Lý thuyết địa kinh tế theo quan điểm phát triển trong nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực địa phương

Sử dụng cách tiếp cận nghiên cứu liên ngành trong nghiên cứu phát

triển nguồn nhân lực nói riêng và trong lĩnh vực kinh tế-xã hội nói chung đang trở

thành xu hướng đóng vai trò chủ đạo. Điều đó giúp cho không chỉ các nhà khoa học mà

còn cả các nhà hoạch định chính sách cũng như các đối tác xã hội khác có liên quan

hiểu và nhận thức một cách rõ ràng, đầy đủ và tổng quát hơn về những xu hướng, diễn

biến và các nhân tố tác động tới vấn đề mà họ quan tâm. Trong phạm vi bài viết này,

tác giả mong muốn đóng góp một cách tiếp cận nghiên cứu mới trong lĩnh vực phát

triển nguồn nhân lực (dưới góc độ cấp địa phương, doanh nghiệp và người lao động) ở

Việt Nam, thông qua việc sử dụng một số khái niệm, cơ sở/quan điểm lý thuyết của hệ

thống lý thuyết địa kinh tế theo quan điểm phát triển. Trong đó tập trung vào hai vấn

đề: (i) khả năng hồi phục/thích nghi của địa phương trước những tác động mang yếu tố

bên ngoài; và (ii) đặc trưng của địa phương/vùng tác động như thế nào tới phát triển

nguồn nhân lực.

Lý thuyết địa kinh tế theo quan điểm phát triển trong nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực địa phương trang 1

Trang 1

Lý thuyết địa kinh tế theo quan điểm phát triển trong nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực địa phương trang 2

Trang 2

Lý thuyết địa kinh tế theo quan điểm phát triển trong nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực địa phương trang 3

Trang 3

Lý thuyết địa kinh tế theo quan điểm phát triển trong nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực địa phương trang 4

Trang 4

Lý thuyết địa kinh tế theo quan điểm phát triển trong nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực địa phương trang 5

Trang 5

Lý thuyết địa kinh tế theo quan điểm phát triển trong nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực địa phương trang 6

Trang 6

Lý thuyết địa kinh tế theo quan điểm phát triển trong nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực địa phương trang 7

Trang 7

pdf 7 trang baonam 11420
Bạn đang xem tài liệu "Lý thuyết địa kinh tế theo quan điểm phát triển trong nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực địa phương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Lý thuyết địa kinh tế theo quan điểm phát triển trong nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực địa phương

