Luận văn Hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách sạn Khách sạn Sài Gòn

Khách sạn đi vào hoạt động từ năm 1992 thì không thể nói là sớm so với một số khách sạn khác nhưng lại đúng vào thời kỳ mà hoạt động Du lịch Việt Nam khởi sắc, từ 1992 - 1995 hệ thống khách sạn Việt Nam thiếu rất nhiều mà lượng khách Quốc tế đến Việt Nam lại tăng với tốc độ khá nhanh, bình quân 51,3% năm. Vì thế dẫn tới lượng khách sạn bị thiếu một cách trầm trọng, không đáp ứng được nhu cầu của khách. Trong những năm đó mặc dù khách sạn Sài Gòn mới đi vào hoạt động nhưng do có điều kiện kinh doanh thuận lợi nên công suất sử dụng phòng, buồng của khách sạn rất cao và kết quả kinh doanh tốt. Kết quả kinh doanh của khách sạn Sài Gòn là hiệu quả kinh doanh trong quá trình sử dụng các yếu tố bên trong như: Cơ sở vật chất, vốn, lao động. của khách sạn.

Luận văn Hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách sạn Khách sạn Sài Gòn trang 1

Trang 1

Luận văn Hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách sạn Khách sạn Sài Gòn trang 2

Trang 2

Luận văn Hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách sạn Khách sạn Sài Gòn trang 3

Trang 3

Luận văn Hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách sạn Khách sạn Sài Gòn trang 4

Trang 4

Luận văn Hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách sạn Khách sạn Sài Gòn trang 5

Trang 5

Luận văn Hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách sạn Khách sạn Sài Gòn trang 6

Trang 6

Luận văn Hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách sạn Khách sạn Sài Gòn trang 7

Trang 7

Luận văn Hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách sạn Khách sạn Sài Gòn trang 8

Trang 8

Luận văn Hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách sạn Khách sạn Sài Gòn trang 9

Trang 9

Luận văn Hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách sạn Khách sạn Sài Gòn trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 16 trang Trúc Khang 12/01/2024 1360
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách sạn Khách sạn Sài Gòn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận văn Hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách sạn Khách sạn Sài Gòn

