Lao động trong bối cảnh kinh tế nền tảng số ở Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị

Mục đích của bài viết là cung cấp một cái nhìn tổng quan về thị trường lao động Việt Nam

trong bối cảnh phát triển kinh tế nền tảng số. Bài viết bắt đầu bằng một số định nghĩa cơ bản

cùng đặc trưng của kinh tế nền tảng số và lao động kỹ thuật số. Tiếp theo, bài viết trình bày thực

trạng kinh tế nền tảng số tại Việt Nam và quá trình chuyển đổi từ lao động truyền thống sang

lao động số với hai xu hướng nổi bật gồm sự giải phóng lao động ở các lĩnh vực truyền thống và

sự xuất hiện của nhiều việc làm mới. Tuy nhiên, thị trường lao động số cùng yêu cầu về ứng dụng

công nghệ mới tạo ra không ít thách thức cho các bên tham gia thị trường và các nhà hoạch định

chính sách. Bài viết đưa ra một số giải pháp tập trung vào mảng gọi xe công nghệ (Grab), việc

làm online trên các trang mạng xã hội, cùng một số khuyến nghị liên quan đến khung pháp lý

thử nghiệm và cơ sở dữ liệu quố cgia.

Lao động trong bối cảnh kinh tế nền tảng số ở Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị trang 1

Trang 1

Lao động trong bối cảnh kinh tế nền tảng số ở Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị trang 2

Trang 2

Lao động trong bối cảnh kinh tế nền tảng số ở Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị trang 3

Trang 3

Lao động trong bối cảnh kinh tế nền tảng số ở Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị trang 4

Trang 4

Lao động trong bối cảnh kinh tế nền tảng số ở Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị trang 5

Trang 5

Lao động trong bối cảnh kinh tế nền tảng số ở Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị trang 6

Trang 6

Lao động trong bối cảnh kinh tế nền tảng số ở Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị trang 7

Trang 7

Lao động trong bối cảnh kinh tế nền tảng số ở Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị trang 8

Trang 8

Lao động trong bối cảnh kinh tế nền tảng số ở Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị trang 9

Trang 9

Lao động trong bối cảnh kinh tế nền tảng số ở Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang baonam 9560
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Lao động trong bối cảnh kinh tế nền tảng số ở Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Lao động trong bối cảnh kinh tế nền tảng số ở Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị

