Mô hình sách giáo khoa Việt ngữ bậc tiểu học ở miền Nam trước 1975

Bài viết tìm hiểu về mô hình SGK Việt ngữ bậc tiểu học ở miền Nam những năm 1955 – 1975, những năm có nhiều bộ sách của nhiều nhóm tác giả biên soạn, do nhiều nhà xuất bản ấn hành. Nhưng các bộ sách đều tuân thủ một chương trình, đều chung mô hình phỏng giao tiếp, chú trọng tính tích hợp; và theo triết lí nhân bản, dân tộc, khai phóng.

Do giới hạn của lịch sử, sách Việt ngữ bậc tiểu học ở miền Nam trước 1975 không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định. Song đặc điểm một chương trình với nhiều bộ sách, chú trọng tích hợp,. cùng triết lí nhân bản, dân tộc, khai phóng là những điểm mạnh không thể không lưu tâm khi chuẩn bị biên soạn SGK môn Tiếng Việt ở tiểu học giai đoạn mới.

Mô hình sách giáo khoa Việt ngữ bậc tiểu học ở miền Nam trước 1975 trang 1

Trang 1

Mô hình sách giáo khoa Việt ngữ bậc tiểu học ở miền Nam trước 1975 trang 2

Trang 2

Mô hình sách giáo khoa Việt ngữ bậc tiểu học ở miền Nam trước 1975 trang 3

Trang 3

Mô hình sách giáo khoa Việt ngữ bậc tiểu học ở miền Nam trước 1975 trang 4

Trang 4

Mô hình sách giáo khoa Việt ngữ bậc tiểu học ở miền Nam trước 1975 trang 5

Trang 5

Mô hình sách giáo khoa Việt ngữ bậc tiểu học ở miền Nam trước 1975 trang 6

Trang 6

Mô hình sách giáo khoa Việt ngữ bậc tiểu học ở miền Nam trước 1975 trang 7

Trang 7

Mô hình sách giáo khoa Việt ngữ bậc tiểu học ở miền Nam trước 1975 trang 8

Trang 8

Mô hình sách giáo khoa Việt ngữ bậc tiểu học ở miền Nam trước 1975 trang 9

Trang 9

Mô hình sách giáo khoa Việt ngữ bậc tiểu học ở miền Nam trước 1975 trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 12 trang Trúc Khang 09/01/2024 6160
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Mô hình sách giáo khoa Việt ngữ bậc tiểu học ở miền Nam trước 1975", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mô hình sách giáo khoa Việt ngữ bậc tiểu học ở miền Nam trước 1975

