Lý thuyết địa kinh tế theo quan điểm phát triển trong nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực địa phương
Sử dụng cách tiếp cận nghiên cứu liên ngành trong nghiên cứu phát
triển nguồn nhân lực nói riêng và trong lĩnh vực kinh tế-xã hội nói chung đang trở
thành xu hướng đóng vai trò chủ đạo. Điều đó giúp cho không chỉ các nhà khoa học mà
còn cả các nhà hoạch định chính sách cũng như các đối tác xã hội khác có liên quan
hiểu và nhận thức một cách rõ ràng, đầy đủ và tổng quát hơn về những xu hướng, diễn
biến và các nhân tố tác động tới vấn đề mà họ quan tâm. Trong phạm vi bài viết này,
tác giả mong muốn đóng góp một cách tiếp cận nghiên cứu mới trong lĩnh vực phát
triển nguồn nhân lực (dưới góc độ cấp địa phương, doanh nghiệp và người lao động) ở
Việt Nam, thông qua việc sử dụng một số khái niệm, cơ sở/quan điểm lý thuyết của hệ
thống lý thuyết địa kinh tế theo quan điểm phát triển. Trong đó tập trung vào hai vấn
đề: (i) khả năng hồi phục/thích nghi của địa phương trước những tác động mang yếu tố
bên ngoài; và (ii) đặc trưng của địa phương/vùng tác động như thế nào tới phát triển
nguồn nhân lực.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Lý thuyết địa kinh tế theo quan điểm phát triển trong nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực địa phương
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 34/Quý I - 2013 129 LÝ THUYẾT ĐỊA KINH TẾ THEO QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN TRONG NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC ĐỊA PHƯƠNG ThS. Nguyễn Trung Hưng Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Dân số, Lao động, Việc làm Tóm tắt: Sử dụng cách tiếp cận nghiên cứu liên ngành trong nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực nói riêng và trong lĩnh vực kinh tế-xã hội nói chung đang trở thành xu hướng đóng vai trò chủ đạo. Điều đó giúp cho không chỉ các nhà khoa học mà còn cả các nhà hoạch định chính sách cũng như các đối tác xã hội khác có liên quan hiểu và nhận thức một cách rõ ràng, đầy đủ và tổng quát hơn về những xu hướng, diễn biến và các nhân tố tác động tới vấn đề mà họ quan tâm. Trong phạm vi bài viết này, tác giả mong muốn đóng góp một cách tiếp cận nghiên cứu mới trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực (dưới góc độ cấp địa phương, doanh nghiệp và người lao động) ở Việt Nam, thông qua việc sử dụng một số khái niệm, cơ sở/quan điểm lý thuyết của hệ thống lý thuyết địa kinh tế theo quan điểm phát triển. Trong đó tập trung vào hai vấn đề: (i) khả năng hồi phục/thích nghi của địa phương trước những tác động mang yếu tố bên ngoài; và (ii) đặc trưng của địa phương/vùng tác động như thế nào tới phát triển nguồn nhân lực. Từ khóa: phát triển nguồn nhân lực, địa kinh tế. Summary: Using interdisciplinary approaches in research and human resource development in particular in the field of socio-economic development in general has become the dominant trend. It helps to not only scientists but also policy makers as well as other relevant social partners to understand and realize a clear, complete and more general trends, development process and the factors affecting the issues that concern them. Within the scope of this article, the author would like to contribute a new research approach in the field of human resource development (from perspective of local-level agency, of enterprises and of workers) in Vietnam, through the use some of the concepts, basic / theoretical point of view of Geographio - economics theory and form the development perspective. Paper focused on two issues: (i) the ability to recover / local adaptation to the impacts of external factors;, and (ii) how the local characteristics of the locality / region impact to human resource development. Key words: human resource development,resilience, routine, evolutionary economic geography. Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 34/Quý I - 2013 130 1. Đặt vấn đề Phát triển nguồn nhân lực nói chung và qui hoạch phát triển nguồn nhân lực địa phương ở Việt Nam nói riêng trong bối cảnh hội nhập quốc tế và công nghiệp hoá, hiện đại hóa đã và sẽ tiếp tục trở thành chủ đề quan trọng thu hút sự quan tâm của nhiều tổ chức, các học giả cũng như các nhà lập kế hoạch trong thời gian tới. Cùng với đó, những lý thuyết, mô hình và phương pháp tiếp cận được ứng dụng trong nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực cũng không ngừng được bổ sung, hoàn thiện và ngày càng trở nên đa dạng hóa. Bằng việc giới thiệu lý thuyết địa kinh tế theo quan điểm phát triển trong nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực địa phương (cấp tỉnh/thành phố), tác giả hy vọng phần nào góp phần nhỏ bé vào việc làm phong phú thêm hệ thống cơ sở lý luận về nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực. Mục tiêu chính của bài viết tập trung vào hai vấn đề gồm: (i) các địa phương ứng phó như thế nào với những tác động (hoặc “cú sốc”) từ bên ngoài và từ đó những nhân tố nào của địa phương tác động tới phát triển nguồn nhân lực, qua đó tác động tới phát triển kinh tế-xã hội. Để trả lời hai câu hỏi này, tác giả sẽ tập trung vào việc phân tích tính đàn hồi (resilience) của vùng trong ứng phó với những thay đổi do tác động bên ngoài (ví dụ như khủng hoảng) và ảnh hưởng của vùng tác động tới phát triển nguồn nhân lực. 2. Đặc trưng cơ bản của lý thuyết địa kinh tế theo quan điểm phát triển là gì? Khác với cách tiếp cận cân bằng hệ thống (giả định là các hệ thống/cơ chế của nền kinh tế luôn hoạt động để nhắm tới mục tiêu đạt được sự cân bằng trong tổng thể hệ thống, sử dụng nhiều biến số đo lường đầu vào đầu ra mang tính định lượng và mục đích nhắm đến cuối cùng là các kết quả có thể đo lường được), lý thuyết địa kinh tế theo quan điểm phát triển (chủ yếu dựa trên cơ sở ba khung lý thuyết có tên Generalised Darwinism Theory; Complexity Theory; và Path Dependence Theory) tập trung vào việc phân tích và làm rõ các quá trình, cơ chế và những yếu tố tác động tới sự phát triển, biến đổi của nền kinh tế về mặt không gian. Cụ thể hơn, chuyên ngành này tập trung vào việc trả lời các câu hỏi cho các vấn đề như: sự phân bố về mặt không gian của các nhân tố kinh tế mới (thay đổi cộng nghệ, sự ra đời của các doanh nghiệp, các ngành kinh tế cũng như các hệ thống/cơ chế mới) ảnh hưởng thế nào t ... h thành như thế nào dưới tác động của các hoạt động của các tác nhân kinh tế (economic agents) ở cấp độ vi mô (cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp và các tổ chức khác); và tại sao những quá trình như vậy giữa các vùng địa lý khác nhau thì cũng khác nhau Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 34/Quý I - 2013 131 Hai luận điểm chính của bài viết được đề cập ở đây bao gồm: (i) Địa phương nào có tính đàn hồi hoặc khả năng mau hồi phục tốt hơn thì sẽ dễ dàng ứng phó với những thay đổi diễn ra dưới tác động của những tác nhân/cú sốc bên ngoài tốt hơn; (ii) Những vùng có các đặc trưng cơ bản khác nhau