Luận văn Hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách sạn Khách sạn Sài Gòn
 1 
Luận văn 
Hiệu quả hoạt động kinh doanh 
của khách sạn Khách sạn Sài 
Gòn 
 2 
Lời mở đầu 
Nghị quyết 45/CP của Chính Phủ về đổi mới quản lý và phát triển 
ngành du lịch đã khẳng định “Du lịch là một ngành kinh tế quan trọng 
trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước với quan điểm như 
vậy một trong những nhiệm vụ cụ thể mà nghị quyết 45/CP đã đề ra để thúc 
đẩy sự nghiệp Du lịch của đất nước “Phát triển nhanh hệ thống cơ sở vật 
chất kỹ thuật hạ tầng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển Du lịch”. Mà 
điển hình là hệ thống khách sạn với các yếu tố: các cơ sở dịch vụ lưu trú, 
vui chơi giải trí - Đây là một trong những thành phần quan trọng đặc thù 
trong hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành Du lịch. Hoạt động khách 
sạn là phần không thể tách rời khỏi hoạt động Du lịch”. 
Trong những năm qua nhờ đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước 
về kinh tế và mở rộng ngoại giao với nhiều nước cộng với điều kiện chính 
trị ổn định đã tạo điều kiện cho du lịch phát triển. Với tốc độ nhanh, tính 
đến năm 1997 đã lên tới 1,7 triệu khách Quốc tế thêm vào đó số lượng 
khách trong nước đi du lịch ở Việt Nam cũng đã tăng đáng kể. Khách sạn - 
cơ sở vật chất của ngành du lịch cũng đã được các ban ngành, đoàn thể, 
công ty trách nhiệm hữu hạn, đối tác liên doanh với nước ngoài - đã đổ xô 
vào việc nâng cấp, cải tạo xây dựng mới các khách sạn với hy vọng thu 
được lợi nhuận cao ở các ngành kinh doanh dịch vụ này. Vì vậy đã làm cho 
số lượng khách sạn tăng lên một cách đột biến, làm mất cân bằng giữa cung 
và cầu, công suất sử dụng phòng thấp, các khách sạn đua nhau hạ giá để 
cạnh tranh khách. Vì vậy đã đặt các nhà quản lý vào những trăn trở làm thế 
nào để khẳng định được vị trí của khách sạn mình trên thương trường. 
Khách sạn Sài Gòn cũng nằm trong số đó. Do vậy các nhà quản lý 
phải làm thế nào, và đã làm được gì để hoạt động kinh doanh của khách sạn 
mình có hiệu quả ngày càng phát triển và nâng cao hơn nữa. Qua đó báo 
cáo tổng hợp về khách sạn trong thời gian những năm gần đây phần nào 
đánh giá được hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách sạn. 
 3 
chương I 
những vấn đề chung về khách sạn Sài Gòn 
I-/ Quá trình hình thành, phát triển của khách sạn 
1.1 Khách sạn Sài Gòn được thành lập theo nghị định 28/HĐBT ngày 
22 tháng 3 năm 1989 của HĐBT giữa hai doanh nghiệp quốc doanh trong 
nước là công ty dịch vụ Du lịch đường sắt Hà Nội và công ty Du lịch thành 
phố Hồ Chí Minh. Trong đó vốn đóng góp của công ty dịch vụ Du lịch 
đường sắt Hà Nội là 51% và công ty Du lịch thành phố Hồ Chí Minh là 
49%. 
Được Tổng giám đốc Liên hiệp đường sắt Việt Nam đồng ý và Bộ 
giao thông vận tải ra quyết định 358/-358QĐ/TTCB-LĐ ngày 28 tháng 2 
năm 1991 về việc thành lập công ty liên doanh khách sạn Hồng Hà và 
quyết định 584QĐ/TCCB - LĐ ngày 6 tháng 4 năm 1992 đổi tên khách sạn 
Đường Sắt - 80 Lý Thường Kiệt cũ thành khách sạn Sài Gòn. 
Sau 14 tháng cải tạo và xây dựng đến ngày 27 tháng 10 năm 1992 
khách sạn chính thức mở cửa và đón khách liên tục cho đến nay. 
Khách sạn được xếp hạng 3 SAO gồm 5 tầng trong đó tầng 1 được 
dùng để tổ chức các hoạt động chung như phòng lễ tân, bếp nhà hàng và 