Mô hình sách giáo khoa Việt ngữ bậc tiểu học ở miền Nam trước 1975
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 56 năm 2014 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
 179 
MÔ HÌNH SÁCH GIÁO KHOA VIỆT NGỮ BẬC TIỂU HỌC 
Ở MIỀN NAM TRƯỚC 1975 
NGUYỄN THỊ LY KHA* 
TÓM TẮT 
Bài viết tìm hiểu về mô hình SGK Việt ngữ bậc tiểu học ở miền Nam những năm 1955 – 
1975, những năm có nhiều bộ sách của nhiều nhóm tác giả biên soạn, do nhiều nhà xuất bản 
ấn hành. Nhưng các bộ sách đều tuân thủ một chương trình, đều chung mô hình phỏng giao 
tiếp, chú trọng tính tích hợp; và theo triết lí nhân bản, dân tộc, khai phóng. 
Do giới hạn của lịch sử, sách Việt ngữ bậc tiểu học ở miền Nam trước 1975 không thể 
tránh khỏi những hạn chế nhất định. Song đặc điểm một chương trình với nhiều bộ sách, chú 
trọng tích hợp,... cùng triết lí nhân bản, dân tộc, khai phóng là những điểm mạnh không thể 
không lưu tâm khi chuẩn bị biên soạn SGK môn Tiếng Việt ở tiểu học giai đoạn mới. 
Từ khóa: mô hình sách giáo khoa, Việt ngữ, tiểu học, tích hợp, mô hình giao tiếp, mô 
hình phỏng giao tiếp, dạy học môn Tiếng Việt. 
ABSTRACT 
Model of Vietnamese Textbook in Primary Education 
in Southern Vietnam before 1975 
The article finds out about Vietnamese Textbook in primary education in Southern 
Vietnam from 1954 to 1975 - the time having many sets of textbooks written by groups of 
writers and published by many publishers. However, all of them comply with a curriculum, 
model adapted from communication; focus on integration, humanism, nationalism and 
libertarianism. 
Because of the limitations of history, Vietnamese textbooks before 1975 can’t avoid 
specific restrictions. However, a curriculum displayed in many kinds of textbooks, paying 
attention to integration, humanism, nationalism and libertarianism is remarkable for writing 
Vietnamese Textbooks in primary education in new stage. 
Keywords: model of textbook, Vietnamese, primary education, integration, model 
adapted from communication, communicative model, teaching Vietnamese subject. 
Chương trình và sách giáo khoa ở 
miền Nam Việt Nam trước năm 19751 được 
Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng hòa triển khai 
theo hướng một chương trình nhưng nhiều 
bộ SGK và theo triết lí nhân bản, dân tộc, 
khai phóng [4, tr.6], [6, tr.viii]. Bài viết tìm 
hiểu về tính tích hợp và mô hình dạy học 
tiếng mẹ đẻ qua SGK Việt ngữ2 giai đoạn 
này nhằm thêm cứ liệu về những điểm ưu, 
khuyết của bộ sách, góp thêm một góc nhìn 
cho sự chuẩn bị bộ sách dạy học môn 
Tiếng Việt cho HS tiểu học trong giai đoạn 
mới. 
Cứ liệu phân tích trong bài viết này 
chủ yếu dựa vào Chương trình tiểu học [4], 
[6], Tiểu học Nguyệt san [2], [3], [5]; bộ 
Tân Việt ngữ từ lớp 1 đến lớp 5 của tác giả 
Nguyễn Tất Lâm [9] cùng 5 cuốn Việt ngữ 
