Khảo sát các từ cổ trong ba văn bản viết bằng chữ Quốc ngữ thế kỷ XVII
Bài này khảo sát những từ cổ được dùng trong ba văn bản được viết bằng chữ quốc ngữ thế kỉ XVII: thư của Igesico Văn Tín gửi Marini, viết ngày 12-9-1659, thư của Bento thiện gửi Marini, viết ngày 25-10-1659, văn bản nói về Lịch sử nước Annam cũng do B. Thiện soạn thảo khoảng đầu hoặc giữa năm 1659, gửi cho Marini.
Các kết quả chính thu được là như sau:
- Trong vốn từ được dùng ở ba văn bản nói trên, có 45 từ nay đã là từ cổ, bao gồm: 27 thực từ (gồm cả những từ vẫn còn trong tiếng Việt ngày nay, nhưng vào thế kỉ XVII chúng được dùng với nghĩa cổ, nay không còn sử dụng nữa) và 18 hư từ.
- Trong 18 hư từ nêu trên, nếu xét về mặt chức năng của chúng, có thể chia thành các nhóm nhỏ hơn:
+ Phô (chỉ có một từ này) chuyên đứng trước danh từ
+ Thay thảy (chỉ có một từ này) chuyên đứng cuối danh ngữ.
+ Hằng, hầu, một, những chuyên đứng trước động từ.
+ Cùng, liên, đoạn chuyên đứng sau động từ hoặc cuối động ngữ.
+ Bằng1, bằng2, như bằng, bởi, chăng, dù mà, song le, ví bằng không phải là những yếu tố chuyên dụng có vị trí phân bố ổn định trong danh ngữ hoặc động ngữ.
+ Ru (chỉ có một từ này) là tiểu từ tình thái nghi vấn luôn đứng ở cuối câu.
- Chúng tôi đã phân tích, chỉ ra các đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ pháp của các từ nêu trên đây để góp phần tìm hiểu hệ thống từ vựng tiếng Việt thế kỉ XVII nói chung, các từ cổ thế kỉ XVII nói riêng.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát các từ cổ trong ba văn bản viết bằng chữ Quốc ngữ thế kỷ XVII
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 26 (2010) 183-197 183 Khảo sát các từ cổ trong ba văn bản viết bằng chữ Quốc ngữ thế kỷ XVII Vũ Đức Nghiệu* Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 336 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 15 tháng 12 năm 2010 Tóm tắt. Bài này khảo sát những từ cổ được dùng trong ba văn bản được viết bằng chữ quốc ngữ thế kỉ XVII: thư của Igesico Văn Tín gửi Marini, viết ngày 12-9-1659, thư của Bento thiện gửi Marini, viết ngày 25-10-1659, văn bản nói về Lịch sử nước Annam cũng do B. Thiện soạn thảo khoảng đầu hoặc giữa năm 1659, gửi cho Marini. Các kết quả chính thu được là như sau: - Trong vốn từ được dùng ở ba văn bản nói trên, có 45 từ nay đã là từ cổ, bao gồm: 27 thực từ (gồm cả những từ vẫn còn trong tiếng Việt ngày nay, nhưng vào thế kỉ XVII chúng được dùng với nghĩa cổ, nay không còn sử dụng nữa) và 18 hư từ. - Trong 18 hư từ nêu trên, nếu xét về mặt chức năng của chúng, có thể chia thành các nhóm nhỏ hơn: + Phô (chỉ có một từ này) chuyên đứng trước danh từ + Thay thảy (chỉ có một từ này) chuyên đứng cuối danh ngữ. + Hằng, hầu, một, những chuyên đứng trước động từ. + Cùng, liên, đoạn chuyên đứng sau động từ hoặc cuối động ngữ. + Bằng1, bằng2, như bằng, bởi, chăng, dù mà, song le, ví bằng không phải là những yếu tố chuyên dụng có vị trí phân bố ổn định trong danh ngữ hoặc động ngữ. + Ru (chỉ có một từ này) là tiểu từ tình thái nghi vấn luôn đứng ở cuối câu. - Chúng tôi đã phân tích, chỉ ra các đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ pháp của các từ nêu trên đây để