Marketing thông qua người ảnh hưởng: Vận dụng trong thực tiễn tại Việt Nam

Marketing lan truyền, quảng cáo truyền miệng, marketing trên mạng xã hội là các chủ

đề hiện đang được người làm thực tế quan tâm trong bối cảnh phát triển mới của phương tiện

tiện truyền thông và Internet. Trong các hoạt động trên, Marketing thông qua Người ảnh

hưởng (Influencer Marketing) là một trong số các chiến thuật được ưu tiên áp dụng. Mặc dù

có nhiều hoạt động marketing trong thực tế nhưng lý thuyết về cơ chế tác động cũng như cách

thức xác định Người ảnh hưởng còn chưa được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Nghiên cứu

của chúng tôi đã tổng hợp các lý thuyết về truyền thông, marketing, hành vi người tiêu dùng

trong bối cảnh cũ (trước khi xuất hiện mạng xã hội) và bối cảnh mới (sau khi xuất hiện và

bủng nổ mạng xã hội) để chỉ ra các tiêu chí giúp xác định Người ảnh hưởng như: kiến thức,

chuyên môn, tính định hướng quan điểm, mối quan hệ xã hội v.v. Chúng tôi cũng gợi ý một

số giải pháp trong việc tiếp cận vấn đề Marketing thông qua Người ảnh hưởng cho người làm

thực tế và các khoảng trống liên quan đến việc áp dụng công nghệ thông tin, toán học cho

việc xây dựng khung lý thuyết hay tiêu chí xác định Người ảnh hưởng trong bối cảnh Việt

Nam.

Marketing thông qua người ảnh hưởng: Vận dụng trong thực tiễn tại Việt Nam trang 1

Trang 1

Marketing thông qua người ảnh hưởng: Vận dụng trong thực tiễn tại Việt Nam trang 2

Trang 2

Marketing thông qua người ảnh hưởng: Vận dụng trong thực tiễn tại Việt Nam trang 3

Trang 3

Marketing thông qua người ảnh hưởng: Vận dụng trong thực tiễn tại Việt Nam trang 4

Trang 4

Marketing thông qua người ảnh hưởng: Vận dụng trong thực tiễn tại Việt Nam trang 5

Trang 5

Marketing thông qua người ảnh hưởng: Vận dụng trong thực tiễn tại Việt Nam trang 6

Trang 6

Marketing thông qua người ảnh hưởng: Vận dụng trong thực tiễn tại Việt Nam trang 7

Trang 7

Marketing thông qua người ảnh hưởng: Vận dụng trong thực tiễn tại Việt Nam trang 8

Trang 8

Marketing thông qua người ảnh hưởng: Vận dụng trong thực tiễn tại Việt Nam trang 9

Trang 9

pdf 9 trang baonam 11260
Bạn đang xem tài liệu "Marketing thông qua người ảnh hưởng: Vận dụng trong thực tiễn tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Marketing thông qua người ảnh hưởng: Vận dụng trong thực tiễn tại Việt Nam