của các tác giả khác [1], [10], [12]3. Người 
viết dùng Tiểu học Nguyệt san làm một cứ 
liệu quan trọng vì đây là tập san do Bộ 
Giáo dục chủ biên [8, tr.105-126], ra định 
kì hàng tháng, có nội dung chính là “Phần 
* PGS TS, Trường Đại học Sư phạm TPHCM 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Thị Ly Kha 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
 180
Giáo khoa” gồm các bài học của tất cả các 
môn Việt ngữ, Đạo đức, Giáo dục công 
dân, Quốc sử, Toán, Khoa học thường 
thức180, Vệ sinh, Thủ công,...4 theo từng 
tháng tương ứng. Phần Việt ngữ trong Tiểu 
học Nguyệt san cũng bao gồm tất cả các 
bài học của các phân môn Học vần, Ngữ 
vựng, Tập đọc, Học thuộc lòng, Chính tả, 
Tập làm văn, Tập viết. Có thể xem “Phần 
Giáo khoa” trong Tiểu học Nguyệt san là 
“bản sao” của SGK tiểu học miền Nam giai 
đoạn 1955 – 1975 [8 tr.105-126]. 
1. Một chương trình – nhiều bộ sách 
giáo khoa 
Bậc tiểu học của giáo dục miền Nam 
trước 1975 được chia thành 5 lớp và gọi là 
lớp Năm, lớp Tư, lớp Ba, lớp Nhì và lớp 
Nhất (tương đương lớp 1, 2, 3, 4, 5). Đến 
khoảng những năm 1970, nhiều bộ SGK đã 
được tác giả đặt tên gọi theo trình tự lớp 1 
 lớp 5. (Để tiện cho việc trình bày, từ 
đây, chúng tôi sẽ gọi lớp 1, 2, 3, 4, 5; ngoại 
trừ những khi cần phân biệt hoặc để nhấn 
mạnh “màu sắc” tên gọi trước những năm 
1970, chúng tôi sẽ dùng cách gọi cũ). 
1.1. Tính tích hợp trong chương trình và 
các bộ sách giáo khoa 
1.1.1. Chương trình chỉnh sửa năm 1967 
(và cả chương trình năm 1958) do Bộ Quốc 
gia Giáo dục ban hành đều nhấn mạnh đến 
tính tích hợp: “Trong lúc dạy Việt ngữ, 
giáo chức nên nhớ rằng chương trình ấy 
không phải đứng tách hẳn chương trình của 
các môn học khác như Đức dục, Công dân 
giáo dục, Quốc sử, Địa lí, v.v. mà phải cố 
tìm cách cho các môn học ấy và khoa Việt 
ngữ có liên lạc với nhau” [4 tr.19-20] và 
[6, tr.1-2]. 
Chỉ so sánh tên các bài học của môn 
Việt ngữ với các môn như Đạo đức, Quốc 
sử, Vệ sinh, ta cũng có thể thấy được tính 
tích hợp liên môn. Vd: Lớp Năm (lớp 1), 
chủ điểm “Học đường”, môn Việt ngữ có 
các bài đọc Bàn thầy, Bàn học sinh, Đồ đạc 
tron ... i Học vần 
gồm: Âm (phụ âm) Tranh (dùng tranh 
chứa tiếng có âm cần dạy) Câu hỏi tìm 
hiểu bài Phân tích tiếng HS đọc chữ 
ghi âm Ráp chữ (ráp phụ âm với vần) 
Tập đọc (câu, bài ngắn) Tập viết. 
Phần bài đọc, thường là những câu 
văn ngắn, giản dị, nhiều bài gần như văn 
nói; chứa âm vần cần luyện tập và có tính 
giáo dục đạo đức. Vd: Bài 9, âm tr5 [5, 
tr.45]: 
“I- Học liệu: cá trê 
II- Đàm thoại: Hôm nay má mua cá 
trê về ăn. Em thấy mình cá trê đen và láng 
không có vãy. Cá trê ở sông. 
III- Phân tách: (trờ) 
 tr tr 
V- Ráp chữ : 
IV- Tập đọc: chị Tri mua cá tra, cá 
trê bỏ vô rổ tre chị Tri nhớ trả nợ đi, chớ 
chị trả trễ họ khi chị à. 
V- Tập viết : trê, trê, trê.” 