Lao động trong bối cảnh kinh tế nền tảng số ở Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị
LAO ĐỘNG TRONG BỐI CẢNH KINH TẾ NỀN TẢNG SỐ 
Ở VIỆT NAM: THỰC TRẠNG VÀ KHUYẾN NGHỊ
LABOUR IN THE CONTEXT OF DIGITAL PLATFORM ECONOMY
IN VIETNAM: CURRENT SITUATIONS AND RECOMMENDATIONS
TS. Phùng Thanh Quang; Đào Thị Nhật Lệ; NguyễnThị Quỳnh Trang
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
pt_quang@neu.edu.vn
Tóm tắt: 
Mục đích của bài viết là cung cấp một cái nhìn tổng quan về thị trường lao động Việt Nam
trong bối cảnh phát triển kinh tế nền tảng số. Bài viết bắt đầu bằng một số định nghĩa cơ bản
cùng đặc trưng của kinh tế nền tảng số và lao động kỹ thuật số. Tiếp theo, bài viết trình bày thực
trạng kinh tế nền tảng số tại Việt Nam và quá trình chuyển đổi từ lao động truyền thống sang
lao động số với hai xu hướng nổi bật gồm sự giải phóng lao động ở các lĩnh vực truyền thống và
sự xuất hiện của nhiều việc làm mới. Tuy nhiên, thị trường lao động số cùng yêu cầu về ứng dụng
công nghệ mới tạo ra không ít thách thức cho các bên tham gia thị trường và các nhà hoạch định
chính sách. Bài viết đưa ra một số giải pháp tập trung vào mảng gọi xe công nghệ (Grab), việc
làm online trên các trang mạng xã hội, cùng một số khuyến nghị liên quan đến khung pháp lý
thử nghiệm và cơ sở dữ liệu quố cgia.
Từ khóa: Kinh tế nền tảng số, lao động kỹ thuật số, nền tảng số, thị trường lao động.
Abstract:
The purpose of this article is to provide an overview of the Vietnamese labour market in
the development of digital platform economy. The article begins with some basic definitions and
features of the digital platform economy and digital labour. Accordingly, the article presents the
current state of the digital platform economy in Vietnam and the transition from traditional to
digital labour with two prominent trends includinglabour liberationin traditional fields andthe
appearance of new types of jobs. However, digital labour market with requirements for the ap-
plication of new technology has created many challenges for market participants and policy mak-
ers. The article offers a set of solutions mainly for app-based ride-hailing(Grab), online jobs on
social networking sites, along with some recommendations related to regulatory sandbox and
national database.
Keyword: Digital labour, digital platform economy, labour market, platform.
1. Giới thiệu nghiên cứu
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã làm thay đổi cơ bản cách con người sống, làm
việc và tương tác với nhau. Đặc trưng của các cuộc cách mạng công nghiệp là đều tiến tới một
nền sản xuất thông minh hơn, giải phóng một lượng lao động khỏi các ngành nghề truyền thống
và đồng thời cũng hình thành những công việc mới, đòi hỏi những kỹ năng mới (Kenney & Zys-
724
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
man, 2016). Với các nền tảng số, công ty đa quốc gia như Uber, Grab có thể cung ứng dịch vụ
vận tải mà không cần sở hữu một chiếc taxi nào; các cửa hàng có thể bán nhiều loại sản phẩm
mà không cần thuê mặt bằng; người lao động có thể làm việc theo thời gian, địa điểm tùy chỉnh
mà không cần đến văn phòng Kinh tế nền tảng số cung cấp các nền tảng (platform) cho phép
doanh nghiệp và người tiêu dùng tương tác với nhau trực tiếp trên các nền tảng đó, hình thành