Lý thuyết địa kinh tế theo quan điểm phát triển trong nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực địa phương
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 34/Quý I - 2013 
 129 
LÝ THUYẾT ĐỊA KINH TẾ THEO QUAN ĐIỂM 
PHÁT TRIỂN TRONG NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN 
NGUỒN NHÂN LỰC ĐỊA PHƯƠNG 
 ThS. Nguyễn Trung Hưng 
 Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Dân số, Lao động, Việc làm 
Tóm tắt: Sử dụng cách tiếp cận nghiên cứu liên ngành trong nghiên cứu phát 
triển nguồn nhân lực nói riêng và trong lĩnh vực kinh tế-xã hội nói chung đang trở 
thành xu hướng đóng vai trò chủ đạo. Điều đó giúp cho không chỉ các nhà khoa học mà 
còn cả các nhà hoạch định chính sách cũng như các đối tác xã hội khác có liên quan 
hiểu và nhận thức một cách rõ ràng, đầy đủ và tổng quát hơn về những xu hướng, diễn 
biến và các nhân tố tác động tới vấn đề mà họ quan tâm. Trong phạm vi bài viết này, 
tác giả mong muốn đóng góp một cách tiếp cận nghiên cứu mới trong lĩnh vực phát 
triển nguồn nhân lực (dưới góc độ cấp địa phương, doanh nghiệp và người lao động) ở 
Việt Nam, thông qua việc sử dụng một số khái niệm, cơ sở/quan điểm lý thuyết của hệ 
thống lý thuyết địa kinh tế theo quan điểm phát triển. Trong đó tập trung vào hai vấn 
đề: (i) khả năng hồi phục/thích nghi của địa phương trước những tác động mang yếu tố 
bên ngoài; và (ii) đặc trưng của địa phương/vùng tác động như thế nào tới phát triển 
nguồn nhân lực. 
Từ khóa: phát triển nguồn nhân lực, địa kinh tế. 
Summary: Using interdisciplinary approaches in research and human resource 
development in particular in the field of socio-economic development in general has 
become the dominant trend. It helps to not only scientists but also policy makers as 
well as other relevant social partners to understand and realize a clear, complete and 
more general trends, development process and the factors affecting the issues that 
concern them. Within the scope of this article, the author would like to contribute a 
new research approach in the field of human resource development (from perspective 
of local-level agency, of enterprises and of workers) in Vietnam, through the use some 
of the concepts, basic / theoretical point of view of Geographio - economics theory and 
form the development perspective. Paper focused on two issues: (i) the ability to 
recover / local adaptation to the impacts of external factors;, and (ii) how the local 
characteristics of the locality / region impact to human resource development. 
Key words: human resource development,resilience, routine, evolutionary 
economic geography. 
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 34/Quý I - 2013 
 130 
1. Đặt vấn đề 
Phát triển nguồn nhân lực nói chung 
và qui hoạch phát triển nguồn nhân lực 
địa phương ở Việt Nam nói riêng trong 
bối cảnh hội nhập quốc tế và công 
nghiệp hoá, hiện đại hóa đã và sẽ tiếp tục 
trở thành chủ đề quan trọng thu hút sự 
quan tâm của nhiều tổ chức, các học giả 
cũng như các nhà lập kế hoạch trong thời 
gian tới. Cùng với đó, những lý thuyết, 
mô hình và phương pháp tiếp cận được 
ứng dụng trong nghiên cứu phát triển 
nguồn nhân lực cũng không ngừng được 
bổ sung, hoàn thiện và ngày càng trở nên 
đa dạng hóa. 
Bằng việc giới thiệu lý thuyết địa 
kinh tế theo quan điểm phát triển trong 
nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực địa 
phương (cấp tỉnh/thành phố), tác giả hy 
vọng phần nào góp phần nhỏ bé vào việc 
làm phong phú thêm hệ thống cơ sở lý 
luận về nghiên cứu phát triển nguồn nhân 
lực. Mục tiêu chính của bài viết tập trung 
vào hai vấn đề gồm: (i) các địa phương 
ứng phó như thế nào với những tác động 
(hoặc “cú sốc”) từ bên ngoài và từ đó 
những nhân tố nào của địa phương tác 
động tới phát triển nguồn nhân lực, qua 
đó tác động tới phát triển kinh tế-xã hội. 
Để trả lời hai câu hỏi này, tác giả sẽ tập 
trung vào việc phân tích tính đàn hồi 
(resilience) của vùng trong ứng phó với 
những thay đổi do tác động bên ngoài (ví 
dụ như khủng hoảng) và ảnh hưởng của 
vùng tác động tới phát triển nguồn nhân 
lực. 
2. Đặc trưng cơ bản của lý thuyết 
địa kinh tế theo quan điểm phát triển 
là gì? 
Khác với cách tiếp cận cân bằng hệ 
thống (giả định là các hệ thống/cơ chế 
của nền kinh tế luôn hoạt động để nhắm 
tới mục tiêu đạt được sự cân bằng trong 
tổng thể hệ thống, sử dụng nhiều biến số 
đo lường đầu vào đầu ra mang tính định 
lượng và mục đích nhắm đến cuối cùng 
là các kết quả có thể đo lường được), lý 
thuyết địa kinh tế theo quan điểm phát 
triển (chủ yếu dựa trên cơ sở ba khung lý 
thuyết có tên Generalised Darwinism 
Theory; Complexity Theory; và Path 
Dependence Theory) tập trung vào việc 
phân tích và làm rõ các quá trình, cơ chế 
và những yếu tố tác động tới sự phát 
triển, biến đổi của nền kinh tế về mặt 
không gian. Cụ thể hơn, chuyên ngành 
này tập trung vào việc trả lời các câu hỏi 
cho các vấn đề như: sự phân bố về mặt 
không gian của các nhân tố kinh tế mới 
(thay đổi cộng nghệ, sự ra đời của các 
doanh nghiệp, các ngành kinh tế cũng 
như các hệ thống/cơ chế mới) ảnh hưởng 
thế nào t ... h thành như thế nào dưới tác 
động của các hoạt động của các tác nhân 
kinh tế (economic agents) ở cấp độ vi mô 
(cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp và 
các tổ chức khác); và tại sao những quá 
trình như vậy giữa các vùng địa lý khác 
nhau thì cũng khác nhau 
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 34/Quý I - 2013 
 131 
Hai luận điểm chính của bài viết 
được đề cập ở đây bao gồm: (i) Địa 
phương nào có tính đàn hồi hoặc khả 
năng mau hồi phục tốt hơn thì sẽ dễ dàng 
ứng phó với những thay đổi diễn ra dưới 
tác động của những tác nhân/cú sốc bên 
ngoài tốt hơn; (ii) Những vùng có các 
đặc trưng cơ bản khác nhau thì mức độ 
phát triển kinh tế và nguồn nhân lực cũng 
khác nhau. 
3. Cơ sở lý luận về tính đàn 
hồi/khả năng mau hồi phục của địa 
phương. 
Khái niệm về Tính đàn hồi/khả năng 
mau hồi phục được sử dụng nhằm đề cập 
tới những khả năng khác nhau của địa 
phương nhằm ứng phó với những tác 
động từ bên ngoài qua đó khắc phục, hạn 
chế và giảm thiểu hậu quả của những 
thay đổi/tác động tiêu cực và duy trì hoặc 
phát huy hiệu quả tích cực do tác 
động/thay đổi đó tạo nên. Cách tiếp phân 
tích về Tính đàn hồi/khả năng mau hồi 
phục của địa phương nhấn mạnh vai trò 
và tầm quan trọng của mối liên hệ 
“không gian-xã hội” của các tác nhân xã 
hội như vốn, lao động, chính quyền địa 
phương, cộng đồng dân cư trong việc 
hình thành (hoặc được tạo ra) các hướng 
(hoặc ngành kinh tế mới) phát triển mới 
của nền kinh tế. 
Để phân tích về mức độ “đàn hồi” 
của địa phương thì cần phải làm rõ mức 
