Kỹ thuật viết dàn ý

1. Ba quy tắc

(1) Quên đi bài nghị luận: không làm dàn ý mở đầu, thân bài, kết luận, mà bài báo

phải đi ngay vào trọng tâm thông tin, cùng với thông điệp chính. Sau đó sẽ đến như

thế nào và tại sao.

(2) Mỗi đoạn một ý: không gì gây bực tức cho độc giả hơn là tìm thấy ở dòng thứ

mười lăm một thông tin bổ sung cho dòng thứ ba. Gần như có thể nói rằng mỗi đoạn

phải phát triển một ý.

(3) Liên kết giữa các đoạn: luôn thu hút độc giả từ đầu đến cuối. Tránh viết "dây cà ra

dây muống", chuyển đoạn một cách chặt chẽ. Điều này giúp tránh đi lan man.

2. Kết cấu kim tự tháp ngược

Việc đầu tiên là tập hợp thông tin. Sau đó, sắp xếp chúng. Cách đơn giản nhất là theo

thứ tự quan trọng giảm dần. Thông điệp cốt lõi phải được nói ngay ở đoạn đầu. Các

đoạn sau phát triển thông tin bổ sung. Độc giả không có nhiều thời gian có thể ngừng

đọc sau khi đã nắm bắt những thông tin chính. Nhưng cấu trúc này thường khiến kết

luận của bài không được hay, vì phần này gồm những thông tin ít giá trị nhất.

Kỹ thuật viết dàn ý trang 1

Trang 1

Kỹ thuật viết dàn ý trang 2

Trang 2

Kỹ thuật viết dàn ý trang 3

Trang 3

Kỹ thuật viết dàn ý trang 4

Trang 4

Kỹ thuật viết dàn ý trang 5

Trang 5

pdf 5 trang baonam 8100
Bạn đang xem tài liệu "Kỹ thuật viết dàn ý", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kỹ thuật viết dàn ý