góp phần tìm hiểu hệ thống từ vựng tiếng Việt thế kỉ XVII nói chung, các từ cổ thế kỉ XVII nói riêng. *Trong các tài liệu thành văn ghi bằng chữ quốc ngữ thế kỷ XVII còn lại đến nay, có ba văn bản rất đáng chú ý là: Thư của Igesico Văn Tín gửi Marini, viết ngày 12-9-1659 (dưới đây gọi tắt là thư V.Tín); Thư của Bento thiện gửi Marini, viết ngày 25-10-1659 (gọi tắt là thư B.Thiện); Văn bản nói về Lịch sử nước Annam (dưới đây viết tắt là LSAN) cũng do B. Thiện soạn thảo khoảng đầu hoặc giữa năm 1659, gửi cho Marini. Cả ba văn bản này đều do chính người Việt soạn thảo, bút tích, địa chỉ lưu trữ rõ ______ * ĐT.: 84-4-38585238. E-mail: nghieuvd@vnu.edu.vn ràng, thời gian soạn thảo được ghi hoặc được xác định chính xác, bảo đảm chắc chắn độ tin cậy về mặt văn bản học, và về “phẩm chất bản ngữ” của tác giả. Các văn bản đã được cụ Linh mục Đỗ Quang Chính phiên chuyển sang chữ quốc ngữ hiện đại, in kèm ảnh bản trong cuốn sách Lịch sử chữ quốc ngữ [1,2]. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ phân tích và cung cấp một số thông tin về những từ cổ hiện diện trong ba văn bản đó. 1. Hiểu một cách giản dị thì từ cổ là những từ đã từng tồn tại trước đây nhưng hiện nay không V.Đ. Nghiệu / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 26 (2010) 183-197 184 còn trong đời sống ngôn ngữ toàn dân đương đại nữa, hoặc nếu còn thì cũng đã có những biến đổi ngữ âm và/hoặc ngữ nghĩa nhất định, hoặc chỉ còn làm thành tố trong những kết cấu ngôn ngữ rất hạn chế nào đó. Trên thực tế, các biểu hiện và sự tồn tại của từ cổ khá đa dạng. a. Trường hợp thứ nhất, điển hình và dễ thấy hơn cả là những từ xưa đã từng tồn tại với tư cách là những từ bình thường, nhưng nay đã hoàn toàn khiếm diện trong ngôn ngữ đương đại. Ví dụ: mựa, bui, thửa, bợ, phô, hoà, nhẫn, chưng ... b. Trường hợp thứ hai là những từ có các biến đổi ngữ âm vì nhiều lý do khác nhau, trong đó có một số rất đáng kể là biến đổi do xu thế và quá trình đơn tiết hoá của tiếng Việt (cho rụng tiền âm tiết của các cấu trúc song tiết cổ). Về căn bản, nghĩa của dạng cổ và dạng hiện nay của những từ như thế, không khác nhau. Chúng chỉ khác nhau về hình thức ngữ âm. Ví dụ: la đá - đá, lồ vừng - vừng, lồ mướp - mướp, bồ cóc - cóc, bà cắt - cắt.. c. Trường hợp thứ ba là những từ chỉ còn được dùng rất hạn chế trong phương ngữ nào đó với tư cách la từ ngữ địa phương, hoặc tồn tại trong một thành ngữ tục ngữ nhất định. Ví dụ: bữa rầy/rày, min, ăn không ngồi rồi ... d. Trường hợp thứ tư là những từ xưa cũng đã từng tồn tại với tư cách là những từ bình thường, nhưng nay chỉ còn là những yếu tố đã “mất nghĩa” trong các đơn vị từ vựng như: hỏi han, hơn nữa, rõ rệt, lo âu, e lệ, ngặt nghèo ... e. Trường hợp thứ năm là những từ trước đây được dùng với nghĩa cổ (và tất nhiên sẽ kéo theo những đặc điểm ngữ pháp của chúng cũng khác), nay các nghĩa cổ đó không còn trong tiếng Việt hiện đại nữa. Ví dụ: từ cái dùng với nghĩa cổ như trong các kết cấu cú pháp: cái rắn, cái rùa, cái dế, cái đom đóm, cái mối, cái sóc, cái sò... từ con dùng với nghĩa cổ như trong các kết cấu cú pháp: con bừa, con am, con lều..., từ ban trong kết cấu ban trống canh, từ bằng trong kết