độ “thích nghi-adaptation47” và “khả 
năng thích nghi-adaptability48” cũng như 
mối quan hệ tương tác giữa hai yếu tố 
này của địa phương đó. Thông thường, 
mức độ thích nghi/adaptation của địa 
phương được thể hiện dưới dạng những 
kết quả về mặt số lượng (ví dụ như số 
người được tạo việc làm, qui mô lực 
lượng lao động, số người được hỗ trợ bảo 
hiểm thất nghiệp hoặc an sinh xã hội) 
phản ánh những hoạt động mang tính 
ngắn hạn và tức thời, trong khi đó khả 
năng thích nghi/adaptability thường được 
thể hiện dưới dạng các kết quả đo lường 
những thay đổi về mặt chất lượng (ví dụ 
như mức độ tăng/giảm về thu nhập và 
mức sống của người lao động; tỷ lệ lao 
động nữ và lao động yếu thế tham gia thị 
trường lao động) và mang tính chiến 
lược dài hạn hơn trong các chương 
trình/kế hoạch hoạt động của địa phương 
để đối phó với những thay đổi do tác 
động/cú sốc bên ngoài. 
Mức độ mạnh yếu và cơ chế tương 
tác giữa “sự thích nghi/adaptation” và 
47 Sự thích nghi/adaptation là khả năng hoạt 
động/vận động nhằm duy trì những định hướng 
phát triển đã được vạch ra trước đó thông qua mức 
độ liên kết mạnh mẽ và chặt chẽ giữa các tác nhân 
xã hội của địa phương (Andy Pike, Stuart Dawley 
và John Jomaney, 2010) 
48 Khả năng thích nghi/adaptability là khả 
năng/năng lực nhằm tìm kiếm và phát huy hoặc tạo 
ra những cơ hội phát triển mới trong quá trình bị 
tác động của địa phương thông qua việc loại bỏ 
hoặc làm suy yếu những mối liên kết giữa các tác 
nhân xã hội không còn phù hợp giữa các nhân tố xã 
hội sẵn có của địa phương (Andy Pike, Stuart 
Dawley và John Jomaney, 2010) 
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 34/Quý I - 2013 
 132 
“khả năng thích nghi/adaptability” được 
biểu hiện thông qua sự tương tác giữa 
các tác nhân xã hội (social agents) của 
địa phương. Các tác nhân xã hội này ở 
mỗi địa phương khác nhau thì cũng khác 
nhau, từ đó giúp ta giải thích được tính 
đàn hồi/khả năng mau hồi phục của địa 
phương dưới các tác động nhanh và 
mạnh từ bên ngoài. Mặt khác, các tác 
nhân xã hội này chính là những nhân tố 
quyết định mức độ “xơ cứng” (lock-in)49 
trong hoạt động của các cơ sở (doanh 
nghiệp, các cơ sở kinh tế, các cơ quan/tổ 
chức chính quyền và đoàn thể xã hội liên 
quan đến phát triển kinh tế) của địa 
phương. Do vậy, việc nghiên cứu, đo 
lường mức độ “xơ cứng” này là một 
trong những chỉ báo quan trọng để đánh 
giá về tính đàn hồi/khả năng mau hồi 
phục giữa các địa phương. 
Bên cạnh đó, cơ chế tương tác giữa 
“sự thích nghi/adaptation” và “khả năng 
thích nghi/adaptability” còn bị quy định 
bởi các đặc trưng cơ bản của từng địa 
phương trong phát triển kinh tế. Tính đặc 
thù của địa phương ở đây được thể hiện 
dưới các dạng đặc thù về hạ tầng cơ sở 
(hệ thống giao thông, liên lạc); đặc thù 
về thể chế (bao gồm thể chế chính thức-
được thể hiện dưới dạng các văn bản 
pháp qui và các chính sách của nhà nước; 
49 Khái niệm lock-in được sử dụng nhằm đề cập 
đến sự cứng nhắc hoặc không muốn thay đổi trong 
các hoạt động thường ngày, cơ cấu tổ chức bộ máy, 
khả năng tiếp thu những thay đổi/tiến bộ công nghệ 
sản xuất, chính sách phát triển kinh tế của các 
doanh nghiệp/ cơ sở kinh tế và cơ quan đoàn thể và 
chính quyền. 
và thể chế phi chính thức-ví dụ như 
chuẩn mực xã hội; phong tục tập quán 
của địa phương); và đặc thù về mức độ 
