rồi chuồn mất, làm cô Tuyết tân thời phải trầm trồ là “bậc kì 
tài”, “xuất khẩu thành chƣơng”. Câu nói vô duyên: “Thƣa ngài, ngài là một ngƣời chồng 
mọc sừng!” đƣợc chính ông Phán mọc sừng thuê nói, trong bất cứ hoàn cảnh nào mà nó 
buông ra, cũng đƣợc tán thƣởng. Những phát ngôn tục tĩu nơi cửa miệng nhƣ “ Mẹ kiếp! 
Nƣớc mẹ gì!” đƣợc ngƣời ta coi là sự sáng tạo và xin ghi vào tự điển của Hội Khai trí 
tiến đức! “Sự ngu độn của nó đƣợc cho là nhũn nhặn, là sự khiêm tốn, nên nó lại càng 
đƣợc yêu mến hơn”. Các nhân vật khác nhƣ bà phó Đoan lải nhải Âu hoá “bấm bụng thủ 
tiết với hai đời chồng” bằng những hành vi dâm đãng ; sƣ cụ Tăng Phú hùng hồn lăng xê 
cho tài kiện cáo làm “hộc máu mồm” đối thủ cũng là những ví dụ tiêu biểu. Đấy còn là 
tâm lí quý tộc quái đản đến thành nực cƣời của ông “cụ cố Hồng” lảm nhảm Biết rồi! 
Khổ lắm! Nói mãi! trong dáng vẻ ngu ngơ, đần thộn, dốt nát, muốn có ai đó “đấm vào 
mặt mình” để đƣợc vênh váo là bố vợ của “vĩ nhân” Xuân Tóc Đỏ theo đúng nhƣ câu 
thành ngữ “vênh váo nhƣ bố vợ phải đấm”(!), tâm lí “đài các” quái dị của Tuyết khi 
“mặc chiếc áo ngây thơ để thiên hạ biết rằng, mình chƣa đánh mất cả chữ trinh” trong 
đám tang ông nội. Ông bố, bà mẹ của Phúc trong Trúng số độc đắc cũng có những nét 
tâm lí tƣơng tự nhƣ đã phân tích ở trên.
3. KẾT LUẬN
Khảo sát mô hình tâm lí trong các tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng giúp chúng ta 
hiểu rõ hơn về tâm lí con ngƣời trong thời đại ông đang sống, một thời đại ẩn chứa rất 
nhiều xung đột: xung đột giữa cá nhân và dục vọng, cá nhân và bản năng, cá nhân với 
định mệnh, phản ánh cuộc đời với vô vàn những “cú sốc” bất ngờ. Cùng với mô thức 
hành động (mà chúng tôi sẽ trở lại trong dịp khác), đây là hình ảnh của một thế giới đảo 
điên đang bên bờ vực thẳm của sự phá sản, con ngƣời bị quay cuồng, chới với trong cái 
thế giới ấy để rồi phải biến dạng, thay đổi đến tột cùng. Nói cách khác, đấy là mô hình 
về thế giới thực tại đã bị “dốc ngƣợc”, bị “lộn trái”, “bóc trần và vạch trần” một cách 
không thƣơng tiếc, phản ánh xu hƣớng ôm trọn cái “toàn thể” trong các tiểu thuyết của 
Vũ Trọng Phụng.
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 41.2018
124
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Phƣơng Lựu (1995), Tìm hiểu lí luận văn học phương Tây hiện đại, Nxb. Văn học, 
Hà Nội.
[2] Phƣơng Lựu (2001), Lí luận phê bình văn học phương Tây thế kỷ XX, Nxb. Văn học, 
Hà Nội.
[3] Nguyễn Mạnh Quỳnh (2003), Cái nghịch lý và cấu trúc của mô hình xã hội trong 
tiểu thuyết - phóng sự của Vũ Trong Phụng (trong sách Bản sắc hiện đại trong 
các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, Nxb.Văn học, Hà Nội.
[4] Nguyễn Ngọc Thiện, Hà Công Tài (Tuyển chọn và giới thiệu) (2000), Vũ Trọng 
Phụng về tác gia và tác phẩm (Gồm 79 bài nghiên cứu và phê bình tác phẩm của 
Vũ Trọng Phụng từ 1939 - 2000), Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
[5] X.M. Pêtơrốp (1986), Chủ nghĩa hiện thực phê phán (ngƣời dịch: Nguyễn Đức 
Nam, Phạm Văn Trọng, Anh Đào), Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 
Hà Nội.
THE PSYCHOLOGICAL MODE IN VU TRONG PHUNG’S NOVELS
Nguyen Manh Quynh 
ABSTRACT
In a narrative work, there are two narrative modes: the psychological mode which 
concentrates on representing characters’ psychological state and the non-psychological 
mode that demonstrates characters’ experience emotion and actions. This article studies the 
structure of the psychological mode in Vu Trong Phung’s novels according to the mode 
through analyzing its identities such as jealousy in love, self-love, selfishness, self esteem, 
opportunism, absurd aristocracy.
Keywords: Novel, psychological mode, narrative, character, Vu Trong Phung.

File đính kèm:

  • pdfmo_thuc_tam_li_trong_tieu_thuyet_cua_vu_trong_phung.pdf