một số hoạt động khác nhằm giúp cho hoạt động của khách sạn được thuận 
lợi hơn, còn tầng 2, 3, 4, 5 được dùng để kinh doanh dịch vụ lưu trú với 44 
phòng và được chia ra làm 4 thứ hạng phòng khác nhau nhằm tạo điều kiện 
thuận lợi cho khách có thể lựa chọn phù hợp với sự mong muốn và khả 
năng thanh toán của họ. 
Khách sạn có một nhà hàng mở liên tục từ 6 giờ sáng đến 22 giờ đêm 
và có khả năng phục vụ được 80 khách. Ngoài ra còn có 2 phòng đa năng 
khác có thể nhận đặt tiệc, sinh nhật, có 4 phòng Massage và một văn phòng 
cho thuê dùng cho tổ chức hội nghị, hội thảo. 
2-/ Bộ máy tổ chức, quản lý của khách sạn. 
 4 
Khách sạn Sài Gòn có hội đồng quản trị gồm 5 người. Trong đó 
Công ty dịch vụ du lịch Đường Sắt Hà Nội có 3 người còn phía bên Công 
ty du lịch thành phố Hồ Chí Minh có 2 người. Hội đồng quản trị được Bộ 
Giao thông vận tải ra quyết định công nhận. Chủ tịch Hội đồng quản trị 
phía công ty dịch vụ Du lịch Đường sắt giữ chức. 
Ban giám đốc của khách sạn gồm 2 người được Bộ giao thông vận 
tải bổ nhiệm. Giám đốc do công ty Du lịch thành phố Hồ Chí Minh cử. 
Ngoài ra còn có 9 bộ phận trực thuộc trong khách sạn với 75 cán bộ 
công nhân viên được phân bổ như sau: 
1. Tiếp tân : 10 người 
2. Quản lý buồng và công trình : 19 người 
3. Phòng kế toán thống kê : 6 người 
4. Nhà hàng Sài Gòn : 12 người 
5. Nhà bếp : 10 người 
6. Đội kỹ thuật : 7 người 
7. Ban bảo vệ : 4 người 
8. Hành chính nhân sự, hàng hoá : 4 người 
9. Kinh doanh tiếp thị : 3 người 
Số cán bộ công nhân viên này đều được đào tạo, sử dụng, quản lý 
tốt. Có 22 người tốt nghiệp đại học, 2 người có 2 bằng đại học, 10 người đã 
tốt nghiệp trung cấp chuyên ngành du lịch - khách sạn - ăn uống, 13 người 
đang du học nước ngoài bằng thứ 2 và thứ 3. 
Qua quá trình công tác, làm việc v ... ng loại 4), 
khách sạn có thang máy... khách sạn chưa có bãi đậu xe, chưa có đội xe ô 
tô. Khách sạn có một nhà hàng phục vụ được 80 khách, có 2 phòng họp 
chứa được 100 người, có quầy bar trên tầng 5, các dịch vụ của khách sạn 
tương đối đa dạng. 
Tóm lại về cơ sở vật chất của khách sạn tương đối và đồng bộ nhưng 
vì xây dựng sớm nên đã bị xuống cấp phần nào. 
5-/ Thuận lợi, khó khăn trong hoạt động kinh doanh của khách sạn. 
- Thuận lợi: Về vị trí rất thuận lợi bên cạnh đó khách sạn còn có đội 
ngũ lao động có trình độ, được đào tạo, sử dụng, quản lý tốt, tác phong văn 
minh, lịch sử. 
- Khó khăn: Cơ sở vật chất bị xuống cấp nên khả năng cạnh tranh bị 
hạn chế. Đội ngũ lao động kế cận rất thiếu bởi số lao động hiện nay mặc dù 
có tay nghề, trình độ, kinh nghiệm nhưng độ tuổi khá cao so với quy định 
của ngành Du lịch. 
 8 
chương II 
Thực trạng hoạt động kinh doanh của khách sạn 
1-/ Kết quả hoạt động kinh doanh của khách sạn trong những năm 
gần đây. 
Khách sạn đi vào hoạt động từ năm 1992 thì không thể nói là sớm so 
với một số khách sạn khác nhưng lại đúng vào thời kỳ mà hoạt động Du 
lịch Việt Nam khởi sắc, từ 1992 - 1995 hệ thống khách sạn Việt Nam thiếu 
rất nhiều mà lượng khách Quốc tế đến Việt Nam lại tăng với tốc độ khá 
nhanh, bình quân 51,3% năm. Vì thế dẫn tới lượng khách sạn bị thiếu một 
cách trầm trọng, không đáp ứng được nhu cầu của khách. Trong những 
năm đó mặc dù khách sạn Sài Gòn mới đi vào hoạt động nhưng do có điều 
kiện kinh doanh thuận lợi nên công suất sử dụng phòng, buồng của khách 
sạn rất cao và kết quả kinh doanh tốt. Kết quả kinh doanh của khách sạn 