cấu ngọt bằng mít, mát bằng dừa; đánh phá nước Ngô bằng khua lỗ kiến... Khảo sát ba văn bản này (sau đây xin được gọi tắt ... : trong ba văn bản, bên cạnh khả năng phân bố liền sau động từ (ví dụ: nói đoạn, lạy đoạn) hoặc đứng cuối động ngữ (ví dụ: đánh giặc đoạn) từ đoạn còn có rất nhiều khả năng phân bố ở vị trí đầu câu, đầu mệnh đề, đảm nhận chức năng làm dấu hiệu hình thức biểu hiện dứt câu hoặc mệnh đề trước, bắt đầu câu hoặc mệnh đề tiếp theo. 3.5. Năm hư từ bằng1 (có nghĩa so sánh cổ), bằng2 (có nghĩa liên từ), như bằng, chăng, bởi Bằng1. Trong nguồn ngữ liệu đang xét, bằng1 xuất hiện 2 lần với tư cách là từ so sánh thì một lần dùng với nghĩa so sánh bình thường như hiện nay, một lần dùng với nghĩa so sánh kiểu cổ (vì vậy, trong danh sách các hư từ cổ V.Đ. Nghiệu / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 26 (2010) 183-197 194 trên đậy chúng tôi chỉ ghi tấn số xuất hiện của bằng1 chỉ có một lần). Tính chất cổ đó thể hiện ở chỗ nó được phân bố ở vị trí mà ngày nay chỉ dùng như. Ví dụ: Ơn thầy thương lấy tôi cùng, vì là kẻ có tội nhiều, chẳng đáng ở gần Thầy, thì phải làm một lời bằng thay mặt. (thư V.Tín) Đặc điểm này của bằng, chúng ta đã gặp từ Truyền kỳ mạn lục giải âm trở về trước, đến Quốc âm thi tập, Hồng Đức quốc âm thi tập và văn bản Phật thuyết... Ví dụ: Đánh phá nước Ngô bằng khua lỗ kiến. [7] Khiến người ta sợ sệt bằng chim nản cung vậy vay. [7] Gió Nam kíp dấy sóng cả bằng núi. [7] Khi bình cư nghị luận miệng lưỡi bằng nước chảy. Đến khi toan chước cả nhà nước tối vậy bằng ngồi trong mây mù. [7] Ngày tháng bằng thoi một phút cười. [8, b.22] Ngọt bằng mít mát bằng dừa. [10, Phẩm vật môn, b.38] Tỳ bà mấy khúc sầu bằng bể [10, Nhàn ngâm chư phẩm tập, b.50]... A Nan mắng lời ấy, thương bằng nghe cắt cùng lòng [13] ... mẹ chửa con trong mười tháng, ngồi dậy chẳng an, bằng người gồng gánh nặng, ăn uống chẳng lọt bằng người ốm lâu [13]. Bằng2. Từ này, trong nguồn ngữ liệu được khảo sát ở đây, có 8 lần được dùng với ý nghĩa, chức năng tương đương như như một từ nối, đứng đầu danh ngữ ở đầu câu. Ví dụ: Bằng sự tiền Thầy dạy cho mẹ Romong thì tôi đã cho... (thư B.Thiện) Bằng phép lấy vợ, trước thì xem hai bên có đẹp lòng chăng, thì nhà trai đi hỏi, lấy trầu cau mà nói cùng nhau. (thư B.Thiện) Cái ý nghĩa “nếu / nếu như / cứ như / nhược bằng” khiến cho bằng được dùng như một từ nối đứng đầu danh ngữ ở đầu câu, thật ra, đã có từ thời Truyền kỳ mạn lục và Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trong kinh. Ví dụ: Bằng có tình cũ, ngày ấy khắc ấy khá đến dưới miếu vua Trưng Vương ... [7] Bằng ngươi nói, phúc Dĩ Thành vay hay vạ Dĩ Thành vay. [7] Bằng áng nạ còn sống, cho được sống lâu. [15] Bằng nay đà chết, xương bạc cùng một đấng, đệ tử làm sao mà biết? [15]. Như bằng. Đây là một ngữ gồm hai hư từ là như và bằng kết hợp với nhau, hơi lạ. Như bằng cũng để biểu hiện ý nghĩa so sánh giống với bằng và như. Ví dụ: Tôi làm thư nầy xin cho đến Thầy như bằng đội ơn Thầy vậy.