nên những dịch vụ ngang hàng (peer to peer services) và không cần sự hiện diện của các tổ chức
trung gian (Xing Wan & cộng sự, 2019). Những lợi thế của kinh tế nền tảng số chủ yếu ở khả
năng tiếp cận người tiêu dùng dễ dàng, giảm các chi phí trung gian, giảm thời gian giao dịch,
định danh được cả người sản xuất và tiêu dùng góp phần giảm thiểu rủi ro khi giao dịch, mang
lại lợi ích cho cả khách hàng và doanh nghiệp (Daqing Gong & cộng sự, 2019).
Bài viết thảo luận về khái niệm, đặc điểm của kinh tế nền tảng, đặc điểm của lao động
trong bối cảnh chuyển đổi số; phân tích thực trạng thị trường lao động Việt Nam trong bối cảnh
chuyển đổi số. Với đối tượng nghiên cứu là lao động tại Việt Nam và mục tiêu nghiên cứu là làm
rõ thực trạng thị trường lao động Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số, bài viết phân loại lao
động thành hai nhóm bao gồm nhóm lao động truyền thống và nhóm lao động số gắn với quá
trình chuyển đổi từ lao động truyền thống sang lao động số với hai xu hướng nổi bật gồm sự giải
phóng lao động ở các lĩnh vực truyền thống và sự xuất hiện của nhiều việc làm mới trên các nền
tảng kỹ thuật số. Bài viết chỉ ra các nhân tố có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của lao động trong
bối cảnh chuyển đổi số, bao gồm tự thân nhu cầu về việc làm của các nhóm lao động, sự phát
triển công nghệ và các chính sách liên quan đến lao động số. Từ đó, nhóm tác giả đề xuất một số
kiến nghị nhằm phát triển lao động số trong bối cảnh kinh tế nền tảng số tại Việt Nam, chú trọng
vào các chính sách quản lý thu thuế, minh bạch hoá các giao dịch mạng và các biện pháp nhằm
bảo vệ người lao động trên các nền tảng số.
2. Tổng quan nghiên cứu về kinh tế nền tảng số và lao động trong bối cảnh chuyển đổi số
2.1. Tổng quan về kinh tế nền tảng số
Kinh tế nền ... ẻ tìm kiếm công việc yêu thích, tăng thêm thu nhập như: (1) Dịch
vụ đặt phòng, thuê nhà. Chủ nhà cho thuê phòng xuất phát từ nhu cầu chia sẻ căn phòng trống
trong gia đình để có thêm thu nhập. Sự phát triển mạnh mẽ về số lượng phòng cho thuê của
Airbnb đã khiến nhiều chuyên gia và chủ khách sạn, đặc biệt là khách sạn có uy mô nhỏ lo ngại.
729
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
(2) Nền tảng Youtube kết nối người sáng tạo nội dung và khán giả của mình là người xem các
video trên Youbute. Nội dung đăng tải đa dạng và thu hút nhiều lượt xem nên làm Youtuber được
nhiều bạn trẻ lựa chọn để có thêm thu nhập. Tại Việt Nam có rất nhiều kênh được người xem ưa
thích như về phim ngắn có Faptv, SMV; về ẩm thực có các kênh như Quỳnh Trần JP, Ẩm thực
mẹ làm, bà Tân Vlog; kênh về du lịch như Khoa Pug, Vũ Khắc Tiệp offical, Khoai Lang Thang
và rất nhiều kênh với nội dung phong phú khác. Ngày càng nhiều bạn trẻ lựa chọn trở thành
Youtuber - một nghề kiếm tiền như những nghề khác và có tiềm năng rất lớn trong tương lai với
yêu cầu cao về độ sáng tạo.(3) Nền tảng game kết nối người chơi game với hau thậm chí tổ chức
các buổi thi đấu như một loại hình thể thao, từ đó kiếm được thu nhập từ quảng cáo và giải đấu.
Điều này dẫn đến việc chơi game không chỉ là thú vui giải trí mà còn là một hình thức chơi game
nghiêm túc, chuyên nghiệp và coi đó như một nghề cần đầu tư chất xám không những về đồ họa
trong game mà còn phương thức chơi game (Caneron A. Pham T& Atherton J, 2018). Tính riêng
năm 2019, Việt Nam đứng thứ 28 trong tổng số 100 quốc gia về phát triển các nền tảng game với