Marketing thông qua người ảnh hưởng: Vận dụng trong thực tiễn tại Việt Nam
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 
393 
MARKETING THÔNG QUA NGƢỜI ẢNH HƢỞNG: VẬN DỤNG TRONG 
THỰC TIỄN TẠI VIỆT NAM 
ThS. Nguyễn Vũ Châu Giang, Đại học Hải Phòng 
ThS. Lê Phạm Khánh Hoà, Đại học Kinh tế Quốc dân 
TÓM TẮT 
Marketing lan truyền, quảng cáo truyền miệng, marketing trên mạng xã hội là các chủ 
đề hiện đang được người làm thực tế quan tâm trong bối cảnh phát triển mới của phương tiện 
tiện truyền thông và Internet. Trong các hoạt động trên, Marketing thông qua Người ảnh 
hưởng (Influencer Marketing) là một trong số các chiến thuật được ưu tiên áp dụng. Mặc dù 
có nhiều hoạt động marketing trong thực tế nhưng lý thuyết về cơ chế tác động cũng như cách 
thức xác định Người ảnh hưởng còn chưa được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Nghiên cứu 
của chúng tôi đã tổng hợp các lý thuyết về truyền thông, marketing, hành vi người tiêu dùng 
trong bối cảnh cũ (trước khi xuất hiện mạng xã hội) và bối cảnh mới (sau khi xuất hiện và 
bủng nổ mạng xã hội) để chỉ ra các tiêu chí giúp xác định Người ảnh hưởng như: kiến thức, 
chuyên môn, tính định hướng quan điểm, mối quan hệ xã hội v.v... Chúng tôi cũng gợi ý một 
số giải pháp trong việc tiếp cận vấn đề Marketing thông qua Người ảnh hưởng cho người làm 
thực tế và các khoảng trống liên quan đến việc áp dụng công nghệ thông tin, toán học cho 
việc xây dựng khung lý thuyết hay tiêu chí xác định Người ảnh hưởng trong bối cảnh Việt 
Nam. 
Từ khoá: Ngƣời ảnh hƣởng, Marketing thông qua ngƣời ảnh hƣởng, Mạng xã 
hội, Truyền miệng, Ngƣời định hƣớng quan điểm 
Influencer marketing: practical usage in Vietnam 
In the era of rapid development of media and internet, viral marketing, word of mouth, 
social network marketing are the topics of interest among marketer. Influencer marketing is 
the priority marketing strategy used from above-mentioned activities. Practically used, 
however this strategy is lacked of theoretical backup and study of how to execute and to 
identify the influencer. Our research has synthesized the doctrine of media, marketing and 
consumer behaviour before and after the booming of social network in order to illustrate the 
criteria to identify influencer such as knowledge, expertise, viewpoint orientation, social 
relationship.. etc. we also suggest the solution to approach marketing problem via influencer 
practically and the gap between the implementation of information technology and 
mathematics in building theoretical structure and the identification criteria of influencer in 
Vietnam 
Key word: influencer, influencer marketing, social network, word of mouth, 
viewpoint orientation 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Phương tiện truyền thông đại chúng không còn xa lạ với người tiêu dùng Việt Nam 
như 30 năm trước đây. Chính sự bùng nổ của phương tiện truyền thông đại chúng và sự tăng 
lên nhanh chóng của thông tin, kiến thức mà ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông đại 
chúng truyền thống (truyền hình, radio, báo, tạp chí) không còn cao trong quyết định mua của 
người tiêu dùng. Người làm marketing đang tăng tỷ trọng ngân sách ngày càng nhiều cho các 
phương tiện truyền thông kỹ thuật số, mạng xã hội. Nhưng ngay trong việc tăng tỷ trọng cho 
phương tiện số, người làm marketing cũng khó có thể thành công với các thông điệp mang 