(thư B.Thiện). Kết hợp này chúng tôi chỉ gặp ở đây một lần, nhưng trong Phép giảng tám ngày..., gặp tới 4 lần. Ví dụ: Mà Đức Chúa Trời lấy mọi việc ấy làm dễ mà chẳng động gì trong mình như bằng chẳng có làm việc gì sốt [11] (Hư từ này cần được lưu ý khảo sát thêm trong các nguồn ngữ liệu khác nữa bởi tính đặc biệt của nó). Chăng. Vốn là từ mang ý nghĩa phủ định, chăng được dùng làm từ phủ định trong cấu trúc phủ định và cũng được dùng trong các cấu trúc thể hiện ý nghi vấn phủ định. Trong ba văn bản đang xét, chăng được ghi nhận sử dụng 11 lần, thì: - 01 lần vẫn được dùng với ý nghĩa phủ định trong cấu trúc phủ định. Ví dụ: Đến mùng hai tháng hai, lại ăn Tết ngày ấy. Song le, mặc có nơi ăn nơi chăng [= chẳng (ăn)] (thư B.Thiện). - 10 lần dùng trong cấu trúc thể hiện ý nghi vấn phủ định. Ví dụ: song le chẳng biết là có ai gưởi cho đến Thầy hay chăng (thư B.Thiện). Chẳng biết là tôi có được gặp Thầy nữa chăng (thư B.Thiện). () xem tuổi cùng xem số có tốt chăng, mới đi hỏi lại. (thư B.Thiện) Hai ý nghĩa và chức năng này của chăng, trong văn bản Truyền kỳ mạn lục giải âm, Hồng Đức Quốc âm thi tập, Quốc âm thi tập và văn bản Phật thuyết... đều đã hiện diện. Ví dụ: V.Đ. Nghiệu / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 26 (2010) 183-197 195 ... chẳng gặng lời phải lời chăng [= lời chẳng phải]. [7] Xưa nhẫn lại, đôi lứa chăng là chẳng [= không phải là không có] duyên cũ. [7] Số trời an đặt, chăng là chẳng [= chẳng/không phải là chẳng/ không ] trước định. [7] Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen [8, bài 69] Thuở đói xin ăn, chăng phải mẹ chăng ai mớm; khát thời xin uống, chăng phải mẹ chăng ai cho bú ... [15]. Tuy vào các thời xưa trước, chăng và chẳng vốn cùng có ý nghĩa và chức năng làm từ phủ định như vậy, nhưng càng lùi về hiện nay, chăng càng giảm dần, tiến tới rút lui khỏi vị trí của từ phủ định đứng trước từ khác, để lùi vào chiếm giữ vị trí của từ chuyên dùng trong các cấu trúc thể hiện ý nghi vấn phủ định và trong các câu hỏi tu từ (Ví dụ: Nhớ chăng em từng đôi giầy nhỏ? Thuyền về có nhớ bến chăng?...). Trong tiếng Việt hiện đại, chăng hoàn toàn không còn đứng ở vị trí của từ phủ định nữa. Vị trí đó đã hoàn toàn do chẳng đảm nhiệm. Bởi. Hư từ này biểu thị quan hệ nguyên nhân. Trong ba văn bản được khảo sát ở đây, bởi vẫn được sử dụng để biểu thị ý nghĩa nguyên nhân là chính (3/4 lần). Ví dụ: mà bởi có giặc Hung nô đến Quảng Tây, thì vua Vĩnh Lịch chạy đi xứ khác... (thư B. Thiện). Trong Phép giảng tám ngày... cũng ghi nhận cho thấy từ bởi với ý nghĩa và chức năng như vậy. Ví dụ: Vậy thì các đấng chịu sáng bởi đức Chúa trời hay là bởi một đức chúa trời cho, hay là bởi đấng trên truyền cho ... [11]. Bên cạnh ý nghĩa chỉ nguyên nhân, ý nghĩa chỉ nơi chốn của bởi từng được ghi nhận trong Truyền kỳ mạn lục giải âm, đến đây vẫn được duy trì, hoạt động. Ví dụ: Mà Thầy cả Miguel bởi Roma mà đến đây thì về bên Đại Minh(thư B.Thiện). Sở dĩ nói rằng bởi (đúng hơn là ý nghĩa chỉ nơi chốn của nó) được ghi nhận trong bản giải âm Truyền kỳ mạn lục là vì trong bản giải âm này, chúng ta có thể thấy cả loạt ngữ cảnh như: ... xảy thấy con gái đẹp, bởi thôn Đông mà ra... [7] ... dẫn một người đẹp ... bởi phương Đông mà lại. [7] Ở đây (trong ba văn bản thế kỷ XVII đang xét) bởi được dùng với ý nghĩa cổ, làm giới từ chỉ nơi chốn; và tính chất “cổ” còn thể hiện rõ ở chỗ: từ điển Annam - Lusitan - Latinh (1651) của A. de Rhodes [3], Tự vị Annam – Latinh (Dictionarium Annamitico Latinum) của P.P.de Behaine (1772 - 1773) [4], Dictionarium Annamitico Latinum của Aj.L. Taberd (1838) [5] đều không còn ghi nhận ý nghĩa “chỉ nơi chốn” của từ này. 4. Nhận xét chung Tuy kết quả khảo sát về các từ cổ trong một nguồn ngữ liệu nào đó không phải là toàn bộ từ cổ của tiếng Việt trong thời kỳ tương ứng, nhưng chúng ta vẫn cần phải có những miêu tả có tính bộ phận như vậy, để dần dần, từ nhiều kết quả bộ phận như thế, mới tiến tới có được sự hình dung đầy đủ hơn về bức tranh tổng thể các từ cổ nói riêng, từ vựng tiếng Việt nói chung trong quá khứ lịch sử. Từ các miêu tả và phân tích trình bày trên đây, chúng tôi thấy có thể nêu một số nhận xét khái lược như sau: a. Trong số các từ cổ nói chung và từ cổ hiện diện tại nguồn ngữ liệu đang xét nói riêng, số thực từ nhiều hơn hẳn so với hư từ. Điều đó không có gì lạ. Tuy nhiên, các đặc điểm, tính chất cổ về ngữ nghĩa, ngữ pháp, về khả năng kết hợp của các hư từ cổ đó lại tỏ ra là phức tạp hơn nhiều so với các thực từ. b. Nếu so sánh các từ cổ trong ba văn bản thế kỷ XVII đó với các từ cổ thuộc giai đoạn trước thế kỉ XVII, thì nói chung, không có những khác biệt, biến chuyển nhiều, hoặc đột biến; còn nếu so với ngày nay (tiếng Việt giai đoạn hiện đại), có những năng lực hoạt động và/hoặc một số nét nghĩa hoặc chức năng ngữ pháp của một số từ, đã giảm thiểu hoặc bị rụng đi. Ví dụ: Khả năng tham gia làm thành tố trong các kiểu kết cấu so sánh của bằng1, nét nghĩa V.Đ. Nghiệu / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 26 (2010) 183-197 196 điều kiện giả định của bằng2, nét nghĩa phủ định và vị trí đứng làm từ phủ định của chăng(3), nét nghĩa và chức năng liên từ của cùng, nét nghĩa “chỉ / chỉ có” của một, nét nghĩa “toàn là / chỉ” của những, nét nghĩa chỉ nơi chốn của bởi, khả năng kết hợp của danh từ cái(cái rắn), con (con bừa)... Ngược lại với xu thế trên đây, là xu thế mở rộng, gia tăng nghĩa hoặc chức năng ngữ pháp của hàng loạt từ như: năng lực hoạt động và nghĩa của bằng1, như, cái (cái ăn, cái mặc)... Hai xu thế trái chiều nhau này có khi diễn ra ngay trong cùng một từ (vừa thu hẹp, giảm thiểu nghĩa này, khả năng ngữ pháp này, vừa mở rộng, gia tăng nghĩa kia, khả năng ngữ pháp kia (bằng1, như...) c. Trong nguồn ngữ liệu được khảo sát ở đây, hàng loạt nhóm hư từ ngữ đồng nghĩa đã hiện diện, trong đó có những từ thành viên là từ cổ. Đó là một trong những biểu hiện của sự phát triển từ vựng, vì quan hệ đồng nghĩa sẽ đưa đến sự gia tăng số lượng, gia tăng khả năng biểu hiện trong từ vựng, nhưng đồng thời cũng có thể dẫn đến khả năng loại trừ nhau giữa các đơn vị đồng nghĩa. Ví dụ: Trong ba văn bản thế kỉ XVII có sinh thì xuất hiện 7 lần, nhưng chết cũng được dùng 2 lần và qua đời được dùng tới 34 lần. (So sánh: trong Phép giảng tám ngày..., từ sinh thì xuât hiện 11 lần, qua đời được dùng 10 lần, nhưng chết được dùng tới 179 lần)(4). ______ (3)Tạm gác vấn đề phiên âm chữ Nôm chăng và chẳng sang một bên; so sánh tương quan tần số sử dụng giữa chăng và chẳng trong một số nguồn ngữ liệu hữu quan đã phiên sang