Sài Gòn là hiệu quả kinh doanh trong quá trình sử dụng các yếu tố bên 
trong như: Cơ sở vật chất, vốn, lao động... của khách sạn. 
Dưới đây kết quả kinh doanh của khách sạn thông qua công suất sử 
dụng phòng phần nào đánh giá được hiệu quả trong những năm qua: 
- Năm 1993 công suất sử dụng phòng là 91% doanh thu là 1.697.407 
USD, lãi là 419.811 USD. 
- Năm 1994 công suất sử dụng phòng là 94% doanh thu là 2.023.577 
USD, lãi là 598.579 USD. 
- Năm 1995 công suất sử dụng phòng 85% doanh thu là 2.086.811 
USD, lãi: 655.633 USD. 
Từ cuối những năm 1995 đến nay do số lượng khách sạn ở địa bạn Hà 
Nội đã tăng lên với tốc độ khá nhanh, số lượng buồng phòng tăng trong khi 
đó thì số lượng khách sạn quốc tế tăng chậm và có xu hướng giảm. Vì thế, 
cung về phòng, buồng lớn hơn cầu về phòng, buồng rất nhiều nên có ảnh 
hưởng nhiều đến tình hình hoạt động kinh doanh của khách sạn thông qua 
các chỉ tiêu doanh thu, chi phí, lãi, công suất sử dụng buồng, nguồn khách. 
 9 
- Năm 1996 công suất sử dụng phòng là 65% giảm 13% so với kế 
hoạch và tổng doanh thu chỉ đạt 15.316.562.000 VNĐ. 
- Năm 1997 thì chỉ còn là 55,8% và doanh thu là 897.649 USD đây 
là con số thấp nhất trong các năm kinh doanh của khách sạn. 
Để có thể đánh giá được phần nào hiệu quả hoạt động của các bộ 
phận trong những năm qua của khách sạn, chúng ta hãy xem xét doanh thu, 
của từng bộ phận kinh doanh trong khách sạn dựa vào những số liệu sau: 
- Doanh thu: Tổng mức và cơ cáu. 
 Năm 1997 Năm 1998 
Tổng doanh thu 92,9% KH 97,6% KH 
Kinh doanh phòng ngủ 6.932.800.000 VNĐ 3.672.120.000 VNĐ 
Kinh doanh ăn uống 2.251.950.000 VNĐ 2.080.997.000 VNĐ 
Kinh doanh các dịch vụ 
khác: Massage, giặt là, 
photocopy... 
689.380.000 VNĐ 554.370.000 VNĐ 
Qua các chỉ tiêu kinh doanh của khách sạn ta thấy đều giảm về: kinh 
doanh phòng ngủ, kinh doanh ăn uống, kinh doanh các dịch vụ khác. 
Nhưng về Tổng doanh thu thì năm 1998 so với kế hoạch cao hơn so với 
năm 1997. 
- Về số lao động: số cán bộ công nhân viên trong khách sạn là 75 
người. Trong đó tỷ lệ nữ chiếm 53% rất phù hợp với điều kiện kinh doanh 
khách sạn nhưng độ tuổi khá cao so với tuổi trung bình trong ngành du lịch. 
Nhìn chung số cán bộ công nhân viên này đa số đều có trình độ, được đào 
tạo, sử dụng và quản lý tốt. 
- Tiền lương bình quân của nhân viên trong khách sạn. Năm 1997 
với số nhân viên là 83 thì mức lương bình quân là: . 
Sang năm 1998 số nhân viên trong khách sạn chỉ còn 75 người với mức 
lương bình quân là: 
 10 
- Vốn kinh doanh: do 2 công ty đóng góp trong đó công ty dịch vụ 
Du lịch Đường sắt Hà Nội là 51% và công ty du lịch thành phố Hồ Chí 
Minh là 49%. 
- Hàng năm khách sạn vẫn phải đóng góp cho Nhà nước thông qua 
việc nộp Ngân sách Nhà nước, đây là quy định bắt buộc đối với các đơn vị, 
doanh nghiệp, năm 1997 khách sạn nộp cho ngân sách Nhà nước là 
 trong khi đó sang năm 1998 khách sạn nộp cho ngân 
sách Nhà nước giảm hơn hẳn so với năm 1997 chỉ còn là: 
Nhưng việc nộp ngân sách đứng trên mặt bằng doanh thu của khách 
sạn từng năm cho nên có thể thấy là doanh thu về các lĩnh vực kinh doanh 
của khách sạn đều giảm thấp hơn so với năm 1997. 
- Năm 1997 khách sạn kinh doanh đã thu về được lãi ròng là: 
1.583.170.000 đồng nhưng sang đến năm 1998 thì lãi ròng của doanh 
nghiệp chỉ còn lại 756.560.000 giảm trên 50% tức là bị giảm mất 