phát triển giáo dục đào tạo và khoa học 
công nghệ (ví dụ như hệ thống các cơ sở 
giáo dục đào tạo, qui mô và phạm vi hoạt 
động của các cơ sở nghiên cứu và phát 
triển công nghệ sản xuất). 
Cuối cùng, yếu tố vị trí/địa điểm, 
theo đó đã diễn ra hoặc xuất hiện sự 
tương tác giữa các tác nhân xã hội dưới 
tác động của “sự thích nghi/adaptation” 
và “khả năng thích nghi/adaptability” và 
kết quả đi kèm là sự ra đời của các ngành 
sản xuất, hoặc các định hướng phát triển 
kinh tế mới của địa phương dưới tác 
động của các nhân tố bên ngoài (ví dụ 
như việc tổ chức SEA Games lần thứ 22 
tại Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi 
cho sự ra đời và phát triển ngành xây 
dựng cũng như các ngành sản xuất có 
liên quan đến thể thao tại nhiều địa 
phương nơi diễn ra các hoạt động thi đấu 
chính thức của đại hội). 
4. Cơ sở lý luận về tác động của 
địa phương/vùng tới phát triển nguồn 
nhân lực 
Về cơ bản, có thể hình dung là địa 
phương tác động tới phát triển nguồn 
nhân lực thông qua những đặc trưng bên 
ngoài của mình (regional externalities) 
tác động tới hoạt động sản xuất hàng 
ngày (routinized behavior) và quá trình 
hình thành kiến thức/kỹ năng 
(knowledge creation) liên quan đến sản 
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 34/Quý I - 2013 
 133 
xuất của doanh nghiệp cũng như người 
lao động. Cụ thể: 
Thứ nhất, vùng tác động tới doanh 
nghiệp và người lao động thông qua cái 
gọi là đặc trưng mang tính địa phương về 
trình độ phát triển công nghệ và kiến 
thức (regional-specific knowledge base). 
Như chúng ta đã biết, các doanh 
nghiệp/cơ sở kinh tế (sau đây gọi chung 
là doanh nghiệp) đóng vai trò quan trọng 
trong phát triển kinh tế của địa phương 
thông qua việc sản xuất ra các loại hàng 
hóa và dịch vụ. Hiệu quả hoạt động và 
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 
phụ thuộc vào nguồn nội lực của doanh 
nghiệp (vốn, lao động, công nghệ và tư 
liệu sản xuất) và mối quan hệ/mức độ 
tương tác giữa các doanh nghiệp trong 
cùng địa phương với nhau, thể hiện qua 
việc hình thành nhiều doanh nghiệp trên 
một phạm vi địa lý (doanh nghiệp trong 
các khu công nghiệp) sẽ giúp cho doanh 
nghiệp được hưởng lợi nhiều hơn từ cái 
gọi là “lợi thế kinh tế tích tụ-
agglomeration” thông qua việc giảm giá 
thành các dịch vụ đầu vào (giá nguyên 
liệu sản xuất, chi phí vận chuyển, sự sẵn 
có lao động và mức độ dễ dàng hơn trong 
việc chia sẻ các kiến thức/kỹ năng và 
thậm chí là bí quyết công nghệ). 
Ảnh hưởng của địa phương tới cầu 
lao động ở đây được thể hiện qua việc 
địa phương nào có năng lực cạnh tranh 
cao hơn thì sẽ dễ dàng hơn trong việc thu 
hút hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho sự 
hình thành và phát triển của khu vực 
doanh nghiệp với năng suất lao động và 
hiệu quả hoạt động tốt hơn. Năng lực 
cạnh tranh của địa phương phụ thuộc vào 
các yếu tố đặc trưng của địa phương như: 
khả năng tiếp cận; tính dễ tiếp thu/chấp 
nhận (receptivity); và tính đặc trưng/đặc 
thù. Địa phương có mức độ tiếp cận 
(connectivity) thuận lợi hơn sẽ giúp cho 
doanh nghiệp được dễ dàng hơn trong 
việc tiếp cận các nguồn thông tin về kiến 
thức/công nghệ sản xuất hoặc phương 
thức tổ chức hoạt động kinh doanh tiên 
tiến; trong khi tính dễ tiếp thu 
(receptivity) là nhân tố quan trọng trong 
việc truyền tải, chuyển giao các kiến thức 