tổng doanh thu khoảng 367 triệu USD (NguyễnVăn Hùng, 2020).
4. Giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển lao động trong bối cảnh kinh tế nền tảng số tại
Việt Nam
Có thể khẳng định, kinh tế nền tảng số đã tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới, thay đổi phương
thức sản xuất, tiếp thị, thay đổi cách tương tác giữa người sản xuất và tiêu dùng. Bên cạnh những
mặt tích cực, sự phát triển của các nền tảng số cũng đặt ra nhiều vấn đề đối với cơ quan quản lý
nhà nước như việc thất thu thuế đối với hoạt động bán hàng online, thất thu thuế đối với thu nhập
của các Youtuber; thiếu hụt lao động có trình độ công nghệ cao; thiếu sự kiểm soát với nhiều nền
tảng sáng tạo nội dung online; thiếu các chính sách về bảo vệ người lao động trên các nền tảng
số. Ở cấp độ doanh nghiệp, việc đầu tư hạ tầng công nghệ chưa thực sự đồng bộ, nhiều doanh
nghiệp tiên phong chuyển đổi số đã gặp nhiều khó khăn khi kết nối với hệ thống dữ liệu quốc
gia. Một bộ phận không nhỏ các doanh nghiệp vẫn có tâm lý duy trì hệ thống quản trị thủ công,
không muốn chuyển đổi số theo hướng công khai, minh bạch. Có thể khẳng định, chuyển đổi số
và phát triển kinh tế nền tảng số là xu thế tất yếu, để phát triển cả về số lượng và chất lượng lao
động trong bối cảnh chuyển đổi số, nhóm tác giả đề xuất một số kiến nghị với chính phủ và các
cơ quan chức năng nhằm minh bạch hóa hoạt động kinh doanh, giảm thiểu rủi ro cho người lao
động trên các nền tảng số. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, tích cực triển khai thu thuế đối với các hình thức bán hàng online trên hạ tầng
kỹ thuật số, cụ thể ngoài các trang thương mại điện tử, cần tập trung đến các trang mạng xã hội.
Cụ thể cần: (1) Phối hợp giữa ngành Thuế với Bộ Công thương, BộThông tin - Truyền thông,
đơn vị quản lý các trang mạng xã hội (Facebook, Google, Youtube) để nắm danh sách các web-
site, các tài khoản của các tổ chức, cá nhân có hoạt động thương mại điện tử trên mạng xã hội;
(2) Phối hợp giữa ngành Thuế với Cơ quan Công an đề nghị cung cấp cho Cơ quan Thuế các
website thương mại có hoạt động kinh doanh chưa kê khai nộp thuế; (3) Phối hợp giữa ngành
Thuế với Ngân hàng để đề nghị Ngân hàng Nhà nước cung cấp bảng sao kê tài khoản của các cá
nhân, tổ chức có kinh doanh qua Facebook, hay các tài khoản kiếm ra tiền trên Youtube; (4) Phối
hợp giữa ngành Thuế với các đơn vị cung ứng vận chuyển để nắm được số lượng hàng hóa vận
chuyển, doanh thu thu hộ (nếu có) của từng tổ chức, cá nhân để cơ quan thuế rà soát đối chiếu,
từ đó thu thuế; (5) Ngành thuế phối hợp với các nhà mạng và đại diện Facebook quản lý Việt
730
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
Nam để chặn tài khoản đối với những chủ tài khoản kinh doanh online có doanh số lớn nhưng
không chấp hành các nghĩa vụ thuế.
Thứ hai, đẩy nhanh việc xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý thử nghiệm (Regulatory Sand-
box) để tạo điều kiện cho các nền tảng lao động kỹ thuật số. Dưới góc độ pháp lý, Sandbox là
việc tạo ra một không gian thuận lợi với khung chính sách pháp lý riêng (nằm ngoài hoặc vượt
khung pháp lý hiện tại) để tiến hành thử nghiệm những khởi nghiệp sáng tạo, đổi mới. Đối tượng
điều chỉnh của Regulatory Sandbox thường là các sản phẩm tài chính sáng tạo, sản phẩm ứng