826.610.000 đồng do kết quả kinh doanh của các lĩnh vực: kinh doanh 
phòng ngủ, kinh doanh ăn uống, kinh doanh các dịch vụ khác đều giảm. 
2-/ Tính hiệu quả - không hiệu quả của các sản phẩm các thị trường 
khách sạn kinh doanh. 
Về dây chuyền hoạt động thì giữa các bộ phận được sắp xếp và phối 
hợp khá hài hoà, hợp lý. 
Việc đi lại của khách bị hạn chế bởi khách sạn chưa có đội ngũ ô tô 
riêng, chưa có bãi đậu xe. 
Một số mặt hàng phục vụ, một số dịch vụ phục vụ khách của khách 
sạn phải do các ngành kinh tế khác thực hiện cho nên các dịch vụ không có 
hiệu quả. 
Nhìn chung thị trường khách trong nước khách sạn kinh doanh 
không đạt hiệu quả, chủ yếu là khách quốc tế. 
 11 
Chương III 
Đánh giá, các ý kiến đề xuất 
Qua kết quả kinh doanh được nêu ở phần: Thực trạng hoạt động kinh 
doanh của khách sạn Sài Gòn, chúng ta có thể đánh giá và phân tích được 
kết quả kinh doanh của khách sạn trong những năm qua trên một số mặt sau: 
1-/ Điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, nguy cơ của khách sạn. 
a, Điểm mạnh: 
Do khách sạn nằm ở khu vực trung tâm thành phố Hà Nội, nơi thu 
hút được nhiều khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch quốc tế. Mà đây lại 
là điểm mạnh của khách sạn, bởi khách sạn chủ yếu đón khách quốc tế. Đối 
với khách sạn thì năm 1996 khách sạn có điều kiện đón khách Trung Quốc 
rất lớn bởi Chính phủ Việt Nam mở tuyến đường sắt Hà Nội - Bắc Kinh và 
đã cho phép khách Du lịch đi sâu vào lãnh thổ Việt Nam mà địa thế của 
khách sạn lại nằm gần Ga Hà Nội và khách sạn còn trực thuộc công ty dịch 
vụ Du lịch Đường sắt Hà Nội. 
Về nguồn nhân lực trong khách sạn nhìn chung đều được đào tạo, sử 
dụng, quản lý tốt, đặc biệt do đặc thù của kinh doanh khách sạn Sài Gòn 
phục vụ chủ yếu là khách quốc tế do đó đa số đội ngũ cán bộ công nhân 
viên đều có trình độ ngoại ngữ Anh hoặc Pháp giao tiếp tốt, đặc biệt là bộ 
phận lễ tân, bộ phận bàn. 
b, Điểm yếu: 
Mặc dù khách sạn nằm ở khu vực trung tâm nhưng do xây dựng sớm 
nên cơ sở vật chất đã bị xuống cấp phần nào so với nhiều khách sạn xây 
dựng sau. Bên cạnh đó nguồn lao động trong khách sạn có độ tuổi cao hơn 
so với độ tuổi trung bình trong ngành du lịch. Các dịch vụ của khách sạn 
hiện nay chưa đa dạng, hấp dẫn nên chưa đáp ứng được sự mong đợi của 
khách. Một số các dịch vụ và một số mặt hàng phục vụ khách du lịch (chủ 
yếu là khách nước ngoài) đều do các ngành kinh tế khác thực hiện, bởi vậy 
chất lượng dịch vụ trong khách sạn còn phụ thuộc vào sự phát triển chung 
của nền kinh tế quốc dân của các ngành nghề khác như: thông tin, chế biến 
 12 
nông sản, y tế, an ninh, giao thông vận tải... Hiện tại do mặt bằng của 
khách sạn còn hẹp cho nên khách sạn chưa có bãi đậu xe riêng, chưa có đội 
ngũ xe ô tô mà phải đi thuê bên ngoài nên việc đi lại đưa đón khách bị hạn 
chế nhất là thời điểm đông khách. 
c, Cơ hội: 
Thứ nhất là do vị trí của khách sạn nằm gần Ga Hà Nội, lại trực 
thuộc công ty Du lịch Đường sắt Hà Nội nên khách sạn có cơ hội rất thuận 
lợi đặc biệt là từ năm 1996 đến nay để đón khách Trung Quốc vào Việt 
Nam du lịch. Ngoài ra còn đón các khách công vụ trong và ngoài nước, 
khách Du lịch đến tham quan, ký kết hợp đồng, nghiên cứu và tìm hiểu thị 
trường. 
Thứ hai: là khách sạn có đội ngũ cán bộ công nhân viên có nghiệp 
vụ chuyên môn và văn hoá của người lao động trong các khách sạn ở Hà 