tính đại chúng nếu không có tính sáng tạo cao và thu hút được người tiêu dùng. Các thông 
điệp truyền thông và các kênh truyền thông để tiếp cận với người tiêu dùng ngày nay cần có 
tính cá nhân hoá và độ tin cậy ở mức độ nhất định. Nguồn thông tin từ những người có uy tín, 
có ảnh hưởng có khả năng tác động và thuyết phục cao hơn. 
Những người có ảnh hưởng, có uy tín trong xã hội luôn đóng vai trò quan trọng trong 
hoạt động thuyết phục cộng đồng của các chính quyền Việt Nam trong lịch sử. Bài học thành 
công từ các hoạt động dân vận trong chiến tranh của Đảng Cộng Sản Việt Nam (1945-1975) 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 
 394 
là minh chứng không thể thuyết phục hơn. Trong bối cảnh hiện đại, những người có uy tín, có 
ảnh hưởng vẫn được Chính phủ Việt Nam quan tâm, ưu đãi thậm chí có chính sách cụ thể 
(Quyết định 2561/QĐ-TTG – Tăng cường vai trò của người có uy tín trong vùng dân tộc thiểu 
số ký ngày 31 tháng 12 năm 2016). Tuy nhiên, trong bối cảnh mới với sự phát triển mạnh mẽ 
của khoa học kỹ thuật và phương tiện thông tin đại chúng, liệu cách tiếp cận về “người có uy 
tín” có hiệu quả và có thể áp dụng cho nhiều hoạt động truyền thông khác. 
Sự phát triển của Internet và mạng xã hội dẫn tới hình thành nhiều hình thức cũng như 
cách tiếp cận mới trong hoạt động truyền thông. Các doanh nghiệp luôn đi trước trong việc 
nắm bắt và sử dụng các xu hướng truyền thông marketing mới, một trong những xu hướng đó 
chính là marketing thông qua người ảnh hưởng (influence marketing). Tuy nhiên, trong cả lý 
thuyết lẫn thực tiễn cách hiểu khác nhau về người ảnh hưởng, người nổi tiếng hay KOL (viết 
tắt của Key Opinion Leader) vẫn chưa có sự thống nhất gây khó khăn cho việc hệ thống hoá 
cũng như  ... gia, các nhóm chuyên gia, những người định hướng quan điểm như một đối 
tượng trung gian trong quá trình truyền thông về chính sách được coi như một nhu cầu thiết 
yếu trong quá trình hoạch định chính sách. Tác giả gợi ý sử dụng phân tích độ nhạy 
(sentiment analysis) như một công cụ phân tích quan điểm trên nền tảng trực tuyến (online 
opinion mining) giúp các nhà hoạch định chính sách (policymaker) đưa ra các quyết định phù 
hợp. 
Do sự phát triển mạnh mẽ của mạng xã hội, việc xác định Người ảnh hưởng theo các 
tiêu chí học thuật có thể gặp một số trở ngại liên quan đến việc đo lường và xác định. Theo 
Lu, Jerath, & Vir Sigh (2012), Người định hướng quan điểm trên các cộng đồng liên kết trực 
tuyến thiết lập mối quan hệ với những người khác thông qua Niềm tin (Trust). Trong khi 
mạng lười phát triển được thông qua Sự ưa thích gắn kết (Preferential attachment) và Trao đổi 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 
 398 
thông tin (Reciprocity). Phong cách viết (khách quan, dễ đọc, toàn diện) cũng là những động 
cơ có ý nghĩa lớn cho sự phát triển mạng lưới và thậm chí cả Tính định hướng quan điểm 
(Opinion leadership). 
Nghiên cứu của (Munger & Zhao, 2015) giải quyết vấn đề xác định những Người 
dùng có ảnh hưởng (Influential users) trên các diễn đàn thông qua phương pháp phân tích 
mạng xã hội (social network analysis) và chấm điểm tính chuyên môn của chủ đề (Topical 
expertise scoring). Theo đó, Tính chuyên môn của chủ đề là một trong những điểm mới tác 
giả đưa vào mô hình để xác định những người có ảnh hưởng, các tiêu chí gồm: nội dung, mức 