dụng công nghệ và mô hình kinh doanh mới, áp dụng cho các doanh nghiệp khởi nghiệp có ứng
dụng công nghệ (Fintech, Blockchain) hay doanh nghiệp kinh doanh theo mô hình kinh tế mới
(kinh tế chia sẻ, kinh tế nền tảng số). Khi thí điểm Sandbox, cần đảm bảo số lượng doanh nghiệp
tham gia vừa đủ để đánh giá tác động sâu rộng, nhưng cũng không nên quá nhiều và trùng lặp về
mô hình kinh doanh để tránh lãng phí nguồn lực. Đối tượng doanh nghiệp tham gia cũng cần có
sự chọn lọc kỹ. Đặc biệt, cũng nên có những chế tài khống chế về không gian, thời gian hay thị
phần nhất định trong khuôn khổ thí điểm Sandbox, tránh để vài doanh nghiệp trong cơ chế thí
điểm chiếm những thị phần lớn (do đang được hưởng các cơ chế pháp lý mở) mà tạo ra sự bất
bình đẳng trong kinh doanh. Ngoài ra, đối với mảng gọi xe công nghệ, cần sớm hoàn thiện, ban
hành Nghị định thay thế Nghị định số 86/2014/NĐ-CP ngày 10/9/2014 của Chính phủ về kinh
doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tô để có khung pháp lý minh bạch, cân bằng
giữa kinh doanh vận tải theo phương thức truyền thống và kinh doanh vận tải ứng dụng công
nghệ 4.0
Thứ ba, cần sớm nghiên cứu, ban hành các Nghị định về chia sẻ dữ liệu; về xác thực điện
tử; về bảo vệ dữ liệu cá nhân và bảo đảm quyền riêng tư của cá nhân tham gia nền tảng số; về
chế độ báo cáo giữa các cơ quan hành chính nhà nước và chế độ bảo mật thông tin. Để thực hiện
điều này, cần hoàn thành các cơ sở dữ liệu quốc gia mang tính chất nền tảng. Cùng với việc xây
dựng các thể chế, cần tập trung hoàn thiện xây dựng các cơ sở dữ liệu nền tảng quốc gia, đặc biệt
là cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đất đai...; và cần tiến hành xây dựng nền tảng tích hợp, chia
sẻ dữ liệu giữa các hệ thống thông tin ở Trung ương và địa phương; hệ thống liên thông gửi, nhận
văn bản điện tử; hệ thống xác thực định danh điện tử; liên thông giữa các hệ thống chứng thực
chữ ký số chuyên dùng của Chính phủ và chữ ký số công cộng... để bảo đảm dữ liệu, thông tin
được thông suốt giữa các cấp, các ngành của Chính phủ.
Thứ tư, không chỉ bảo vệ người lao động trên các giao dịch qua mạng, còn cần phải chú
trọng đến sự an toàn trong các giao dịch đòi hỏi tương tác giữa người với người. Để thực hiện
được điều đó, Chính phủ và các công ty bảo hiểm cần hoàn thiện các sản phẩm bảo hiểm cho
người lao động số. Cụ thể hơn, về vấn đề an toàn tính mạng của các tài xế công nghệ, các nền
tảng công nghệ cần thường xuyên nhắc nhở, cập nhật các khu vực có tình hình an ninh phức tạp
cũng như triển khai nhiều biện pháp nhằm nâng cao an toàn cho cả tài xế và khách hàng. Tiếp tục
phát triển các tính năng bảo mật thông tin như tính năng gọi điện thoại miễn phí thông qua ứng
dụng nhưng không hiển thị số điện thoại người gọi, giảm thiểu đến mức thấp nhất việc gọi điện/
nhắn tin làm phiền sau khi đã kết thúc chuyến xe, hay các giải pháp tập trung vào việc hướng
dẫn an toàn cho tài xế, sử dụng phím gọi khẩn cấp S.O.S giúp tài xế/ khách hàng kết nối trực tiếp
với đường dây nóng 113 của Cảnh sát trong trường hợp khẩn cấp. Hoàn thiện hoá các tính năng
giúp nhận diện những hành vi lái xe không an toàn, ví dụ chạy quá tốc độ, chuyển hướng đột
731
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
ngột, thắng gấp hoặc tăng tốc đột ngột, sau đó hướng dẫn cho tài xế cách cải thiện; tính năng
cảnh báo tài xế lái xe trong tình trạng mệt mỏi (Driver Fatigue): tài xế sẽ nhận được cảnh báo