thì mức độ phát triển kinh tế và nguồn nhân lực cũng khác nhau. 3. Cơ sở lý luận về tính đàn hồi/khả năng mau hồi phục của địa phương. Khái niệm về Tính đàn hồi/khả năng mau hồi phục được sử dụng nhằm đề cập tới những khả năng khác nhau của địa phương nhằm ứng phó với những tác động từ bên ngoài qua đó khắc phục, hạn chế và giảm thiểu hậu quả của những thay đổi/tác động tiêu cực và duy trì hoặc phát huy hiệu quả tích cực do tác động/thay đổi đó tạo nên. Cách tiếp phân tích về Tính đàn hồi/khả năng mau hồi phục của địa phương nhấn mạnh vai trò và tầm quan trọng của mối liên hệ “không gian-xã hội” của các tác nhân xã hội như vốn, lao động, chính quyền địa phương, cộng đồng dân cư trong việc hình thành (hoặc được tạo ra) các hướng (hoặc ngành kinh tế mới) phát triển mới của nền kinh tế. Để phân tích về mức độ “đàn hồi” của địa phương thì cần phải làm rõ mức độ “thích nghi-adaptation47” và “khả năng thích nghi-adaptability48” cũng như mối quan hệ tương tác giữa hai yếu tố này của địa phương đó. Thông thường, mức độ thích nghi/adaptation của địa phương được thể hiện dưới dạng những kết quả về mặt số lượng (ví dụ như số người được tạo việc làm, qui mô lực lượng lao động, số người được hỗ trợ bảo hiểm thất nghiệp hoặc an sinh xã hội) phản ánh những hoạt động mang tính ngắn hạn và tức thời, trong khi đó khả năng thích nghi/adaptability thường được thể hiện dưới dạng các kết quả đo lường những thay đổi về mặt chất lượng (ví dụ như mức độ tăng/giảm về thu nhập và mức sống của người lao động; tỷ lệ lao động nữ và lao động yếu thế tham gia thị trường lao động) và mang tính chiến lược dài hạn hơn trong các chương trình/kế hoạch hoạt động của địa phương để đối phó với những thay đổi do tác động/cú sốc bên ngoài. Mức độ mạnh yếu và cơ chế tương tác giữa “sự thích nghi/adaptation” và 47 Sự thích nghi/adaptation là khả năng hoạt động/vận động nhằm duy trì những định hướng phát triển đã được vạch ra trước đó thông qua mức độ liên kết mạnh mẽ và chặt chẽ giữa các tác nhân xã hội của địa phương (Andy Pike, Stuart Dawley và John Jomaney, 2010) 48 Khả năng thích nghi/adaptability là khả năng/năng lực nhằm tìm kiếm và phát huy hoặc tạo ra những cơ hội phát triển mới trong quá trình bị tác động của địa phương thông qua việc loại bỏ hoặc làm suy yếu những mối liên kết giữa các tác nhân xã hội không còn phù hợp giữa các nhân tố xã hội sẵn có của địa phương (Andy Pike, Stuart Dawley và John Jomaney, 2010) Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 34/Quý I - 2013 132 “khả năng thích nghi/adaptability” được biểu hiện thông qua sự tương tác giữa các tác nhân xã hội (social agents) của địa phương. Các tác nhân xã hội này ở mỗi địa phương khác nhau thì cũng khác nhau, từ đó giúp ta giải thích được tính đàn hồi/khả năng mau hồi phục của địa phương dưới các tác động nhanh và mạnh từ bên ngoài. Mặt khác, các tác nhân xã hội này chính là những nhân tố quyết định mức độ “xơ cứng” (lock-in)49 trong hoạt động của các cơ sở (doanh nghiệp, các cơ sở kinh tế, các cơ quan/tổ chức chính quyền và đoàn thể xã hội liên quan đến phát triển kinh tế) của địa phương. Do vậy, việc nghiên cứu, đo lường mức độ “xơ cứng” này là một trong những chỉ báo quan trọng để đánh giá về tính đàn hồi/khả năng mau hồi phục giữa các địa phương. Bên cạnh đó, cơ chế tương tác giữa “sự thích nghi/adaptation” và “khả năng thích nghi/adaptability” còn bị quy định bởi các đặc trưng cơ bản của từng địa phương trong phát triển kinh tế. Tính đặc thù của địa