độ phản hồi của người ảnh hưởng, chất lượng bài viết, độ nhạy với chủ đề của người quan 
tâm. Các tiêu chí này có tiềm năng được áp dụng không chỉ trên các diễn đàn mà cả trên các 
mạng xã hội phổ biến hiện nay như Facebook và Twitter. Cũng trong một nghiên cứu với chủ 
đề tương tự (Bakshy, Hofman, Mason, & Watts, 2011) chỉ ra các tiêu chí để xác định những 
Người có ảnh hưởng trên Twitter thông qua các chỉ số rất cụ thể và đơn giản: Số người theo 
dõi (Followers), Số bạn bè (Friends), Số bài viết (Tweets), Thời gian bắt đầu sử dụng Twitter 
(date of joining) và Kinh nghiệm trong quá khứ của người chia sẻ thông tin. Cách tiếp cận 
tương tự được (Kim & Tran, 2013) áp dụng, ngoài việc sử dụng các tiêu chí đo lường để xác 
định Người định hướng quan điểm (Mức độ đầu vào, Mức độ đầu ra và Kết hợp), tác giả còn 
xây dựng các chỉ số đo lường mức độ Tin cậy (Điểm kiến thức - Knowledge score, Hệ số phù 
hợp - Matching cofficient, Hệ số Jaccard). Tác giả gợi ý sử dụng Hệ số phù hợp (Matching 
coefficient) cho việc xác định Người định hướng quan điểm trong đa số các trường hợp. Việc 
sử dụng các chỉ số đo mức độ đầu vào, đầu ra (in-degree, out-degree) không hiệu quả trong đa 
số các trường hợp. 
Làm rõ hơn cho các cách tiếp cận mang tính toán học với tư cách công cụ hỗ trợ cho 
việc xác định những người ảnh hưởng, phân tích quan điểm, nghiên cứu của (Rios, Aguilera, 
Nunez-Gonzalez, & Grana, 2017) gợi ý việc sử dụng phân tích khái niệm mờ (fuzzy concept 
analysis) và phân tích tiềm ẩn Dirichlet (LDA) thông qua ngữ nghĩa văn bản, cùng với phân 
tích mạng lưới theo sơ đồ (graph analysis of the network). 
Trong bối cảnh của marketing du lịch (Bokunewicz & Shulman, 2017) gợi ý cách xác 
định những người ảnh hưởng nhờ phương pháp phân tích mạng lưới (social network) bằng 
các công cụ phần mềm với các thông tin được chia sẻ trên mạng xã hội Twitter tại Mỹ nhằm 
thông qua người ảnh hưởng để xây dựng các chiến dịch marketing, quảng cáo. 
Bối cảnh nghiên cứu trên môi trường trực tuyến, mạng xã hội, diễn đàn trực tuyến cho 
thấy sự thay đổi trong cách tiếp cận nghiên cứu về người ảnh hưởng. Theo đó ranh giới giữa 
Người định hướng và Chuyên gia thị trường đã bị lu mờ bởi một trọng tâm cơ bản hơn là 
Người có ảnh hưởng. Không những thế, nghiên cứu trong bối cảnh mới còn tập trung vào xác 
định Người ảnh hưởng và tìm kiếm họ trong đông đảo người tiêu dùng. Trong bối cảnh này, 
Người ảnh hưởng nhiều hơn, dễ thấy hơn, dễ xác định và tiếp cận hơn thông qua các chỉ số 
định lượng tương đối dễ nhận biết. Các nghiên cứu trong bối cảnh mới có xu hướng sử dụng 
nhiều mô hình toán học phức tạp gắn với dữ liệu lớn bằng các phần mềm và hệ thống thu thập 
dữ liệu tiên tiến. Mặc dù các chỉ số được các mạng xã hội cung cấp là một tiêu chí đơn giản 
để xác định Người có ảnh hưởng nhưng một số nhà nghiên cứu cho rằng việc xây dựng các 
mô hình, chỉ số trong đó tập trung vào việc đánh giá sự phù hợp của Người ảnh hưởng với 
chủ đề hay nội dung có ý nghĩa hơn trong việc xác định Ngươi có ảnh hưởng. 
3. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MARKETING THÔNG QUA NGƢỜI ẢNH 
HƢỞNG Ở VIỆT NAM 
Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, các công ty nghiên cứu thị trường trên mạng xã 
hội thông qua giải pháp Lắng nghe trên mạng xã hội (social listening) đang bắt đầu khai thác 
thị trường thông qua việc đánh giá và gợi ý người làm marketing tìm ra Người ảnh hưởng. 
