Mô hình sách giáo khoa Việt ngữ bậc tiểu học ở miền Nam trước 1975
Bài viết tìm hiểu về mô hình SGK Việt ngữ bậc tiểu học ở miền Nam những năm 1955 – 1975, những năm có nhiều bộ sách của nhiều nhóm tác giả biên soạn, do nhiều nhà xuất bản ấn hành. Nhưng các bộ sách đều tuân thủ một chương trình, đều chung mô hình phỏng giao tiếp, chú trọng tính tích hợp; và theo triết lí nhân bản, dân tộc, khai phóng.
Do giới hạn của lịch sử, sách Việt ngữ bậc tiểu học ở miền Nam trước 1975 không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định. Song đặc điểm một chương trình với nhiều bộ sách, chú trọng tích hợp,. cùng triết lí nhân bản, dân tộc, khai phóng là những điểm mạnh không thể không lưu tâm khi chuẩn bị biên soạn SGK môn Tiếng Việt ở tiểu học giai đoạn mới.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mô hình sách giáo khoa Việt ngữ bậc tiểu học ở miền Nam trước 1975
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 56 năm 2014 _____________________________________________________________________________________________________________ 179 MÔ HÌNH SÁCH GIÁO KHOA VIỆT NGỮ BẬC TIỂU HỌC Ở MIỀN NAM TRƯỚC 1975 NGUYỄN THỊ LY KHA* TÓM TẮT Bài viết tìm hiểu về mô hình SGK Việt ngữ bậc tiểu học ở miền Nam những năm 1955 – 1975, những năm có nhiều bộ sách của nhiều nhóm tác giả biên soạn, do nhiều nhà xuất bản ấn hành. Nhưng các bộ sách đều tuân thủ một chương trình, đều chung mô hình phỏng giao tiếp, chú trọng tính tích hợp; và theo triết lí nhân bản, dân tộc, khai phóng. Do giới hạn của lịch sử, sách Việt ngữ bậc tiểu học ở miền Nam trước 1975 không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định. Song đặc điểm một chương trình với nhiều bộ sách, chú trọng tích hợp,... cùng triết lí nhân bản, dân tộc, khai phóng là những điểm mạnh không thể không lưu tâm khi chuẩn bị biên soạn SGK môn Tiếng Việt ở tiểu học giai đoạn mới. Từ khóa: mô hình sách giáo khoa, Việt ngữ, tiểu học, tích hợp, mô hình giao tiếp, mô hình phỏng giao tiếp, dạy học môn Tiếng Việt. ABSTRACT Model of Vietnamese Textbook in Primary Education in Southern Vietnam before 1975 The article finds out about Vietnamese Textbook in primary education in Southern Vietnam from 1954 to 1975 - the time having many sets of textbooks written by groups of writers and published by many publishers. However, all of them comply with a curriculum, model adapted from communication; focus on integration, humanism, nationalism and libertarianism. Because of the limitations of history, Vietnamese textbooks before 1975 can’t avoid specific restrictions. However, a curriculum displayed in many kinds of textbooks, paying attention to integration, humanism, nationalism and libertarianism is remarkable for writing Vietnamese Textbooks in primary education in new stage. Keywords: model of textbook, Vietnamese, primary education, integration, model adapted from communication, communicative model, teaching