phương ở đây được thể hiện dưới các dạng đặc thù về hạ tầng cơ sở (hệ thống giao thông, liên lạc); đặc thù về thể chế (bao gồm thể chế chính thức- được thể hiện dưới dạng các văn bản pháp qui và các chính sách của nhà nước; 49 Khái niệm lock-in được sử dụng nhằm đề cập đến sự cứng nhắc hoặc không muốn thay đổi trong các hoạt động thường ngày, cơ cấu tổ chức bộ máy, khả năng tiếp thu những thay đổi/tiến bộ công nghệ sản xuất, chính sách phát triển kinh tế của các doanh nghiệp/ cơ sở kinh tế và cơ quan đoàn thể và chính quyền. và thể chế phi chính thức-ví dụ như chuẩn mực xã hội; phong tục tập quán của địa phương); và đặc thù về mức độ phát triển giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ (ví dụ như hệ thống các cơ sở giáo dục đào tạo, qui mô và phạm vi hoạt động của các cơ sở nghiên cứu và phát triển công nghệ sản xuất). Cuối cùng, yếu tố vị trí/địa điểm, theo đó đã diễn ra hoặc xuất hiện sự tương tác giữa các tác nhân xã hội dưới tác động của “sự thích nghi/adaptation” và “khả năng thích nghi/adaptability” và kết quả đi kèm là sự ra đời của các ngành sản xuất, hoặc các định hướng phát triển kinh tế mới của địa phương dưới tác động của các nhân tố bên ngoài (ví dụ như việc tổ chức SEA Games lần thứ 22 tại Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển ngành xây dựng cũng như các ngành sản xuất có liên quan đến thể thao tại nhiều địa phương nơi diễn ra các hoạt động thi đấu chính thức của đại hội). 4. Cơ sở lý luận về tác động của địa phương/vùng tới phát triển nguồn nhân lực Về cơ bản, có thể hình dung là địa phương tác động tới phát triển nguồn nhân lực thông qua những đặc trưng bên ngoài của mình (regional externalities) tác động tới hoạt động sản xuất hàng ngày (routinized behavior) và quá trình hình thành kiến thức/kỹ năng (knowledge creation) liên quan đến sản Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 34/Quý I - 2013 133 xuất của doanh nghiệp cũng như người lao động. Cụ thể: Thứ nhất, vùng tác động tới doanh nghiệp và người lao động thông qua cái gọi là đặc trưng mang tính địa phương về trình độ phát triển công nghệ và kiến thức (regional-specific knowledge base). Như chúng ta đã biết, các doanh nghiệp/cơ sở kinh tế (sau đây gọi chung là doanh nghiệp) đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của địa phương thông qua việc sản xuất ra các loại hàng hóa và dịch vụ. Hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp phụ thuộc vào nguồn nội lực của doanh nghiệp (vốn, lao động, công nghệ và tư liệu sản xuất) và mối quan hệ/mức độ tương tác giữa các doanh nghiệp trong cùng địa phương với nhau, thể hiện qua việc hình thành nhiều doanh nghiệp trên một phạm vi địa lý (doanh nghiệp trong các khu công nghiệp) sẽ giúp cho doanh nghiệp được hưởng lợi nhiều hơn từ cái gọi là “lợi thế kinh tế tích tụ- agglomeration” thông qua việc giảm giá thành các dịch vụ đầu vào (giá nguyên liệu sản xuất, chi phí vận chuyển, sự sẵn có lao động và mức độ dễ dàng hơn trong việc chia sẻ các kiến thức/kỹ năng và thậm chí là bí quyết công nghệ). Ảnh hưởng của địa phương tới cầu lao động ở đây được thể hiện qua việc địa phương nào có năng lực cạnh tranh cao hơn thì sẽ dễ dàng hơn trong việc thu hút hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành và phát triển của khu vực doanh nghiệp với năng suất lao động và hiệu quả hoạt động tốt hơn. Năng lực cạnh tranh của địa phương phụ thuộc vào các yếu tố đặc trưng của địa phương như: khả năng tiếp cận; tính dễ tiếp thu/chấp