BuzzMetrics là một trong những công ty hàng đầu trong dịch vụ này. BuzzMetrics hiện tại 
đang phân loại Người ảnh hưởng (KOLs) thành ba nhóm khác nhau trên ba tiêu chí Mức độ 
tiếp cận (Reach), Độ phù hợp (Relevance), Mức độ gợi nhớ (Resonance) gồm: (1) Người nổi 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 
399 
tiếng/Người của công chúng (VIPs/Celebrities) - những người có Mức độ tiếp cận rộng nhất 
nhưng không phải lúc nào cũng có Độ phù hợp tốt; (2) Các chuyên gia (Professional 
influencer) - những người vừa có Mức độ tiếp cận cao và Mức độ phù hợp cao; (3) Công dân 
có ảnh hưởng (Citizen influencers) được xác định thông qua một số tiêu chí của mạng xã hội 
như Số bạn bè (Friends), Số người theo dõi (Followers), họ có Mức độ phù hợp cao song Mức 
độ tiếp cận thấp (Cao, 2016). Ngoài ra BuzzMetrics còn công bố bảng xếp hạng hàng tháng về 
các chiến dịch marketing, các thương hiệu được nhắc đến nhiều nhất trên mạng xã hội cũng 
như những người nổi tiếng trên mạng xã hội. 
Hình 1: Bảng xếp hạng ngƣời nổi tiếng trên mạng xã hội Facebok của 
BuzzMetrics
38
Ngoài các công ty nghiên cứu thị trường, các công ty cung cấp giải pháp phần mềm và 
nền tảng trên thiết bị số cũng tham gia thị trường này. Tiêu biểu trong số này là Hiip, một nền 
tảng cho phép kết nối Người ảnh hưởng với những người làm marketing hay người có nhu 
cầu. Ngoài những nền tảng này, các Công ty cung cấp giải pháp đánh giá hiệu quả hoạt động 
truyền thông trên mạng xã hội cũng góp phần không nhỏ trong việc thống kê, gợi ý các tiêu 
chí xác định Người ảnh hưởng, phổ biến nhất trong số này là Socialbaker, một công cụ thống 
kê và đành giá hiệu quả truyền thông trên Facebook. 
Chúng tôi chưa thực hiện một đánh giá chi tiết, đầy đủ về các hoạt động marketing 
thông qua người ảnh hưởng tại thị trường Việt Nam. Tuy nhiên, qua thống kê của 
BuzzMetrics và theo dõi trên mạng xã hôi, chúng tôi nhận thấy: thứ nhất, các hoạt động 
marketing thông qua người ảnh hưởng sử dụng đối tượng chính là những diễn viên, nghệ sỹ, 
người nổi tiếng trong lĩnh vực giải trí. Các kênh liên lạc của họ như Facebook, Youtube đóng 
vai trò như một kênh truyền thông với mức độ tiếp cận lớn tới các đối tượng công chúng nhận 
tin. Thứ hai, các hoạt động marketing thông qua Người ảnh hưởng theo hình thức này ít có sự 
gắn kết chặt chẽ giữa chiến lược thông điệp với kênh truyền thông. Người nổi tiếng thường 
chia sẻ các sản phẩm truyền thông trong đó họ đóng vai trò như một người bảo chứng hay một 
nguồn thông tin cung cấp cho công chúng nhận tin. Theo cách tiếp cận đang thực hiện, chúng 
tôi cho rằng các hoạt động này có khả năng thay đổi hình ảnh, tăng nhận biết hoặc hình thành 
thái độ với sản phẩm/thương hiệu trong khoảng thời gian ngắn và không tồn tại lâu dài. Các 
hoạt động như vậy thường hạn chế giá trị hỗ trợ, củng cố hình ảnh cho cả người nổi tiếng và 
38
 Nguồn:  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 
 400 
sản phẩm/thương hiệu. Chi phí để sử dụng người nổi tiếng trong các chiến dịch này chắc chắn 
sẽ không nhỏ, trong khi không có khả năng đo lường thông qua các chỉ số liên quan trực tiếp 
đến tài chính hay doanh số như Lợi nhuận trên vốn đầu tư Marketing (ROI Marketing). 
4. MỘT SỐ GỢI Ý NHẰM TĂNG CƢỜNG HIỆU QUẢ MARKETING THÔNG 
QUA NGƢỜI ẢNH HƢỞNG 
Từ lý thuyết và thực tế hoạt động marketing thông qua người ảnh hưởng ở Việt Nam 