Nội hiện nay. 
d, Nguy cơ: 
Về cơ sở vật chất của khách sạn tương đối đồng bộ nhưng vì xây 
dựng sớm nên đã bị xuống cấp phần nào so với khách sạn khác đưa vào sử 
dụng sau cho nên khả năng cạnh tranh về khách của khách sạn cũng vì thế 
mà kém hơn mặc dù quá trình kinh doanh của khách sạn lâu hơn, có kinh 
nghiệm hơn. 
Nguồn nhân lực của khách sạn có độ tuổi khá cao mặc dù có trình 
độ, được đào tạo quản lý tốt nhưng vẫn phản ánh thực trạng khó khăn là 
thiếu đội ngũ kế cận để đáp ứng yêu cầu đổi mới của công việc. 
Các dịch vụ của khách sạn, một số dịch vụ và một số mặt hàng do 
các ngành kinh tế khác thực hiện nên chi phí lớn ảnh hưởng tới chất lượng 
phục vụ và doanh thu của khách sạn. 
2-/ Các đánh giá, nhận xét chung về kết quả kinh doanh, các ý kiến 
phân tích. 
Từ thực trạng kinh doanh của khách sạn qua 2 năm 97, 98 ta thấy: 
 13 
Về doanh thu của bộ phận buồng giảm rõ rệt, công suất phòng cũng 
giảm. Doanh thu về kinh doanh phòng ngủ năm 1997 là: 6.932.800.000 
đồng với công suất sử dụng phòng là 55,8%. Sang đến năm 1998 thì doanh 
thu về kinh doanh phòng ngủ là: 3.672.120.000 đồng với công suất sử dụng 
phòng là 52,7%. 
Nhìn chung về doanh thu năm 1998 giảm một nửa so với năm 1997 
hay chính xác là 3.260.680.000 đồng, trong khi công suất phòng thì chỉ 
giảm thấp hơn so với năm 1997 là 3,1% điều này một phần phản ánh được 
doanh thu của khách sạn năm 1998 giảm là do số lượng khách đến khách 
sạn thấp hơn năm 1997 và khách sạn đã phải hạ giá phòng xuống để cạnh 
tranh khách. 
Về doanh thu kinh doanh ăn uống do đã có nhiều cố gắng thu hút 
khách đặt tiệc, hội nghị, hội thảo, tiệc cưới nên doanh thu của năm 1998 đạt 
2.008.997.000 đồng thấp hơn năm 1997 không đáng kể 170.953.000 đồng. 
Các dịch vụ khác của khách sạn cũng khá cao, tương đối đa dạng đạt 
chất lượng cao như: cho thuê phòng họp dịch vụ giặt là, massage, 
photocopy, điện thoại, telex, cho thuê văn phòng đại diện... nhưng qua thực 
tế chỉ có dịch vụ cho thuê văn phòng đại diện, giặt là, điện thoại là doanh 
thu tăng còn các dịch vụ khác như massage, photocopy, phòng họp giảm. 
Về hàng hoá thì khách sạn có bán những đồ dùng phục vụ cho nhu cầu 
thêm của khách như đồ mỹ nghệ, đồ lưu niệm... Xét trên chỉ tiêu doanh thu 
năm 1998 giảm thấp hơn so với năm 1997 là 135.010.000 đồng. 
Qua đó ta có thể đánh giá hiệu quả kinh doanh qua doanh thu năm 
1998 là thấp hơn so với năm 1997 qua tổng doanh thu là: 3.566.643.000 
đồng, kéo theo lãi ròng của công ty cũng giảm 826.610.000 đồng. Nhìn 
chung kết quả kinh doanh năm 1998 kém hiệu quả hơn so với năm 1997. 
3-/ Các đánh giá về tính hợp lý, chưa hợp lý trong tổ chức bộ máy, 
trong hoạt động ở các khâu, các bộ phận chủ yếu. 
Bộ máy tổ chức nhìn chung hợp lý: Giám đốc chịu trách nhiệm lãnh 
đạo và quản lý toàn bộ các mặt hoạt động trong khách sạn. Trực tiếp phụ 
trách khối A. Phó giám đốc: chịu sự quản lý trực tiếp của Giám đốc. Trực 
tiếp phụ trách khối B. Được thể hiện qua sơ đồ tổ chức bộ máy khách sạn 
 14 
được nêu ở chương I.2. Trong hoạt động ở các khâu, các bộ phận chủ yếu 
nói chung là hợp lý, hài hoà, nhưng do cơ sở vật chất bị xuống cấp phần 
nào mặc dù tương đối và đồng bộ đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng 
phục vụ ở các khâu, các bộ phận. 
4-/ Các ý kiến đề xuất chung và cho từng khâu công việc nhằm nâng 