liên quan đến công nghệ và cách thức tổ 
chức sản xuất cho doanh nghiệp trở nên 
có hiệu quả; và tiếp đến là nhân tố đặc 
trưng/đặc thù (variety) sẽ đóng vai trò 
như là cầu nối hoặc là chất xúc tác gắn 
kết các doanh nghiệp đóng trên phạm vi 
địa phương trở nên mật thiết và dễ dàng 
với nhau hơn (ví dụ sự tham gia của 
doanh nghiệp và người lao động trên địa 
bàn trong các hoạt động mang tính sự 
kiện do địa phương đứng ra tổ chức sản 
xuất). 
Thứ hai, địa phương tác động tới 
doanh nghiệp và người lao động thông 
qua môi trường thể chế đặc thù của mình. 
Mỗi địa phương khác nhau thì cũng 
có sự khác nhau về môi trường thể chế, 
như đã định nghĩa trong phần trên, thể 
chế ở đây bao gồm thể chế chính thức và 
thể chế phi chính thức, các thể chế hoạt 
động trên cơ sở tương tác, bổ sung và 
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 34/Quý I - 2013 
 134 
giám sát lẫn nhau, và hiệu quả/hiệu lực 
của một thể chế này cũng đồng thời vừa 
có tính tích cực lẫn tiêu cực tới hiệu 
quả/hiệu lưc hoạt động của thể chế khác. 
Yếu tố thể chế quy định bản chất của 
các hình thức tương tác; tần suất và mức 
độ của các mối lien hệ; phạm vi và quy 
mô các hoạt động kinh tế; cách thức và 
cơ chế trao đổi kiến thức giữa các 
doanh nghiệp cũng như giữa người lao 
động với nhau, qua đó tác động mạnh mẽ 
tới sự hình thành và phát triển của quá 
trình cải tiến trong hoạt động sản xuất 
kinh doanh của doanh nghiệp, và quá 
trình tự học hỏi, nâng cao trình độ và 
chất lượng của nguồn nhân lực. 
Thứ ba, việc sử dụng khái niệm 
“routine” (tạm dịch là hoạt động thường 
ngày theo thói quen) của doanh nghiệp 
góp phần quan trọng trong việc lý giải sự 
thành công hay thất bại của doanh 
nghiệp. Thông thường, những doanh 
nghiệp nào có hoạt động này phù hợp và 
thích ứng tốt hơn trong môi trường cạnh 
tranh thì sẽ có điều kiện phát triển tốt 
hơn (mở rộng qui mô sản xuất, gia tăng 
thị phần) những doanh nghiệp khác, 
thông qua việc tiếp thu những kiến 
thức/công nghệ mới trong sản xuất, giảm 
thiểu các chi phí đầu vào (bao gồm cả chi 
phí tài chính cũng như chi phí thời gian). 
Các “routine” của doanh nghiệp luôn 
thay đổi hoặc tái tạo lại (nhằm ứng phó 
với những thay đổi của thị trường) thông 
qua quá trình tương tác giữa các bộ phận 
cấu thành trong nội tại bản thân doanh 
nghiệp hoặc giữa các doanh nghiệp với 
nhau. Các “routine” này chịu ảnh hưởng 
bởi các yếu tố như: đặc trưng của doanh 
nghiệp (theo ngành, khu vực sản xuất, 
thời gian thành lập..); mức độ cạnh tranh 
trên thị trường; yếu tố thể chế (theo 
nghĩa rộng); và đặc trưng của người chủ 
doanh nghiệp. Ví dụ như trong việc xác 
định thời điểm và vị trí để tạo lập doanh 
nghiệp mới, thông thường bên cạnh yêu 
cầu về giảm thiểu các chi phí (gần nguồn 
nguyên liệu, gần khách hang, sự dễ dàng 
trong việc tiếp cận các dịch vụ đầu vào) 
thì những nguyên nhân không kém phần 
quan trọng giúp cho người chủ doanh 
nghiệp đi đến quyết định cuối cùng đó 
chính là sự gần gũi về mặt không gian 
với nơi sinh sống của bản thân họ. 
Thứ tư, lý thuyết địa kinh tế theo 
quan điểm phát triển cũng giúp cho việc 
phân tích sự hình thành và các nguyên 
nhân dẫn đến sự hình thành các khu công 
nghiệp (hoặc sự gian tăng về mặt số 
lượng các doanh nghiệp trên một đơn vị 
diện tích) một cách đầy đủ và rõ ràng 
hơn thông qua cách tiếp cận khung phân 