Vietnamese subject. Chương trình và sách giáo khoa ở miền Nam Việt Nam trước năm 19751 được Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng hòa triển khai theo hướng một chương trình nhưng nhiều bộ SGK và theo triết lí nhân bản, dân tộc, khai phóng [4, tr.6], [6, tr.viii]. Bài viết tìm hiểu về tính tích hợp và mô hình dạy học tiếng mẹ đẻ qua SGK Việt ngữ2 giai đoạn này nhằm thêm cứ liệu về những điểm ưu, khuyết của bộ sách, góp thêm một góc nhìn cho sự chuẩn bị bộ sách dạy học môn Tiếng Việt cho HS tiểu học trong giai đoạn mới. Cứ liệu phân tích trong bài viết này chủ yếu dựa vào Chương trình tiểu học [4], [6], Tiểu học Nguyệt san [2], [3], [5]; bộ Tân Việt ngữ từ lớp 1 đến lớp 5 của tác giả Nguyễn Tất Lâm [9] cùng 5 cuốn Việt ngữ của các tác giả khác [1], [10], [12]3. Người viết dùng Tiểu học Nguyệt san làm một cứ liệu quan trọng vì đây là tập san do Bộ Giáo dục chủ biên [8, tr.105-126], ra định kì hàng tháng, có nội dung chính là “Phần * PGS TS, Trường Đại học Sư phạm TPHCM Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Thị Ly Kha _____________________________________________________________________________________________________________ 180 Giáo khoa” gồm các bài học của tất cả các môn Việt ngữ, Đạo đức, Giáo dục công dân, Quốc sử, Toán, Khoa học thường thức180, Vệ sinh, Thủ công,...4 theo từng tháng tương ứng. Phần Việt ngữ trong Tiểu học Nguyệt san cũng bao gồm tất cả các bài học của các phân môn Học vần, Ngữ vựng, Tập đọc, Học thuộc lòng, Chính tả, Tập làm văn, Tập viết. Có thể xem “Phần Giáo khoa” trong Tiểu học Nguyệt san là “bản sao” của SGK tiểu học miền Nam giai đoạn 1955 – 1975 [8 tr.105-126]. 1. Một chương trình – nhiều bộ sách giáo khoa Bậc tiểu học của giáo dục miền Nam trước 1975 được chia thành 5 lớp và gọi là lớp Năm, lớp Tư, lớp Ba, lớp Nhì và lớp Nhất (tương đương lớp 1, 2, 3, 4, 5). Đến khoảng những năm 1970, nhiều bộ SGK đã được tác giả đặt tên gọi theo trình tự lớp 1 lớp 5. (Để tiện cho việc trình bày, từ đây, chúng tôi sẽ gọi lớp 1, 2, 3, 4, 5; ngoại trừ những khi cần phân biệt hoặc để nhấn mạnh “màu sắc” tên gọi trước những năm 1970, chúng tôi sẽ dùng cách gọi cũ). 1.1. Tính tích hợp trong chương trình và các bộ sách giáo khoa 1.1.1. Chương trình chỉnh sửa năm 1967 (và cả chương trình năm 1958) do Bộ Quốc gia Giáo dục ban hành đều nhấn mạnh đến tính tích hợp: “Trong lúc dạy Việt ngữ, giáo chức nên nhớ rằng chương trình ấy không phải đứng tách hẳn chương trình của các môn học khác như Đức dục, Công dân giáo dục, Quốc sử, Địa lí, v.v. mà phải cố tìm cách cho các môn học ấy và khoa Việt ngữ có liên lạc với nhau” [4 tr.19-20] và [6, tr.1-2]. Chỉ so sánh tên các bài học của môn Việt ngữ với các môn như Đạo đức, Quốc sử, Vệ sinh, ta cũng có thể thấy được tính tích hợp liên môn. Vd: Lớp Năm (lớp 1), chủ điểm “Học đường”, môn Việt ngữ có các bài đọc Bàn thầy, Bàn học sinh, Đồ đạc tron ... i Học vần gồm: Âm (phụ âm) Tranh (dùng tranh