trong ứng dụng rằng họ đã chạm đến “ngưỡng” mệt mỏi, và được nhắc nhở nên nghỉ ngơi để
đảm bảo lái xe an toàn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Anh
1. ABI Research (2019), Grab and GO-JEK reinventing on – demand mobility to go beyond
ridesharing for sustained profitability.
2. Alina (2016), ‘Trends and Dimensions of Digital Economy’, Annals - Economy Series,
Constantin Brancusi University, Faculty of Economics.
3. Berg &cộngsự (2018), ‘Digital labour platforms and the future of work Towards decent
work in the online world’, International Labour Office, Geneva.
4. Caneron A. Pham T & Atherton J (2018), ‘Vietnam Today – first report of the Vietnam’s
Future Digital Economy Project’, CSIRO, Brisbane.
5. Casilli (2016), ‘Is There a Global Digital Labor Culture?’, Marginalization of Work,
Global Inequalities, and Coloniality, 2nd symposium of the Project for Advanced Research in
Global Communication (PARGC), Annenberg School for Communication, University of Penn-
sylvania (USA).
6. Chan & cộng sự (2018), ‘The rise of the platform economy’, Deloitte, truy cập tại
https://www2.deloitte.com/content/dam/Deloitte/nl/Documents/humancapital/deloitte-nl-hc-re-
shaping-work-conference.pdf
7. Evans (2019), ‘Essential Principles for the Design of Antitrust Analysis for Multisided
Platforms’, Forthcoming Journal of Antitrust Enforcement, truy cập tại SSRN:
https://ssrn.com/abstract=3261812 hoặc 
8. Evans & Gawer (2016), ‘The Rise of the Platform Enterprise: A Global Survey’, The
Emerging Platform Economy Series No. 1, The Center for Global Enterprise.
9. Fuch & cộng sự (2013), ‘What is Digital Labour? What is Digital Work? What’s their
Difference? And why do these Questions Matter for Understanding Social Media?’ tripleC
10. Fumagalli & cộngsự (2018), ‘Digital Labour in the Platform Economy: The Case of
Facebook’, Sustainability, MDPI, Open Access Journal.
11. Graham & cộng sự (2017), ‘Digital labour and development: impacts of global digital
labour platforms and the gig economy on worker livelihoods’, E tui, truy cập tại
https://journals.sagepub.com/doi/pdf/10.1177/1024258916687250
12. Gong & cộng sự (2019), ‘Who benefits from online financing? A sharing economy E-
tailing platform perspective’.
13. Horton & cộng sự (2017), ‘Digital Labor Markets and Global Talent Flows’, Working
Paper 17-096, Harvard Business School, truy cập tại
732
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
https://www.hbs.edu/faculty/Publication%20Files/17-096_813abb74-09c5-4ea6-989f-
5ef03b2d7f31.pdf
14. Kenney &Zysman (2016), ‘The rise of the platform economy’, Deloitte
15. Marvit (2014), ‘How Crowdworkers Became the Ghosts in the Digital Machine’, The
Nation., truy cập tại https://www.thenation.com/article/archive/how-crowdworkers-became-
ghosts-digital-machine/
16. Research insight report (2019), ‘HomesharingVietNam Insights Report’
17. Statisa Research Department (2020), Digital advertising expenditure in Vietnam from
2015 to 2018 with forecasts until 2020.
18. Steen & cộng sự (2019), ‘The knowledge-intensive platform economy in the Nordic
countries’, Economics Norway and the Research Foundation Fafo, Nordic Innovation, truy cập
tại 
19. Solidiance (2018), Unlocking Vietnam’s Fintech Growth Potential.