Kỹ thuật viết dàn ý
Kỹ thuật viết dàn ý 
Bạn đã xác định được góc độ bài báo, đã chọn lựa thông tin, đã tìm ra thông điệp cốt 
lõi. Bây giờ, trước khi viết, bạn phải làm dàn ý. Trước một trang giấy dày đặc chữ, với 
những ý tưởng rối rắm, độc giả sẽ không biết sẽ đi đến đâu và sẽ nản lòng, không 
muốn đọc. Vì vậy, lý lẽ của bạn phải được sắp xếp sao cho dễ đọc. Độc giả phải hiểu 
ngay bạn muốn nói gì. 
1. Ba quy tắc 
(1) Quên đi bài nghị luận: không làm dàn ý mở đầu, thân bài, kết luận, mà bài báo 
phải đi ngay vào trọng tâm thông tin, cùng với thông điệp chính. Sau đó sẽ đến như 
thế nào và tại sao. 
(2) Mỗi đoạn một ý: không gì gây bực tức cho độc giả hơn là tìm thấy ở dòng thứ 
mười lăm một thông tin bổ sung cho dòng thứ ba. Gần như có thể nói rằng mỗi đoạn 
phải phát triển một ý. 
(3) Liên kết giữa các đoạn: luôn thu hút độc giả từ đầu đến cuối. Tránh viết "dây cà ra 
dây muống", chuyển đoạn một cách chặt chẽ. Điều này giúp tránh đi lan man. 
2. Kết cấu kim tự tháp ngược 
Việc đầu tiên là tập hợp thông tin. Sau đó, sắp xếp chúng. Cách đơn giản nhất là theo 
thứ tự quan trọng giảm dần. Thông điệp cốt lõi phải được nói ngay ở đoạn đầu. Các 
đoạn sau phát triển thông tin bổ sung. Độc giả không có nhiều thời gian có thể ngừng 
đọc sau khi đã nắm bắt những thông tin chính. Nhưng cấu trúc này thường khiến kết 
luận của bài không được hay, vì phần này gồm những thông tin ít giá trị nhất. 
3. Kết cấu thời gian 
Sắp xếp bài viết theo trật tự thời gian là điều bình thường, nhưng nó làm cho những gì 
mới diễn ra trở nên xa xôi. Kết cấu này phản lại Luật xa gần. Vì vậy, chúng ta có thể 
bắt đầu bằng tương lai, trong trường hợp này bài viết sẽ có kết cấu thời gian đảo 
ngược. Nhưng cách này khó đọc. Cách tốt nhất là trộn hai cách: bắt đâu bằng một dự 
án quan trọng trong tương lai, hiện tại hoặc quá khứ vừa diễn ra, sau đó quay trở lại 
kết cấu thời gian. 
4. Kết cấu tổng hợp 
Kết cấu này tương tự kết cấu một bài phát biểu về lịch sử. Chúng ta bắt đầu bằng sự 
việc hoặc tình trạng, sau đó nói đến nguyên nhân hoặc kết quả. Kết cấu này đơn giản 
và lô-gích, cho phép đề cập kỹ một vấn đề mà không làm độc giả chán. Nhưng khó 
tìm đựoc trình tự thông tin và kết nối các đoạn. 
5. Kết cấu dạng chứng minh 
Phù hợp với loại bài phân tích, điều tra, bình luận. Phải đề cập đến thông tin chính, 
sau đó chứng minh bằng một loạt lý lẽ dựa trên các sự việc. 
Điều quan trọng là tìm ra được cấu trúc bài. Cần rút ra những khái niệm của mỗi một 
loại cấu trúc để tìm ra cấu trúc thích hợp cho bài báo. Luôn nhớ cần có một trật tự và 
lô-gíc khi kết nối các đoạn. 
Giật tít 
Tít là câu quan trọng nhất trong bài. Đó là yếu tố chính ở mức độ đọc đầu tiên. Nó 
quyết định số phận của bài báo. Vì vậy, đừng bỏ qua! 
1. Sáu chức năng của tít 
Tít có 6 chức năng chính: thu hút sự chú ý vào trang giấy; cung cấp thông tin chính 
trong một cái liếc mắt; giúp độc giả lựa chọn bài; khiến độc giả muốn đọc; tổ chức 
trang; sắp xếp thông tin. 
2. Các loại tít 
 Tít phụ: thường đóng vai trò định vị sự việc: chỉ rõ thời gian và địa điểm hoặc 
đưa ra miền thông tin. Đôi khi chỉ rút lại thành một từ. 
 Tít: trình bày cỡ to, chức đựng những từ khóa. 
 Tít nhỏ: bổ sung thông tin cho tít (như thế nào? tại sao?) 
 Tóm tắt: liệt kê những nội dung quan trọng được xử lý trong bài báo hoặc trong 
chùm bài. 
3. Thế nào là một tít hay? 
 Sáng sủa, dễ hiểu: dùng từ đơn giản, cụ thể, không viết tắt. 
 Ngắn, mạnh và trực tiếp: loại bỏ những chi tiết phụ, rườm ra. Đi thẳng vào vấn 
đề chính, dùng từ mạnh, liên quan trực tiếp đến bài, không dùng tính từ, trạng 