Có thể thấy mục đích giúp HS nhớ 
được chữ ghi âm vần, luyện đọc, viết được 
thể hiện rõ ở các bài học vần. Phần “ráp 
chữ” chỉ chọn ráp những kết hợp tạo thành 
tiếng có nghĩa. Âm cần ghi nhớ được xuất 
hiện nhiều lần, được in kiểu khác với 
những chữ còn lại; và được thể hiện trong 
bài đọc gồm khoảng 2-4 câu ngắn (tự biên 
soạn, không chứa âm vần chưa học). Cách 
viết này, phần bài đọc, tuy có những câu từ 
còn mang nhiều màu sắc khẩu ngữ, nhưng 
giản dị, gần gũi với HS. Và điều quan 
trọng là nhờ xuất hiện nhiều lần nên âm - 
chữ được học có điều kiện “bám rễ” trong 
trí nhớ của HS. 
3.2.1.2. Sách giáo khoa gồm các phân 
môn: Tập đọc Ngữ vựng Học thuộc 
lòng Tập viết Tập đọc vui. Bài học 
trong một tuần được sắp xếp theo thứ tự: 
Tập đọc Ngữ vựng Tập đọc Ngữ 
vựng Học thuộc lòng Tập viết 
Tập đọc Ngữ vựng Học thuộc lòng 
Tập đọc vui. 
a) Tập đọc: (4 bài/tuần, thường là 
văn xuôi): Tên phân môn Bài đọc 
Phát âm Giải nghĩa từ khó Câu hỏi 
tìm hiểu bài (3 – 4 câu, chủ yếu: nhận biết, 
tái hiện) 
b) Ngữ vựng: (4 bài/tuần): Tên phân 
môn Học tiếng (Liệt kê các từ ngữ; cuối 
danh sách thường là thành ngữ hoặc câu 
tục ngữ) Tập nói chuyện (các câu hỏi 
gợi ý, khoảng 2-3 câu) Bài ứng dụng 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 56 năm 2014 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
 187 
(Bài đọc ngắn, khoảng 2-3 câu). 
c) Học thuộc lòng (2 bài/tuần): Tên 
phân môn Bài đọc (thơ) Phát âm 
Giải nghĩa từ khó Câu hỏi (nội dung bài 
đọc) 
d) Tập viết (6 bài/tuần): Tên phân 
môn Yêu cầu về kích cỡ, kiểu dáng chữ 
và danh sách từ ngữ dùng tập viết Văn 
bản (thường là ca dao, tục ngữ) dùng tập 
viết. 
e) Tập đọc vui (1 bài/tuần): Tên phân 
môn Bài đọc (văn bản ngắn, thường gặp 
dạng truyện ngụ ngôn) 1 câu ca dao (có 
nội dung liên quan đến bài đọc). (Tân Việt 
ngữ, lớp 1). Ở Tiểu học Nguyệt san, chúng 
tôi không thấy phần Tập đọc vui. 
3.2.2. SÁCH LỚP 2 
Các bài học trong một tuần được sắp 
xếp theo thứ tự: Ngữ vựng Tập đọc 
Học thuộc lòng Chính tả Tập làm 
văn Tập viết. 
a) Ngữ vựng: (2 bài/tuần): Tên phân 
môn Bài đọc (văn bản ngắn: 5 câu) 
 Tập nói chuyện (các câu hỏi gợi ý) 
Học tiếng (gồm danh mục: danh từ, động 
từ, động từ, tính từ, thành ngữ/tục ngữ có 
nội dung thuộc chủ điểm) Giải nghĩa (từ 
khó) Bài tập (Chỉ có 1 kiểu “chọn 
những tiếng đã học điền vào chỗ trống”). 
Qua các bài học có thể thấy kĩ năng 
đọc, nói, nghe được chú trọng. Tuy nhiên 
bài tập còn quá đơn điệu, chỉ có kiểu bài 
chọn từ ngữ đã học điền vào chỗ trống. 
b) Tập đọc: (2 bài/tuần, thường là 
văn xuôi): Tên phân môn Bài đọc 
Phát âm Giải nghĩa (từ khó) Câu hỏi 
tìm hiểu bài (3 – 4 câu, chủ yếu: nhận biết, 
tái hiện) Đại ý. 
c) Học thuộc lòng (1 bài/tuần): Tên 
phân môn Bài đọc (thường là thơ) 
Phát âm Giải nghĩa Câu hỏi (nội 
dung bài đọc) Đại ý. 