20. Ted Choe (2016), ‘The rise of the sharing economy: Impact on the transportation space’.
Deloitte, truy cập tại https://www2.deloitte.com/content/dam/Deloitte/us/Documents/consumer-
business/us-cb-the-rise-the-sharing-economy.pdf
21. Teamasek & cộng sự (2019), ‘E-Conomy SEA 2019’, Swipe up and to the right: South-
east Asia’s $100 billion Internet economy
22. TopDev (2019), 2019 VietNam Developer Report, Nguyen HuuBinh.
23. UNCTAD (2019), ‘Digital economy report 2019’, United nations conference on trade
and development, Sirimance& a team comprising Torbjörn Fredriksson
24. Worldbank (2019), Individuals using the Internet (% of population), truy cập tại
https://data.worldbank.org/indicator/IT.NET.USER.ZS
25. Xing Wan & cộng sự (2019), ‘Exploring service positioning in platform – based mar-
ket’, International Journal of Production Economics
Tài liệu tiếng Việt
1. Anh Vũ (2017), ‘Kinh tê ́nêǹ tan̉g đang khăn̉g điṇh vi ̣thê’́, Thời báo Kinh tế Sài Gòn
online, truy cập tại https://www.thesaigontimes.vn/156135/Kinh-te%CC%81-ne%CC%80n-
ta%CC%89ng-dang-kha%CC%89ng-di%CC%A3nh-vi%CC%A3-the%CC%81.html
2. Báo cáo tài chính hợp nhất Công ty Cổ phần tập đoàn Mai Linh và các Công ty con
(2019) truy cập tại
file:///C:/Users/1/Downloads/00.%20BCTC%20HN%20tom%20tat%20daky.pdf
3. Báo Công thương (2020), ‘Kinh tế số là nhân tố then chốt thúc đẩy năng suất lao động’,
truy cập tại https://www.moit.gov.vn/web/guest/tin-chi-tiet/-/chi-tiet/kinh-te-so-la-nhan-to-then-
chot-thuc-%C4%91ay-nang-suat-lao-%C4%91ong-19010-3101.html
4. Chu Thị Hoa (2020), ‘Phản ứng chính sách của Việt Nam đối với mô hình kinh tế chia
sẻ’, Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp.
5. Chu Thị Hoa (2020), ‘Sandbox – cơ chế thử nghiệm áp dụng trong phạm vi hạn chế -
733
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
kinh nghiệm quốc tế và một số gợi ý cho Việt Nam’, truy cập tại
6. Data61|SCIRO (Cơ quan chuyên nghiên cứu về số liệu và công nghệ số thuộc Tổ chức
khoa học quốc gia Australia) & Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam (2019), ‘Báo cáo Tương
lai kinh tế số Việt Nam: hướng đến năm 2030, 2045 ’tại Hội nghị “Khoa học, Công nghệ và Đổi
mới sáng tạo – Một trụ cột cho Phát triển Kinh tế - Xã hội của Việt Nam”, Hà Nội.
7. IDG (2019), Diễn đàn ngân hàng bán lẻ Việt Nam năm 2019 (Vietnam Retail Banking
Forum), truy cập tại 
8. Nguyễn Văn Hùng (2020), ‘Quản lý nhà nước về phát triển kinh tế số ở Việt Nam trong
những năm tới’, Sở nội vụ tỉnh Bắc Giang.
9. Phạm Việt Dũng (2020), ‘Kinh tế số - cơ hội “bứt phá” choViệt Nam’, Hội đồng lý luận
Trung Ương, Tạp chí cộng sản, truy cập tại 
te/-/2018/810607/kinh-te-so—-co-hoi-%E2%80%9Cbut-pha%E2%80%9D-cho-viet-nam.aspx
10. Phan Diệu Thu Hà, Nuôi lớn mô hình kinh doanh bằng hệ sinh thái, truy cập tại
https://doanhnhanonline.com.vn/nuoi-lon-mo-hinh-kinh-doanh-bang-mo-hinh-he-sinh-thai/
11. Tổng cục thống kê (2019), Lao động và cơ cấu lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm
việc hàng năm phân theo ngành kinh tế (*) chia theo Ngành, Phân tổ và Năm, truy cập tại
h t t p s : / / w w w . g s o . g o v . v n / p x - w e b - 2 / ? p x i d = V 0 2 3 9 -
40&theme=D%C3%A2n%20s%E1%BB%91%20v%C3%A0%20lao%20%C4%91%E1%BB%9
9ng
734
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020

File đính kèm:

  • pdflao_dong_trong_boi_canh_kinh_te_nen_tang_so_o_viet_nam_thuc.pdf