nhận (receptivity); và tính đặc trưng/đặc thù. Địa phương có mức độ tiếp cận (connectivity) thuận lợi hơn sẽ giúp cho doanh nghiệp được dễ dàng hơn trong việc tiếp cận các nguồn thông tin về kiến thức/công nghệ sản xuất hoặc phương thức tổ chức hoạt động kinh doanh tiên tiến; trong khi tính dễ tiếp thu (receptivity) là nhân tố quan trọng trong việc truyền tải, chuyển giao các kiến thức liên quan đến công nghệ và cách thức tổ chức sản xuất cho doanh nghiệp trở nên có hiệu quả; và tiếp đến là nhân tố đặc trưng/đặc thù (variety) sẽ đóng vai trò như là cầu nối hoặc là chất xúc tác gắn kết các doanh nghiệp đóng trên phạm vi địa phương trở nên mật thiết và dễ dàng với nhau hơn (ví dụ sự tham gia của doanh nghiệp và người lao động trên địa bàn trong các hoạt động mang tính sự kiện do địa phương đứng ra tổ chức sản xuất). Thứ hai, địa phương tác động tới doanh nghiệp và người lao động thông qua môi trường thể chế đặc thù của mình. Mỗi địa phương khác nhau thì cũng có sự khác nhau về môi trường thể chế, như đã định nghĩa trong phần trên, thể chế ở đây bao gồm thể chế chính thức và thể chế phi chính thức, các thể chế hoạt động trên cơ sở tương tác, bổ sung và Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 34/Quý I - 2013 134 giám sát lẫn nhau, và hiệu quả/hiệu lực của một thể chế này cũng đồng thời vừa có tính tích cực lẫn tiêu cực tới hiệu quả/hiệu lưc hoạt động của thể chế khác. Yếu tố thể chế quy định bản chất của các hình thức tương tác; tần suất và mức độ của các mối lien hệ; phạm vi và quy mô các hoạt động kinh tế; cách thức và cơ chế trao đổi kiến thức giữa các doanh nghiệp cũng như giữa người lao động với nhau, qua đó tác động mạnh mẽ tới sự hình thành và phát triển của quá trình cải tiến trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, và quá trình tự học hỏi, nâng cao trình độ và chất lượng của nguồn nhân lực. Thứ ba, việc sử dụng khái niệm “routine” (tạm dịch là hoạt động thường ngày theo thói quen) của doanh nghiệp góp phần quan trọng trong việc lý giải sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Thông thường, những doanh nghiệp nào có hoạt động này phù hợp và thích ứng tốt hơn trong môi trường cạnh tranh thì sẽ có điều kiện phát triển tốt hơn (mở rộng qui mô sản xuất, gia tăng thị phần) những doanh nghiệp khác, thông qua việc tiếp thu những kiến thức/công nghệ mới trong sản xuất, giảm thiểu các chi phí đầu vào (bao gồm cả chi phí tài chính cũng như chi phí thời gian). Các “routine” của doanh nghiệp luôn thay đổi hoặc tái tạo lại (nhằm ứng phó với những thay đổi của thị trường) thông qua quá trình tương tác giữa các bộ phận cấu thành trong nội tại bản thân doanh nghiệp hoặc giữa các doanh nghiệp với nhau. Các “routine” này chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố như: đặc trưng của doanh nghiệp (theo ngành, khu vực sản xuất, thời gian thành lập..); mức độ cạnh tranh trên thị trường; yếu tố thể chế (theo nghĩa rộng); và đặc trưng của người chủ doanh nghiệp. Ví dụ như trong việc xác định thời điểm và vị trí để tạo lập doanh nghiệp mới, thông thường bên cạnh yêu cầu về giảm thiểu các chi phí (gần nguồn nguyên liệu, gần khách hang, sự dễ dàng trong việc tiếp cận các dịch vụ đầu vào) thì những nguyên nhân không kém phần quan trọng giúp cho người chủ doanh nghiệp đi đến quyết định cuối cùng đó chính là sự gần gũi về mặt không gian với nơi sinh sống của bản thân họ. Thứ tư, lý thuyết địa kinh tế theo quan điểm phát triển cũng giúp cho việc phân tích sự hình