d) Chính tả (2 bài/tuần): Tên phân 
môn Văn bản (hầu hết là văn xuôi) 
Giải nghĩa Tiếng khó viết. 
e) Tập làm văn (1 bài/tuần, 2 bài 
tập): Tên phân môn Bài tập. 
g) Tập viết (2 bài/tuần): như lớp 1. 
3.2.3. SÁCH LỚP 3 
Như sách lớp 2, chỉ khác ở phân môn 
Tập làm văn về dạng bài tập. Tập làm văn 
lớp có 3 dạng bài: (1) Dùng từ ngữ viết 
câu; (2) Trả lời câu hỏi; (3) Tập viết văn 
bản (miêu tả, kể chuyện, viết thư). Có 
những cuốn SGK của không có kiểu bài lí 
thuyết cho văn miêu tả, kể chuyện, tường 
thuật, trần thuật, đơn từ,...; cũng không có 
dạng từ bài đọc rút ra đặc điểm kiểu bài 
 ghi nhớ thực hành [9]. Hầu như các 
bài Tập làm văn (trừ bài trả lời câu hỏi và 
tập viết câu) đều theo cấu trúc: Tên phân 
môn (2) Đề bài (3) Dàn bài. Ví dụ 
bài 3 lớp 3 Tiểu học Nguyệt san: 
“TẬP LÀM VĂN. Đi dự lễ em thấy 
thầy em ăn mặc thế nào? Em tả bộ âu-phục 
của thầy em. 
Dàn bài: 1.– Mở đề: 1.–Thầy em 
mặc bộ âu-phục may bằng vải gì? Màu gì? 
2.– Nhập đề: 2.– Bộ âu-phục gồm có 
những gì? 
3. – Đi giày gì? Màu gì? Có đội mũ 
không? 
4.– Trông vào bộ âu-phục, các em có 
cảm tưởng gì? 
3.– Kết luận: 5.– Ta phải ăn mặc thế 
nào và sự ăn mặc cốt phải thế nào?” 
Các phân môn Ngữ vựng, Tập đọc, 
Chính tả, Học thuộc lòng, Tập viết có cấu 
trúc bài học tương tự sách lớp 2, chỉ khác 
về dung lượng và mức độ bài học. 
3.2.4. SÁCH LỚP 4 
a) Ngữ vựng: 2 bài/tuần. Cấu trúc bài 
như ở lớp 2, lớp 3. Phần Bài tập có thêm 
kiểu bài Giải nghĩa từ, Tìm cách diễn đạt 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Thị Ly Kha 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
 188
tương đương, Đặt câu. 
b) Tập đọc: (2 bài/tuần, hầu hết là 
văn xuôi). Cấu trúc tương tự lớp 2, 3; khác 
ở 2 điểm sau: (1) Câu hỏi tìm hiểu bài gồm 
4 – 5 câu hỏi về nội dung bài, với tên gọi 
cho mục này “Ý”/ “Ý tưởng”, chủ yếu: 
nhận biết, tái hiện; và 2 câu hỏi về từ ngữ 
dưới bình diện nghĩa của từ, mà không phải 
là hỏi về nghệ thuật sử dụng từ ngữ, với tên 
gọi “Lời văn”; (2) có thêm mục Dàn bài 
(Tóm tắt lại các ý của bài đọc) và mục 
“Đại ý”. 
c) Học thuộc lòng (1 bài/tuần, như 
lớp 3) 
d) Chính tả (2 bài/tuần): cấu trúc như 
lớp 2, 3. Có thêm mục “Nhận xét chính tả” 
(phần này, các sách của các nhóm tác giả 
và Tiểu học Nguyệt san đều cung cấp danh 
sách một số từ ngữ chính tả phương ngữ) 
và “Câu hỏi” với yêu cầu giải nghĩa từ 
ngữ, trả lời về nội dung văn bản, hoặc tìm 
từ đồng nghĩa, trái nghĩa,...). 
Có thể nói cấu trúc bài Chính tả là 
một điểm mạnh của các bộ sách, mặc dù 
sách thiếu hẳn phần giới thiệu quy tắc 
chính tả. Nhưng danh sách các chữ khó 
viết, danh sách các chữ dễ bị viết sai do 
phát âm theo phương ngữ, cùng những bài 
tập tìm hiểu về nội dung bài chính tả, bài 
tập mở rộng vốn từ sẽ góp phần giúp HS 
viết đúng chính tả. 
e) Văn phạm (1 bài/tuần): Tên phân 
môn Nhận xét: Ngữ liệu (thường chỉ 1 