chứa tiếng có âm cần dạy) Câu hỏi tìm hiểu bài Phân tích tiếng HS đọc chữ ghi âm Ráp chữ (ráp phụ âm với vần) Tập đọc (câu, bài ngắn) Tập viết. Phần bài đọc, thường là những câu văn ngắn, giản dị, nhiều bài gần như văn nói; chứa âm vần cần luyện tập và có tính giáo dục đạo đức. Vd: Bài 9, âm tr5 [5, tr.45]: “I- Học liệu: cá trê II- Đàm thoại: Hôm nay má mua cá trê về ăn. Em thấy mình cá trê đen và láng không có vãy. Cá trê ở sông. III- Phân tách: (trờ) tr tr V- Ráp chữ : IV- Tập đọc: chị Tri mua cá tra, cá trê bỏ vô rổ tre chị Tri nhớ trả nợ đi, chớ chị trả trễ họ khi chị à. V- Tập viết : trê, trê, trê.” Có thể thấy mục đích giúp HS nhớ được chữ ghi âm vần, luyện đọc, viết được thể hiện rõ ở các bài học vần. Phần “ráp chữ” chỉ chọn ráp những kết hợp tạo thành tiếng có nghĩa. Âm cần ghi nhớ được xuất hiện nhiều lần, được in kiểu khác với những chữ còn lại; và được thể hiện trong bài đọc gồm khoảng 2-4 câu ngắn (tự biên soạn, không chứa âm vần chưa học). Cách viết này, phần bài đọc, tuy có những câu từ còn mang nhiều màu sắc khẩu ngữ, nhưng giản dị, gần gũi với HS. Và điều quan trọng là nhờ xuất hiện nhiều lần nên âm - chữ được học có điều kiện “bám rễ” trong trí nhớ của HS. 3.2.1.2. Sách giáo khoa gồm các phân môn: Tập đọc Ngữ vựng Học thuộc lòng Tập viết Tập đọc vui. Bài học trong một tuần được sắp xếp theo thứ tự: Tập đọc Ngữ vựng Tập đọc Ngữ vựng Học thuộc lòng Tập viết Tập đọc Ngữ vựng Học thuộc lòng Tập đọc vui. a) Tập đọc: (4 bài/tuần, thường là văn xuôi): Tên phân môn Bài đọc Phát âm Giải nghĩa từ khó Câu hỏi tìm hiểu bài (3 – 4 câu, chủ yếu: nhận biết, tái hiện) b) Ngữ vựng: (4 bài/tuần): Tên phân môn Học tiếng (Liệt kê các từ ngữ; cuối danh sách thường là thành ngữ hoặc câu tục ngữ) Tập nói chuyện (các câu hỏi gợi ý, khoảng 2-3 câu) Bài ứng dụng Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 56 năm 2014 _____________________________________________________________________________________________________________ 187 (Bài đọc ngắn, khoảng 2-3 câu). c) Học thuộc lòng (2 bài/tuần): Tên phân môn Bài đọc (thơ) Phát âm Giải nghĩa từ khó Câu hỏi (nội dung bài đọc) d) Tập viết (6 bài/tuần): Tên phân môn Yêu cầu về kích cỡ, kiểu dáng chữ và danh sách từ ngữ dùng tập viết Văn bản (thường là ca dao, tục ngữ) dùng tập viết. e) Tập đọc vui (1 bài/tuần): Tên phân môn Bài đọc (văn bản ngắn, thường gặp dạng truyện ngụ ngôn) 1 câu ca dao (có nội dung liên quan đến bài đọc). (Tân Việt ngữ, lớp 1). Ở Tiểu học Nguyệt san, chúng tôi không thấy phần Tập đọc vui. 3.2.2. SÁCH LỚP 2 Các bài học trong một tuần được sắp xếp theo thứ tự: Ngữ vựng Tập đọc Học thuộc lòng Chính tả Tập làm văn Tập viết. a) Ngữ vựng: (2 bài/tuần): Tên phân môn Bài đọc (văn bản ngắn: 5 câu) Tập nói chuyện (các câu hỏi gợi ý) Học tiếng (gồm danh mục: danh từ, động từ, động từ, tính từ, thành ngữ/tục ngữ có nội dung thuộc chủ điểm) Giải nghĩa (từ khó) Bài tập (Chỉ có 1 kiểu “chọn những tiếng đã