cao hiệu quả kinh doanh của khách sạn. 
Để nâng cao hiệu quả kinh doanh của khách sạn thì khách sạn phải 
tập trung vào đổi mới trang thiết bị, nâng cấp lại cơ sở hạ tầng tốt hơn để có 
thể thu hút khách lớn hơn, ngoài ra khách sạn cần phải có bãi đậu xe, có đội 
xe riêng để phục vụ khách. 
Còn về đội ngũ lao động thì trình độ chuyên môn nghiệp vụ, khả 
năng phục vụ của nhân viên tương đối tốt nhưng có một vài yếu tố ảnh 
hưởng tới chất lượng phục vụ: 
Độ tuổi trung bình tương đối cao; ở bộ phận lễ tân cần phải đổi mới 
và trẻ hoá do yêu cầu đối với nhân viên lễ tân cần: trẻ, nhanh nhẹn, giao 
tiếp tốt. 
ở bộ phận bàn nhìn chung trình độ học vấn thấp hơn so với yêu cầu 
thực tế, tuy nhiên về nghiệp vụ, khả năng giao tiếp, trình độ ngoại ngữ khá 
tốt nên hạn chế được yếu tố xấu tới chất lượng phục vụ. Nhưng độ tuổi 
trung bình vẫn cao, cần đổi mới, trẻ hoá. 
Do vậy bên cạnh việc quản lý, sử dụng nhân viên khách sạn cần phải 
tổ chức cho nhân viên trẻ đi học nhằm nâng cao trình độ phục vụ tốt cho 
khách sạn trong thời gian tới, và dần trẻ hoá đội ngũ CBCNV đáp ứng yêu 
cầu mới. 
Bộ phận chuyên kiểm tra chất lượng phục vụ cần có biện pháp kiểm 
tra hợp lý như: kiểm tra đột xuất ở một số bộ phận chính. 
Tăng cường mở rộng một số loại hình dịch vụ bổ sung: các hoạt 
động vui chơi, giải trí, thư giãn, thể thao. Trong quá trình hoạt động người 
quản lý cần nắm vững xu hướng phát triển để đưa ra những biện pháp, mục 
tiêu trong kinh doanh cho phù hợp nhằm đem lại hiệu quả kinh doanh. 
Cần mở rộng công tác marketing, tuyên truyền quảng cáo về sản 
phẩm của khách sạn ra thị trường trong và ngoài nước. 
 15 
Ngoài những đề xuất trên: còn phải đề cập đến thủ tục của Việt Nam. 
Chính phủ Việt Nam cần phải thay đổi cơ cấu thủ tục nhằm tạo điều kiện 
cho khách nước ngoài đến Việt Nam thuận lợi, nhanh gọn. 
 16 
Kết luận 
Qua việc đánh giá hiệu quả kinh doanh của khách sạn một vài năm 
qua có thể thấy rằng: về kế hoạch thì năm 1998 cao hơn so với năm 1997 
về doanh thu. Nhưng khi đi sâu vào từng bộ phận để đánh giá hiệu quả 
nhận thấy rõ đều giảm khá lớn về doanh thu của năm 1998 so với năm 
1997, nhìn chung về mặt bằng các khách sạn trên địa bàn Hà Nội nói riêng 
và của cả nước nói chung đều nằm trong tình trạng đó. 
Quá trình hoạt động của mình khách sạn Sài Gòn cũng đã khẳng định 
mình trong việc phục vụ. Khách sạn đã có một cơ sở vật chất khá đồng bộ 
tuy đã xuống cấp phần nào. Về đội ngũ những người lao động trong khách 
sạn thì có tác phong phục vụ văn minh, lịch sự, đúng quy trình... và họ còn 
là những người có trình độ chuyên môn, ngoại ngữ tương đối cao. Các dịch 
vụ bổ sung đã đáp ứng được phần nào nhu cầu của khách. 
Vì vậy qua báo cáo đã nêu lên được phần nào thực trạng hiệu quả 
kinh doanh của khách sạn Sài Gòn trong những năm gần đây. Mặc dù về 
tình hình kinh tế, xã hội cuả khu vực Đông Nam á có ảnh hưởng không nhỏ 
đến tình hình kinh doanh khách sạn trong nước. 
Báo cáo phần nào nêu lên được những hạn chế đang tồn tại và những 
mặt tích cực của khách sạn để từ đó đưa ra những ý kiến, đề xuất, những 
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng phục vụ trong khách sạn, nâng cao 
hiệu quả trong các khâu, các bộ phận nhằm giúp cho khách sạn khẳng định 
được vị thế của mình trên thương trường. 

File đính kèm:

  • pdfluan_van_hieu_qua_hoat_dong_kinh_doanh_cua_khach_san_khach_s.pdf