câu, có chứa yếu tố ngữ pháp được học 
trong bài hoặc từ bài Chính tả) chọn từ 
ngữ liệu các yếu tố ngữ pháp cần cung cấp, 
gọi tên yếu tố đó) Bài học: Nêu định 
nghĩa (về từ loại, thành phần câu,...) Ví 
dụ minh hoạ (5-6 vd). Bài tập (hầu hết 1 
bài với yêu cầu nhận diện yếu tố ngữ pháp; 
thỉnh thoảng mới có bài tập đặt câu). 
g) Tập làm văn: Tên phân môn Đề 
bài Dàn bài. 
h) Tập viết (1 bài/tuần): như các lớp 
1, 2. 
3.2.5. SÁCH LỚP 5 
Trình tự các bài học trong tuần, cấu 
trúc bài học của các phân môn giống như 
sách lớp 4. 
3.3. Hình thức các câu hỏi, bài tập 
Nhìn chung, các câu hỏi, bài tập ở tất 
cả các phân môn đều được trình bày gọn, 
rõ nhưng chưa phong phú. Câu hỏi tìm 
hiểu bài đọc, bài chính tả, đều chỉ dừng ở 
mức độ nhận biết – kiểu tái hiện – mà chưa 
thấy dạng câu hỏi phát hiện (kể cả câu hỏi 
ở SGK lớp 5). Ở lớp 4, 5 câu hỏi đọc hiểu 
được tách thành 2 mảng: hỏi về nội dung 
bài (được gọi là “ý tưởng”) và hỏi về văn 
phạm (được gọi là “lời văn”) nhưng vẫn 
chỉ dừng ở mức độ tái hiện những tình tiết 
đã có trong nội dung bài đọc là chính. Có 
bộ sách sau mỗi câu hỏi của bài Tập đọc 
đều có phần gợi ý vắn tắt [1]; và ngay sau 
mỗi bài tập đều có đáp án [1]. Cách trình 
bày này có tác dụng gợi ý cho HS, giúp HS 
kiểm tra bài làm, nhưng không phát huy 
được tính tích cực độc lập suy nghĩ, dễ gây 
nhàm chán, gây tâm lí ỷ lại,... 
4. Một vài nhận xét thêm về SGK của 
Bộ Giáo dục so với các SGK còn lại 
Như đã trình bày ở mục 1., song song 
với các bộ SGK của nhiều tác giả, nhiều 
nhóm tác giả là phần giáo khoa trong Tiểu 
học Nguyệt san do “Bộ Giáo dục chủ biên 
và ấn hành” [8, tr.105-126]. Do giới hạn 
của bài viết, ở đây, chúng tôi chỉ nêu một 
vài nhận xét chung nhất: 
(1) Phần Giáo khoa của Tiểu học 
Nguyệt san cũng tuân thủ theo chương 
trình đã ban hành, như tất cả các bộ sách 
khác từ kiến thức đến cấu trúc các bài học 
của từng phân môn cũng như thứ tự các 
phân môn trong tuần ở mỗi khối lớp. 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 56 năm 2014 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
 189 
(2) Tính tích hợp và triết lí nhân bản, 
dân tộc, khai phóng đều được Tiểu học 
Nguyệt san và các bộ sách chú ý tôn trọng 
tối đa trong khả năng mà các tác giả có thể 
thể hiện. 
(3) Văn phong trong Tiểu học 
Nguyệt san gọt giũa hơn, màu sắc khẩu 
ngữ ít hơn đáng kể so với vài bộ sách khác 
(mà chúng tôi có được). 
(4) Điểm quan trọng hơn là bài tập 
trong Tiểu học Nguyệt san đa dạng hơn. 
Ngữ liệu các bài đọc cũng chọn lọc hơn, 
phong phú hơn. (Có bộ SGK, văn bản Học 
thuộc lòng từ lớp 1 đến lớp 4, chỉ có 1 loại 
duy nhất: thơ lục bát). 
Mặc dù có những ưu điểm như trên, 
nhưng Tiểu học Nguyệt san chỉ là tài liệu 
tham khảo cho GV, khi họ muốn làm 
phong phú thêm bài giảng; mà không thể 