học điền vào chỗ trống”). Qua các bài học có thể thấy kĩ năng đọc, nói, nghe được chú trọng. Tuy nhiên bài tập còn quá đơn điệu, chỉ có kiểu bài chọn từ ngữ đã học điền vào chỗ trống. b) Tập đọc: (2 bài/tuần, thường là văn xuôi): Tên phân môn Bài đọc Phát âm Giải nghĩa (từ khó) Câu hỏi tìm hiểu bài (3 – 4 câu, chủ yếu: nhận biết, tái hiện) Đại ý. c) Học thuộc lòng (1 bài/tuần): Tên phân môn Bài đọc (thường là thơ) Phát âm Giải nghĩa Câu hỏi (nội dung bài đọc) Đại ý. d) Chính tả (2 bài/tuần): Tên phân môn Văn bản (hầu hết là văn xuôi) Giải nghĩa Tiếng khó viết. e) Tập làm văn (1 bài/tuần, 2 bài tập): Tên phân môn Bài tập. g) Tập viết (2 bài/tuần): như lớp 1. 3.2.3. SÁCH LỚP 3 Như sách lớp 2, chỉ khác ở phân môn Tập làm văn về dạng bài tập. Tập làm văn lớp có 3 dạng bài: (1) Dùng từ ngữ viết câu; (2) Trả lời câu hỏi; (3) Tập viết văn bản (miêu tả, kể chuyện, viết thư). Có những cuốn SGK của không có kiểu bài lí thuyết cho văn miêu tả, kể chuyện, tường thuật, trần thuật, đơn từ,...; cũng không có dạng từ bài đọc rút ra đặc điểm kiểu bài ghi nhớ thực hành [9]. Hầu như các bài Tập làm văn (trừ bài trả lời câu hỏi và tập viết câu) đều theo cấu trúc: Tên phân môn (2) Đề bài (3) Dàn bài. Ví dụ bài 3 lớp 3 Tiểu học Nguyệt san: “TẬP LÀM VĂN. Đi dự lễ em thấy thầy em ăn mặc thế nào? Em tả bộ âu-phục của thầy em. Dàn bài: 1.– Mở đề: 1.–Thầy em mặc bộ âu-phục may bằng vải gì? Màu gì? 2.– Nhập đề: 2.– Bộ âu-phục gồm có những gì? 3. – Đi giày gì? Màu gì? Có đội mũ không? 4.– Trông vào bộ âu-phục, các em có cảm tưởng gì? 3.– Kết luận: 5.– Ta phải ăn mặc thế nào và sự ăn mặc cốt phải thế nào?” Các phân môn Ngữ vựng, Tập đọc, Chính tả, Học thuộc lòng, Tập viết có cấu trúc bài học tương tự sách lớp 2, chỉ khác về dung lượng và mức độ bài học. 3.2.4. SÁCH LỚP 4 a) Ngữ vựng: 2 bài/tuần. Cấu trúc bài như ở lớp 2, lớp 3. Phần Bài tập có thêm kiểu bài Giải nghĩa từ, Tìm cách diễn đạt Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Thị Ly Kha _____________________________________________________________________________________________________________ 188 tương đương, Đặt câu. b) Tập đọc: (2 bài/tuần, hầu hết là văn xuôi). Cấu trúc tương tự lớp 2, 3; khác ở 2 điểm sau: (1) Câu hỏi tìm hiểu bài gồm 4 – 5 câu hỏi về nội dung bài, với tên gọi cho mục này “Ý”/ “Ý tưởng”, chủ yếu: nhận biết, tái hiện; và 2 câu hỏi về từ ngữ dưới bình diện nghĩa của từ, mà không phải là hỏi về nghệ thuật sử dụng từ ngữ, với tên gọi “Lời văn”; (2) có thêm mục Dàn bài (Tóm tắt lại các ý của bài đọc) và mục “Đại ý”. c) Học thuộc lòng (1 bài/tuần, như lớp 3) d) Chính tả (2 bài/tuần): cấu trúc như lớp 2, 3. Có thêm mục “Nhận xét chính tả” (phần này, các sách của các nhóm tác giả và Tiểu học Nguyệt san đều cung cấp danh sách một số từ ngữ chính tả phương ngữ) và “Câu hỏi” với yêu cầu giải nghĩa từ ngữ, trả lời về nội dung văn bản, hoặc tìm từ đồng nghĩa, trái nghĩa,...). Có thể nói cấu trúc bài Chính tả