chúng tôi thừa nhận cách tiếp cận của (Brown & Hayes, 2008) như một cách định hướng 
chung. Theo đó cần có hai cách tiếp cận khác nhau với Marketing thông qua người ảnh 
hưởng. 
Thứ nhất, Marketing tới Người ảnh hưởng với mục đích coi họ như một phương tiện 
truyền đạt thông tin tới đông đảo người tiêu dùng. Trong cách tiếp cận này, người ảnh hưởng 
là đối tượng cuối cùng của hoạt động truyền thông, họ là người tiếp nhận thông điệp truyền 
thông. Mục tiêu của doanh nghiệp là tăng khả năng lan truyền thông điệp từ họ tới khách hàng 
tiềm năng (theo mô hình truyền thông hai bước). Có thể nói, nhiệm vụ quan trọng nhất với 
cách tiếp cận này là xác định người ảnh hưởng. Trong môi trường truyền thông trên internet 
và mạng xã hội, các chỉ số để xác định không khó nhưng ngưỡng (hay con số cụ thể) cần 
được nghiên cứu thêm. Đồng thời, cần phát triển các thang đo, chỉ số đánh giá mức độ phù 
hợp của người ảnh hưởng. Người làm marketing cũng cần chú trọng các thông điệp tới Người 
ảnh hưởng sao cho tính thuyết phục và khả năng tái sử dụng của Người ảnh hưởng là đơn giản 
nhất. 
Thứ hai, Marketing thông qua Người ảnh hưởng với mục đích coi Người ảnh hưởng là 
công cụ truyền tải thông điệp tới đông đảo công chúng hoặc khách hàng tiềm năng. Trong 
cách tiếp cận này, khách hàng tiềm năng/công chúng là đối tượng nhận tin cuối cùng. Mặc dù 
có thể gặp một số vấn đề đạo đức, tuy nhiên, người làm marketing hoàn toàn có thể khắc phục 
và giải quyết được nếu có những giải pháp mang tính chiến thuật phù hợp. Với cách tiếp cận 
này, tìm kiếm người nổi tiếng, người có chuyên môn có thể là giải pháp an toàn nhất. Song 
việc giảm mức độ đề phòng với thông điệp hay phải cân nhắc sử dụng thêm các phương tiện 
truyền thông đại chúng hỗ trợ sẽ là vấn đề lớn với người làm marketing. Nếu tìm kiếm những 
người ảnh hưởng thông thường, người làm marketing sẽ cần có chiến lược tuyển chọn, huấn 
luyện, truyền thông, đào tạo và phải đảm bảo được các vấn đề về tính pháp lý hay đạo đức với 
hoạt động của mình. 
5. KẾT LUẬN VÀ HẠN CHẾ CỦA NGHIÊN CỨU 
Có thể nói, Người ảnh hưởng là một trong những cách tiếp cận marketing không quá 
mới mẻ. Tuy nhiên, những vấn đề của bối cảnh mới đang đặt ra nhiều thách thức cho việc sử 
dụng Người ảnh hưởng trong chiến thuật marketing của các doanh nghiệp. Nghiên cứu của 
chúng tôi mới phần nào hệ thống được lý thuyết về Người ảnh hưởng trong bối cảnh cũ 
(truyền thống), mới (hiện đại) và các tiêu chí xác định Người ảnh hưởng. Chúng tôi cho rằng 
không nhất thiết phải đặt ranh giới rõ ràng giữa các nhóm người ảnh hưởng trong việc sử 
dụng khái niệm Marketing thông qua Người ảnh hưởng nhưng chúng tôi cho rằng cần phải 
xác định rõ đối tượng cũng như tìm kiếm các tiêu chí phân loại và xác định người ảnh hưởng 
tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng trong hoạt động marketing. Cùng với thông điệp truyền 
thông, đây là trọng tâm chính với hoạt động Marketing thông qua Người ảnh hưởng. Các 
nghiên cứu trong bối cảnh Việt Nam nên xem xét việc xây dựng, phát triển các tiêu chí xác 
định Người ảnh hưởng một cách chi tiết và cụ thể hơn. 
Nghiên cứu của chúng tôi còn gặp nhiều hạn chế trong việc thống kê các chiến dịch 
marketing thông qua người ảnh hưởng cũng như hệ thống hoá kết quả các nghiên cứu xác 
định người ảnh hưởng bằng các công cụ của máy tính, phần mềm và lý thuyết toán. Chúng tôi 