sử dụng làm tài liệu giáo khoa cho HS, bởi 
cấu trúc cũng như mục đích và cách ấn 
hành. Theo tìm hiểu, chúng tôi được biết 
trước 1975, không có sách giáo viên, sách 
bài soạn đi kèm SGK như hiện nay. Giáo 
viên chỉ có SGK, giáo viên ở các tỉnh lẻ, 
rất ít người biết đến Tiểu học Nguyệt San. 
Nếu xem Tiểu học Nguyệt san là SGV 
cũng không ổn. Vì nó được biên soạn và 
cấu trúc theo kiểu tập hợp lại toàn bộ các 
bài học bài đọc của tháng tương ứng cho 
tất cả các môn, tất cả các khối lớp. Phần 
hướng dẫn, trừ phần Học vần (và ở vài bài 
Ngữ vựng có chỉ dẫn về đồ dùng dạy học), 
hầu hết không có hướng dẫn gì về phương 
pháp, hình thức tổ chức dạy học,... 
5. Kết luận 
Có thể thấy SGK Việt ngữ miền Nam 
trước 1975 đã được biên soạn theo mô hình 
phỏng giao tiếp – “sách triển khai nội dung 
theo trục kĩ năng ngôn ngữ. Sách thường 
cấu trúc theo chủ điểm, lấy một hoặc một 
số bài đọc làm điểm tựa để hình thành kiến 
thức, phát triển kĩ năng đọc, viết, nói, nghe 
cho HS; các bài tập rèn luyện kĩ năng 
thường gắn với những tình huống giao tiếp 
và nhiệm vụ giao tiếp cụ thể” [11]. Tuy 
nhiên, những điểm mạnh của mô hình này 
chưa được các bộ SGK khai thác triệt để, 
do hệ thống các câu hỏi bài tập chưa phong 
phú, chưa chú ý đến khai thác các mức độ 
của nhận thức và rèn luyện kĩ năng tiếng 
Việt cho HS; các bài tập gắn với tình 
huống chưa nhiều, chưa được thể hiện một 
cách có chủ đích (nội dung dạy nghi thức 
lời nói, như chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi chỉ 
thấy ở sách Đức dục mà không thấy ở sách 
Việt ngữ)... Ngoài ra, mô hình “sách triển 
khai nội dung theo chủ đề hoạt động của 
HS nhằm tìm hiểu các lĩnh vực khác nhau 
của đời sống, lấy các hoạt động đó làm môi 
trường giao tiếp để hình thành kiến thức, 
phát triển các kĩ năng sử dụng ngôn ngữ 
cho HS” [11] – mô hình được xem là hiệu 
quả nhất trong dạy học tiếng hiện nay – 
chưa hề thấy dù là manh nha trong bài học 
của tất cả các phân môn ở các bộ SGK mà 
chúng tôi có điều kiện tìm hiểu kể cả Tiểu 
học Nguyệt san. 
Mặc dầu không thể tránh khỏi những 
hạn chế về nội dung, mô hình, cấu trúc, 
trình bày, văn phong,... do giới hạn của 
thời đại, của lịch sử; nhưng SGK Việt ngữ 
ở miền Nam trước 1975 của nền giáo dục 
Việt Nam Cộng hòa có những điểm mạnh 
đáng ghi nhận về tính tích hợp; về việc 
hướng tới triết lí nhân bản, dân tộc, khai 
phóng; về con đường hình thành các kĩ 
năng đọc, nói, nghe, viết cho HS bậc tiểu 
học. Có thể nói cứ liệu về những điểm ưu, 
nhược của SGK Việt ngữ như đã trình bày 
đều ít nhiều giúp cho người biên soạn 
chương trình và SGK dạy học tiếng Việt 
cho HS tiểu học giai đoạn tới những bài 
học hữu ích. 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Thị Ly Kha 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
 190