là một điểm mạnh của các bộ sách, mặc dù sách thiếu hẳn phần giới thiệu quy tắc chính tả. Nhưng danh sách các chữ khó viết, danh sách các chữ dễ bị viết sai do phát âm theo phương ngữ, cùng những bài tập tìm hiểu về nội dung bài chính tả, bài tập mở rộng vốn từ sẽ góp phần giúp HS viết đúng chính tả. e) Văn phạm (1 bài/tuần): Tên phân môn Nhận xét: Ngữ liệu (thường chỉ 1 câu, có chứa yếu tố ngữ pháp được học trong bài hoặc từ bài Chính tả) chọn từ ngữ liệu các yếu tố ngữ pháp cần cung cấp, gọi tên yếu tố đó) Bài học: Nêu định nghĩa (về từ loại, thành phần câu,...) Ví dụ minh hoạ (5-6 vd). Bài tập (hầu hết 1 bài với yêu cầu nhận diện yếu tố ngữ pháp; thỉnh thoảng mới có bài tập đặt câu). g) Tập làm văn: Tên phân môn Đề bài Dàn bài. h) Tập viết (1 bài/tuần): như các lớp 1, 2. 3.2.5. SÁCH LỚP 5 Trình tự các bài học trong tuần, cấu trúc bài học của các phân môn giống như sách lớp 4. 3.3. Hình thức các câu hỏi, bài tập Nhìn chung, các câu hỏi, bài tập ở tất cả các phân môn đều được trình bày gọn, rõ nhưng chưa phong phú. Câu hỏi tìm hiểu bài đọc, bài chính tả, đều chỉ dừng ở mức độ nhận biết – kiểu tái hiện – mà chưa thấy dạng câu hỏi phát hiện (kể cả câu hỏi ở SGK lớp 5). Ở lớp 4, 5 câu hỏi đọc hiểu được tách thành 2 mảng: hỏi về nội dung bài (được gọi là “ý tưởng”) và hỏi về văn phạm (được gọi là “lời văn”) nhưng vẫn chỉ dừng ở mức độ tái hiện những tình tiết đã có trong nội dung bài đọc là chính. Có bộ sách sau mỗi câu hỏi của bài Tập đọc đều có phần gợi ý vắn tắt [1]; và ngay sau mỗi bài tập đều có đáp án [1]. Cách trình bày này có tác dụng gợi ý cho HS, giúp HS kiểm tra bài làm, nhưng không phát huy được tính tích cực độc lập suy nghĩ, dễ gây nhàm chán, gây tâm lí ỷ lại,... 4. Một vài nhận xét thêm về SGK của Bộ Giáo dục so với các SGK còn lại Như đã trình bày ở mục 1., song song với các bộ SGK của nhiều tác giả, nhiều nhóm tác giả là phần giáo khoa trong Tiểu học Nguyệt san do “Bộ Giáo dục chủ biên và ấn hành” [8, tr.105-126]. Do giới hạn của bài viết, ở đây, chúng tôi chỉ nêu một vài nhận xét chung nhất: (1) Phần Giáo khoa của Tiểu học Nguyệt san cũng tuân thủ theo chương trình đã ban hành, như tất cả các bộ sách khác từ kiến thức đến cấu trúc các bài học của từng phân môn cũng như thứ tự các phân môn trong tuần ở mỗi khối lớp. Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 56 năm 2014 _____________________________________________________________________________________________________________ 189 (2) Tính tích hợp và triết lí nhân bản, dân tộc, khai phóng đều được Tiểu học Nguyệt san và các bộ sách chú ý tôn trọng tối đa trong khả năng mà các tác giả có thể thể hiện. (3) Văn phong trong Tiểu học Nguyệt san gọt giũa hơn, màu sắc khẩu ngữ ít hơn đáng kể so với vài bộ sách khác (mà chúng tôi có được). (4) Điểm quan trọng hơn là bài tập trong Tiểu học Nguyệt san đa dạng hơn. Ngữ liệu các bài đọc cũng chọn lọc hơn, phong phú hơn. (Có bộ SGK, văn bản Học