từ, dùng câu thể chủ động, khẳng định. Có thể bỏ qua động từ. Tránh dùng 
chấm than, vì nó không thay thế được những từ mạnh. 
 Hạn chế dùng dấu chấm câu, trừ dấu hai chấm. 
 Không dùng câu hỏi. 
 Chính xác và trung thực. Không thay thế nội dung bằng hình thức. Không nói 
quá. 
 Thích hợp và độc đáo: một tít chỉ được dùng cho một bài báo. Tít là riêng biệt. 
 Phù hợp với thể loại: tít phải phù hợp với bài báo, với giọng điệu của nó, với 
phong cách, với thể loại báo chí. Dùng trích dẫn đối với thể loại phỏng vấn, 
điều mắt thấy tai nghe với thể loại phóng sự hay công thức với xã luận. 
4. Tít có tính thông tin 
 Trả lời phần nào cho các câu hỏi đặt ra (chủ yếu là ai, cái gì). 
 Loại bỏ những câu rườm rà, những từ không cần thiết, những thông tin bổ 
sung. 
Sapô 
Sapô phải "đội mũ cho bài báo mà không che khuất nó". Nếu một vài dòng của sapô 
đã đủ cho độc giả không có nhiều thời gian thì mục đích của nó không phải là nói với 
người đó rằng các phần còn lại của bài báo không có gì đáng quan tâm cả. Trái lại, 
nó phải làm người ta muốn đọc và muốn biết thêm chi tiết. 
1. Chức năng của sapô 
 Hoàn thiện tít, bằng cách nói rõ chủ đề bài báo và góc độ mà bạn lựa chọn xử 
lý. Giúp độc giả hình dung bài báo sẽ nói gì. 
 Tóm tắt thông tin, bằng cách đưa ra thông tin chủ yếu nếu cần phải dừng lại ở 
đó. 
 Giải thích bài báo, bằng cách chỉ ra tại sao tác giả chọn viết về sự kiện hay hiện 
tượng này. Ở đây cần vận dụng Luật xa gần để giúp độc giả hiểu rằng bài báo 
có thể liên quan đến họ và họ sẽ được lợi khi đọc nó. 
 Nêu rõ hoàn cảnh, đặc biệt với thể loại phỏng vấn, điều tra dài kỳ, bài viết về 
sự việc thời sự đã qua. Đối với một bài viết nhiều kỳ, sapô gợi lại những kỳ 
trước. Với phỏng vấn, nó giới thiệu vắn tắt người đựoc phỏng vấn và gợi vấn 
đề mà người đó đề cập đến. 
 Thông báo bố cục. Đây là một cách phát triển thông điệp cốt lõi của bài báo mà 
trong tít đã nhắc đến. Rất cần thiết với những độc giả đọc nhanh, bởi cách này 
rõ ràng. 
 Mời đọc: việc lựa chọn từ ngữ và cấu trúc câu rất quan trọng trong sapô. Nếu 
khô khan quá sẽ khiến độc giả nản lòng. 
 Sapô là một yếu tố đập vào mắt độc giả, nằm giữa tít và bài báo, quan trọng 
trong việc trình bày trang. Dùng cỡ chữ khác và to hơn chữ trong bài báo, để 
cân bằng phần chữ, phần trắng và phần minh hoạ một trang báo. 
2. Phân loại sapô 
Sapô có tính thông tin hay khơi gợi hoặc chứa đựng ít nhiều cả hai yêu tố, giống như 
tít. Có 2 loại sapô: 
(1) Sapô có tính thông tin trả lời một cách đầy đủ nhất có thể cho các câu hỏi tham 
khảo, nhắc lại góc độ của bài báo bằng cách làm rõ nó. Đó là sapô vua đối với các 
nhật báo, báo ra định kỳ, báo của các cơ quan thể chế hoặc doanh nghiệp. Đây là loại 
sapô giản dị, trung lập và nghiêm túc. 
(2) Với Sapô có tính khơi gợi, các sự việc đôi khi được coi là đã được biết đến. Sapô 
ở đây đưa ra ý tưởng chung của bài báo, góc độ và giọng điệu của bài báo. Thích hợp 
với thể loại phóng sự, chân dung, một số thể loại phỏng vấn và bài tổng hợp viết cho 
các tạp chí. 
3. Lúc nào cần viết sapô và độ dài thế nào? 
Nhất thiết phải viết sapô khi bài báo đủ dài (hai trang hoặc thậm chí ngắn hơn). Độ dài 
của sapô phụ thuộc độ dài của bài báo. Một số phóng viên có thói quen viết sapô trước 
khi viết bài, điều này giúp họ xác định rõ góc độ xử lý hoặc đặt mình trong cùng một 
tông giọng với bài viết. Một số káhc viết sapô sau, nấht là khi phụ thuộc vào vị trí của 
bài trên makét. Đôi khi sapô do một người khác viết. Cẩn thận với những sapô giả 
(không được viết) mà thật ra là phần đầu của bài báo được trình bày khác đi với kỹ 
thuật đồ hoạ. 

File đính kèm:

  • pdfky_thuat_viet_dan_y.pdf