1 Trong giai đoạn này, có 2 năm từ 1973 đến 1975, ở miền Nam có 2 chương trình giáo dục và 2 hệ thống sách giáo 
khoa cùng song song tồn tại, một của Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng hòa và một của Mặt trận Dân tộc Giải phóng 
Dân tộc miền Nam Việt Nam (được thực hiện ở những vùng giải phóng, x. Lê Khắc Hân “Bộ sách giáo khoa giải 
phóng ra đời như thế nào?” 
nao/45153595/202/) 
2 Do giới hạn phạm vi đề cập, ở bài viết này, chúng tôi chưa có dịp bàn đến văn phong, kĩ thuật trình bày,... 
3 Có thể nói, gần như ông Trần Văn Chánh [8, tr.105-126], người viết bài này cũng đã cố công tìm kiếm sách Việt 
ngữ bậc tiểu học trong thư viện của các trường ĐHSP TPHCM, ĐHKHXH&NV TPHCM, Viện Nghiên cứu Giáo 
dục thuộc ĐHSP TPHCM, Thư viện Khoa học Tổng hợp TPHCM, Thư viện viện KHXH TPHCM, các nhà sách cũ 
và qua bạn bè quen biết đã từng dạy tiểu học trước 1975, nhưng tư liệu thu thập được không như mong đợi. 
4 Phần Giáo khoa thường chiếm tới 4/5 số trang của Tiểu học Nguyệt san 1955 và 1964 (số các tháng trong năm 
học tháng 9 đến tháng 6). 
5 Chúng tôi sao y, kể cả lỗi chính tả. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bùi Văn Bảo, Bùi Quang Minh (1972), Việt-văn toàn-thư 3, Nxb Nhật-tảo, Sài-gòn. 
2. Bộ Quốc gia Giáo dục (1955), Tiểu học Nguyệt san số 1&2 tháng 2 & 3 năm 1955, Sài-
gòn. 
3. Bộ Quốc gia Giáo dục (1955), Tiểu học Nguyệt san, số 5&6 tháng 5&6 năm 1955, Sài-
gòn. 
4. Bộ Quốc gia Giáo dục (1960), Chương trình tiểu học, Sài-gòn. 
5. Bộ Quốc gia Giáo dục (1964), Tiểu học Nguyệt san, số 2 tháng 9 năm 1964, Sài-gòn. 
6. Bộ Giáo dục (1968), Chương trình tiểu học (áp dụng từ kể từ niên khóa 1967 – 1968), 
Trung tâm học liệu Bộ Văn hóa Giáo dục, Sài-gòn1968. 
7. Bộ Giáo dục (1968), “Nguyên tắc cải tổ chương trình tiểu học”, trong Chương trình tiểu 
học (áp dụng từ kể từ niên khóa 1967 – 1968), Trung tâm học liệu Bộ Văn hóa Giáo dục, 
Sài-gòn1968, tr.viii-xi. 
8. Trần Văn Chánh (2012), “Những bài học thuộc lòng, một thứ văn chương tiểu học của 
miền Nam trước đây”, Tạp chí Nghiên cứu và phát triển, số 6 (95), tr.105-126. 
9. Nguyễn Tất Lâm (1974), Tân Việt ngữ, lớp 1, 2, 3, 4, 5, Nxb Nam Sơn, Sài-gòn1974. 
10. Một nhóm giáo viên, Quốc-văn, lớp Nhứt, quyển I, II, Nxb Việt Hương, Sài-gòn. 
11. Nguyễn Minh Thuyết (2013), “Phác thảo mô hình sách giáo khoa Tiếng Việt tương lai”, 
trong Kỉ yếu Hội thảo Quốc gia - Quốc tế: Đổi mới Chương trình, Sách giáo khoa Giáo 
dục phổ thông: Kinh nghiệm quốc tế và vận dụng vào Việt Nam, Bộ GD&ĐT, Hà Nội. 
12. Phạm Trường Xuân (và các tác giả khác) (1959), Quốc-văn toàn thư, lớp 3, quyển I, II, 
Nxb Việt Hương, Sài-gòn. 
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 28-02-2014; ngày phản biện đánh giá: 06-3-2014; 
ngày chấp nhận đăng: 11-3-2014) 

File đính kèm:

  • pdfmo_hinh_sach_giao_khoa_viet_ngu_bac_tieu_hoc_o_mien_nam_truo.pdf