thuộc lòng từ lớp 1 đến lớp 4, chỉ có 1 loại duy nhất: thơ lục bát). Mặc dù có những ưu điểm như trên, nhưng Tiểu học Nguyệt san chỉ là tài liệu tham khảo cho GV, khi họ muốn làm phong phú thêm bài giảng; mà không thể sử dụng làm tài liệu giáo khoa cho HS, bởi cấu trúc cũng như mục đích và cách ấn hành. Theo tìm hiểu, chúng tôi được biết trước 1975, không có sách giáo viên, sách bài soạn đi kèm SGK như hiện nay. Giáo viên chỉ có SGK, giáo viên ở các tỉnh lẻ, rất ít người biết đến Tiểu học Nguyệt San. Nếu xem Tiểu học Nguyệt san là SGV cũng không ổn. Vì nó được biên soạn và cấu trúc theo kiểu tập hợp lại toàn bộ các bài học bài đọc của tháng tương ứng cho tất cả các môn, tất cả các khối lớp. Phần hướng dẫn, trừ phần Học vần (và ở vài bài Ngữ vựng có chỉ dẫn về đồ dùng dạy học), hầu hết không có hướng dẫn gì về phương pháp, hình thức tổ chức dạy học,... 5. Kết luận Có thể thấy SGK Việt ngữ miền Nam trước 1975 đã được biên soạn theo mô hình phỏng giao tiếp – “sách triển khai nội dung theo trục kĩ năng ngôn ngữ. Sách thường cấu trúc theo chủ điểm, lấy một hoặc một số bài đọc làm điểm tựa để hình thành kiến thức, phát triển kĩ năng đọc, viết, nói, nghe cho HS; các bài tập rèn luyện kĩ năng thường gắn với những tình huống giao tiếp và nhiệm vụ giao tiếp cụ thể” [11]. Tuy nhiên, những điểm mạnh của mô hình này chưa được các bộ SGK khai thác triệt để, do hệ thống các câu hỏi bài tập chưa phong phú, chưa chú ý đến khai thác các mức độ của nhận thức và rèn luyện kĩ năng tiếng Việt cho HS; các bài tập gắn với tình huống chưa nhiều, chưa được thể hiện một cách có chủ đích (nội dung dạy nghi thức lời nói, như chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi chỉ thấy ở sách Đức dục mà không thấy ở sách Việt ngữ)... Ngoài ra, mô hình “sách triển khai nội dung theo chủ đề hoạt động của HS nhằm tìm hiểu các lĩnh vực khác nhau của đời sống, lấy các hoạt động đó làm môi trường giao tiếp để hình thành kiến thức, phát triển các kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho HS” [11] – mô hình được xem là hiệu quả nhất trong dạy học tiếng hiện nay – chưa hề thấy dù là manh nha trong bài học của tất cả các phân môn ở các bộ SGK mà chúng tôi có điều kiện tìm hiểu kể cả Tiểu học Nguyệt san. Mặc dầu không thể tránh khỏi những hạn chế về nội dung, mô hình, cấu trúc, trình bày, văn phong,... do giới hạn của thời đại, của lịch sử; nhưng SGK Việt ngữ ở miền Nam trước 1975 của nền giáo dục Việt Nam Cộng hòa có những điểm mạnh đáng ghi nhận về tính tích hợp; về việc hướng tới triết lí nhân bản, dân tộc, khai phóng; về con đường hình thành các kĩ năng đọc, nói, nghe, viết cho HS bậc tiểu học. Có thể nói cứ liệu về những điểm ưu, nhược của SGK Việt ngữ như đã trình bày đều ít nhiều giúp cho người biên soạn chương trình và SGK dạy học tiếng Việt cho HS tiểu học giai đoạn tới những bài học hữu ích. Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Thị Ly Kha _____________________________________________________________________________________________________________ 190 1 Trong giai đoạn này, có 2 năm từ 1973 đến 1975, ở miền Nam có 2 chương trình giáo dục và 2 hệ thống sách giáo khoa cùng song song tồn tại, một của Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng hòa và một của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Dân tộc miền Nam Việt Nam (được thực hiện ở những vùng giải phóng, x. Lê Khắc Hân “Bộ sách giáo khoa giải phóng ra đời như thế nào?” nao/45153595/202/) 2 Do giới hạn phạm vi đề cập, ở bài viết này, chúng tôi chưa có dịp bàn đến văn phong, kĩ thuật trình bày,... 3 Có thể nói, gần như ông Trần Văn Chánh [8, tr.105-126], người viết bài này cũng đã cố công tìm kiếm sách Việt ngữ bậc tiểu học trong thư viện của các trường ĐHSP TPHCM, ĐHKHXH&NV TPHCM, Viện Nghiên cứu Giáo dục thuộc ĐHSP TPHCM, Thư viện Khoa học Tổng hợp TPHCM, Thư viện viện KHXH TPHCM, các nhà sách cũ và qua bạn bè quen biết đã từng dạy tiểu học trước 1975, nhưng tư liệu thu thập được không như mong đợi. 4 Phần Giáo khoa thường chiếm tới 4/5 số trang của Tiểu học Nguyệt san 1955 và 1964 (số các tháng trong năm học tháng 9 đến tháng 6). 5 Chúng tôi sao y, kể cả lỗi chính tả. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bùi Văn Bảo, Bùi Quang Minh (1972), Việt-văn toàn-thư 3, Nxb Nhật-tảo, Sài-gòn. 2. Bộ Quốc gia Giáo dục (1955), Tiểu học Nguyệt san số 1&2 tháng 2 & 3 năm 1955, Sài- gòn. 3. Bộ Quốc gia Giáo dục (1955), Tiểu học Nguyệt san, số 5&6 tháng 5&6 năm 1955, Sài- gòn. 4. Bộ Quốc gia Giáo dục (1960), Chương trình tiểu học, Sài-gòn. 5. Bộ Quốc gia Giáo dục (1964), Tiểu học Nguyệt san, số 2 tháng 9 năm 1964, Sài-gòn. 6. Bộ Giáo dục (1968), Chương trình tiểu học (áp dụng từ kể từ niên khóa 1967 – 1968), Trung tâm học liệu Bộ Văn hóa Giáo dục, Sài-gòn1968. 7. Bộ Giáo dục (1968), “Nguyên tắc cải tổ chương trình tiểu học”, trong Chương trình tiểu học (áp dụng từ kể từ niên khóa 1967 – 1968), Trung tâm học liệu Bộ Văn hóa Giáo dục, Sài-gòn1968, tr.viii-xi. 8. Trần Văn Chánh (2012), “Những bài học thuộc lòng, một thứ văn chương tiểu học của miền Nam trước đây”, Tạp chí Nghiên cứu và phát triển, số 6 (95), tr.105-126. 9. Nguyễn Tất Lâm (1974), Tân Việt ngữ, lớp 1, 2, 3, 4, 5, Nxb Nam Sơn, Sài-gòn1974. 10. Một nhóm giáo viên, Quốc-văn, lớp Nhứt, quyển I, II, Nxb Việt Hương, Sài-gòn. 11. Nguyễn Minh Thuyết (2013), “Phác thảo mô hình sách giáo khoa Tiếng Việt tương lai”, trong Kỉ yếu Hội thảo Quốc gia - Quốc tế: Đổi mới Chương trình, Sách giáo khoa Giáo dục phổ thông: Kinh nghiệm quốc tế và vận dụng vào Việt Nam, Bộ GD&ĐT, Hà Nội. 12. Phạm Trường Xuân (và các tác giả khác) (1959), Quốc-văn toàn thư, lớp 3, quyển I, II, Nxb Việt Hương, Sài-gòn. (Ngày Tòa soạn nhận được bài: 28-02-2014; ngày phản biện đánh giá: 06-3-2014; ngày chấp nhận đăng: 11-3-2014)
File đính kèm:
- mo_hinh_sach_giao_khoa_viet_ngu_bac_tieu_hoc_o_mien_nam_truo.pdf