tích “chu kỳ sống”50 của doanh nghiệp 
(lifecycle framework approach) từ khi 
bắt đầu được hình thành, phát triển cho 
đến khi kết thúc sự tồn tại của doanh 
nghiệp. Việc sử dụng khung phân tích 
này giúp cho chúng ta hiểu được rằng sự 
gia tăng về mặt số lượng doanh nghiệp 
trên một đơn vị diện tích có thể thực hiện 
được ngay cả ở những khu vực không có 
50 Mô hình phân tích của Klepper 
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 34/Quý I - 2013 
 135 
điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế 
(nơi mà các doanh nghiệp không được 
hưởng lợi từ cái gọi là lợi thế kinh tế tích 
tụ) với kết quả và hiệu quả hoạt động tốt. 
Điều này đặc biệt hữu ích trong việc 
đánh giá và xác định tiềm năng của địa 
phương trong việc chuyển đổi cơ cấu 
kinh tế và cơ cấu lao động tại những 
vùng mà tỷ trọng nông nghiệp trong tổng 
GDP còn tương đối lớn phải đối phó với 
những thách thức về chuyển dịch cơ cấu 
kinh tế. 
5 Một số hàm ý chính sách 
Cách tiếp cận nghiên cứu này cung 
cấp những luận cứ khoa học trong việc 
phân tích, đánh giá yếu tố liên quan đến 
công nghệ ở cấp độ địa phương và doanh 
nghiệp cũng như quá trình phát triển về 
chất của lực lượng lao động. 
Trong quá trình xây dựng chiến lược 
phát triển kinh tế và phát triển nguồn 
nhân lực, việc sao chép một cách máy 
móc mô hình tối ưu của địa phương này 
áp dụng cho địa phương khác sẽ không 
mang lại hiệu quả tích cực do sự khác 
biệt giữa các địa phương. Hay nói cách 
khác, đó là sự “mismatch” giữa các nhân 
tố của mô hình với các đặc điểm cụ thể, 
riêng biệt của địa phương. 
Trong quá trình xây dựng các chiến 
lược, chương trình nhằm ứng phó với 
những tác động từ bên ngoài (những biến 
cố xảy ra nhanh với cường độ và sức tác 
động lớn), bên cạnh việc xem xét khả 
năng phục hồi lại của hệ thống, cũng cần 
phải xem xét tới khả năng phát triển hoặc 
chuyển đổi của hệ thống đó để thích ứng 
tốt hơn. 
 Việc hoạch định các chiến lược, 
đề án phát triển kinh tế-xã hội dựa trên 
cơ sở các kịch bản giả định sẵn có trong 
tương lai là rất cần thiết, tuy nhiên cũng 
cần lưu ý tới những tác động xảy ra dẫn 
tới sự thay đổi hoàn toàn khác giữa các 
kịch bản được giả định với thực tế trong 
đời sống, đặc biệt trong bối cảnh toàn 
cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế (khi 
mà các yếu tố kinh tế-xã hội giữa địa 
phương với địa phương; địa phương với 
quốc gia; quốc gia với quốc gia đang 
ngày càng có mức độ phụ thuộc lẫn nhau 
lớn hơn bao giờ hết) ngày một sâu rộng./. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Ron Boschma, 2004, 
Competitiveness of region from an 
evolutionary perspective. 
2. Leslie Budd and Amer Hirmis, 2004, 
Conceptual framework for regional 
competitiveness 
3. Michael Kitson, Ron Martin and Peter 
Tyler, 2004, Regional Competitiveness-An 
Yet Elusive key concept. 
4. Mari Jose Ananguren at al, 2010, 
Benchmarking regional competitiveness in 
the European Cluster Observatory 
5. Michael Dunford, Regional 
development models 
6. Andy Pike, Stuart Dawley and John 
Jomaney, 2010, Resilience, Adaptation 
and Adaptivity 
7. Richard Harris, 2011, Models of 
regional growth: Past, Present and Future 
8. Ron Boschma and Ron Martin, The 
Aims and the Scope of Evolution 
Economic Geography 

File đính kèm:

  • pdfly_thuyet_dia_kinh_te_theo_quan_diem_phat_trien_trong_nghien.pdf