thành và các nguyên nhân dẫn đến sự hình thành các khu công nghiệp (hoặc sự gian tăng về mặt số lượng các doanh nghiệp trên một đơn vị diện tích) một cách đầy đủ và rõ ràng hơn thông qua cách tiếp cận khung phân tích “chu kỳ sống”50 của doanh nghiệp (lifecycle framework approach) từ khi bắt đầu được hình thành, phát triển cho đến khi kết thúc sự tồn tại của doanh nghiệp. Việc sử dụng khung phân tích này giúp cho chúng ta hiểu được rằng sự gia tăng về mặt số lượng doanh nghiệp trên một đơn vị diện tích có thể thực hiện được ngay cả ở những khu vực không có 50 Mô hình phân tích của Klepper Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 34/Quý I - 2013 135 điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế (nơi mà các doanh nghiệp không được hưởng lợi từ cái gọi là lợi thế kinh tế tích tụ) với kết quả và hiệu quả hoạt động tốt. Điều này đặc biệt hữu ích trong việc đánh giá và xác định tiềm năng của địa phương trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động tại những vùng mà tỷ trọng nông nghiệp trong tổng GDP còn tương đối lớn phải đối phó với những thách thức về chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 5 Một số hàm ý chính sách Cách tiếp cận nghiên cứu này cung cấp những luận cứ khoa học trong việc phân tích, đánh giá yếu tố liên quan đến công nghệ ở cấp độ địa phương và doanh nghiệp cũng như quá trình phát triển về chất của lực lượng lao động. Trong quá trình xây dựng chiến lược phát triển kinh tế và phát triển nguồn nhân lực, việc sao chép một cách máy móc mô hình tối ưu của địa phương này áp dụng cho địa phương khác sẽ không mang lại hiệu quả tích cực do sự khác biệt giữa các địa phương. Hay nói cách khác, đó là sự “mismatch” giữa các nhân tố của mô hình với các đặc điểm cụ thể, riêng biệt của địa phương. Trong quá trình xây dựng các chiến lược, chương trình nhằm ứng phó với những tác động từ bên ngoài (những biến cố xảy ra nhanh với cường độ và sức tác động lớn), bên cạnh việc xem xét khả năng phục hồi lại của hệ thống, cũng cần phải xem xét tới khả năng phát triển hoặc chuyển đổi của hệ thống đó để thích ứng tốt hơn. Việc hoạch định các chiến lược, đề án phát triển kinh tế-xã hội dựa trên cơ sở các kịch bản giả định sẵn có trong tương lai là rất cần thiết, tuy nhiên cũng cần lưu ý tới những tác động xảy ra dẫn tới sự thay đổi hoàn toàn khác giữa các kịch bản được giả định với thực tế trong đời sống, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế (khi mà các yếu tố kinh tế-xã hội giữa địa phương với địa phương; địa phương với quốc gia; quốc gia với quốc gia đang ngày càng có mức độ phụ thuộc lẫn nhau lớn hơn bao giờ hết) ngày một sâu rộng./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ron Boschma, 2004, Competitiveness of region from an evolutionary perspective. 2. Leslie Budd and Amer Hirmis, 2004, Conceptual framework for regional competitiveness 3. Michael Kitson, Ron Martin and Peter Tyler, 2004, Regional Competitiveness-An Yet Elusive key concept. 4. Mari Jose Ananguren at al, 2010, Benchmarking regional competitiveness in the European Cluster Observatory 5. Michael Dunford, Regional development models 6. Andy Pike, Stuart Dawley and John Jomaney, 2010, Resilience, Adaptation and Adaptivity 7. Richard Harris, 2011, Models of regional growth: Past, Present and Future 8. Ron Boschma and Ron Martin, The Aims and the Scope of Evolution Economic Geography
File đính kèm:
- ly_thuyet_dia_kinh_te_theo_quan_diem_phat_trien_trong_nghien.pdf