cho rằng, các nghiên cứu chuyên sâu bằng những công nghệ mới, cách tiếp cận mới nên được 
sử dụng nhiều hơn trong lý thuyết marketing thông qua người ảnh hưởng nhằm làm giàu có 
hơn cho lý thuyết và thực tế hoạt động này tại Việt Nam. 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 
401 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Abratt, R., Nel, D., & Nezer, C. (1995, Fall). Role of the market maven in retailing: a 
general marketplace influencer. Journal of Business and Psychology, 10(1), 31-55. 
Bakshy, E., Hofman, J., Mason, W., & Watts, D. (2011). Everyone's an Influencer: 
Quantifying Influence on Twitter. HongKong, China: WSDM‟11. 
Bokunewicz, J., & Shulman, J. (2017). Influencer identification in Twitter networks of 
destination marketing organizations. Journal of Hospitality and Tourism Technology. 
Brown, D., & Hayes, N. (2008). Influencer Marketing - Who really influences your 
customer? Hungary: Butterworth-Heinemann. 
Cao, H. (2016, 3 20). Insight plus. Retrieved from BuzzMetrics: 
dich-marketing-tren-social-media/ 
Chan, K., & Misra, S. (1990). Characteristics of the Opinion Leader: A New 
Dimension. Journal of Advertising, 19(3), 53-60. 
De Bruyn, A., & Lilien, G. (2008). A multi-stage model of word-of-mouth influence 
through viral marketing. International Journal of Research in Marketing, 25, 151-163. 
Engelland, B., Hopkins, C., & Larson, D. A. (2001, Fall). Market Mavenship as an 
Influencer of Service Quality Evaluation. Journal of Marketing Theory and Practice, 9(4), 15-
26. 
Katz, E. (1957). The Two Step Flow of Communication: An Up-to-date Report on an 
Hypothesis. Political Opinion Quarterly, 21(1), 61-78. 
Kim, Y. S., & Tran, L. V. (2013). Assessing the ripple effects of online opinion 
leaders with trust and distrust metrics. Expert System with Applications, 40, 3500-3511. 
Li, F., & Du, T. (2011). Who is talking? An ontology-based opinion leader 
identification framework for word-of-mouth marketing in online social blogs. Decision 
Support Systems, 51, 190-197. 
Lu, Y., Jerath, K., & Vir Sigh, P. (2012). The Emergence of Opinion Leaders in a 
Networked Online Community: A Dyadic Model with Time Dynamics and a Heuristic for 
Fast Estimation. Management Sciecne Articles in Advances, 1-17. 
Munger, T., & Zhao, J. (2015). Identifying Influential Users in On-line Support 
Forums using Topical Expertise and Social Network Analysis. IEEE/ACM International 
Conference on Advances in Social Networks Analysis and Mining (pp. 721-728). Paris: 2015 
ACM. 
Price, L., & Feick, L. (1984). The Role of Interpersonal Sources in External Search: an 
Informational Pespective. (P. Thomas C. Kinnear, Ed.) Advances in Consumer Research, 11, 
250-255. 
Rios, S., Aguilera, F., Nunez-Gonzalez, D., & Grana, M. (2017). Semantically 
enhanced network analysis for influencer identification in online social networks. 
Neurocomputing, 000, 1-11. 
Ruvio, A., & Shoham, A. (2007, August). Innovativeness, Eploratory Behavior, 
Market Mavenship, and Opinion Leadership: An Empirical Examination in the Asian Context. 
Psychology and Marketing, 24(8), 703-722. 
Sobkowicz, P., Kaschesky, M., & Bouchard, G. (2012). Opinion mining in social 
media: Modeling, simulating, and forecasting political opinions in the web. Government 
Information Quaterly, 29, 470-479. 

File đính kèm:

  • pdfmarketing_thong_qua_nguoi_anh_huong_van_dung_trong_thuc_tien.pdf