chữ quốc ngữ, chúng tôi thấy: trong Văn bản Phật thuyết... chăng được dùng 22 lần, chẳng 103 lần; trong Quốc âm thi tập, chăng 53 lần chẳng 128 lần; trong Hồng Đức quốc âm thi tập, chăng 27 lần chẳng 103 lần; trong ba văn bản viết bằng chữ quốc ngữ thế kỷ XVII, chăng 11 lần chẳng 107 lần. (4) Có thể nêu thêm một số cặp đồng nghĩa khác nữa rất đáng lưu tâm trong văn bản Phép giảng tám ngày... của A. de Rhodes như: Ví bằng xuất hiện 78 lần và nếu đã xuất hiện 37 lần Song le xuất hiện 216 lần và nhưng đã xuất hiện 4 lần, Như bằng xuất hiện 4 lần và như đã xuất hiện 149 lần, Dẫu mà xuất hiện 1 lần và dầu đã xuất hiện 108 lần, Dù mà xuất hiện 1 lần và dù đã xuất hiện 52 lần, Vì chưng xuất hiện 230 lần và vì đã xuất hiện 290 lần ... Chính những đối lập về mức độ được sử dụng của từ ở nhiều nhóm từ cũng là một trong những lý do góp thêm vào việc dẫn đến những thay đổi của từ vựng ở giai đoạn sau. Ba văn bản được chúng tôi khảo sát ở đây đều là văn bản văn xuôi. Những thực tế trình bày trên đây là một phần nhỏ của bức tranh chung thể hiện khá rõ một trạng thái của hệ thống công cụ ngữ pháp tiếng Việt đang trên quá trình phát triển của nó, tạo điều kiện hình thành, xây dựng và phát triển nền ngôn ngữ văn xuôi Việt. Tài liệu tham khảo [1] Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ quốc ngữ 1620-1659, NXB Tôn giáo, 2008. [2] Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ quốc ngữ 1620-1659, Tủ sách Ra khơi, Sài gòn, 1972. [3] A.de. Rhodes, Từ điển Annam - Lusitan - Latinh, (Dictionarivm Annnamiticvm Lvsitanvm, et Lainvm ope), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1991. [4] P. Pigneau de Behaine, Tự vị An nam La tinh (Dictionrium Anamitico Latinum), (Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên dịch và giới thiệu), NXB Trẻ, 1999. [5] Aj.L. Taberd, Dictionarium Anamitico Latinum, NXB Văn học, Trung tâm nghiên cứu Quốc học. [6] Đoàn Thiện Thuật, Chữ quốc ngữ thế kỷ XVIII, NXB Giáo Dục, 2008. [7] Truyền kỳ mạn lục giải âm, Nguyễn Quang Hồng phiên âm và chú giải, Hà Nội, 2001. [8] Nguyễn Trãi Quốc âm thi tập trong toàn tập, NXB Khoa học Xã hội, 1975. [9] Bốn bài phú đời Trần, (Cư trần lạc đạo, Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, Hoa yên tự phú, Giáo tử phú), Đào Duy Anh phiên âm, trong sách: Chữ Nôm: nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến, NXB Khoa học Xã hội, 1975. [10] Hồng Đức quốc âm thi tập, NXB Văn học, 1982. [11] Rhodes A. de. Phép giảng tám ngày cho kẻ muấn chịu phép rửa tội mà vào đạo thánh đức chúa blời, Tủ sách Đại kết, 1993. [12] Nguyễn Tài Cẩn. Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hoá, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2001. [13] Nguyễn Quang Hồng, Khái luận văn tự học chữ Nôm, NXB Giáo dục, 2008. [14] Nguyễn Tài Cẩn, Chữ Nôm đã hiện diện vào thời kỳ quốc đô dời ra Thăng Long, Văn hóa Nghệ An, số 172 - 173, tháng 5 - 2010. [15] Hoàng thị Ngọ, Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh; trong sách: Chữ Nôm và tiếng Việt qua bản giải âm Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1999. V.Đ. Nghiệu / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 26 (2010) 183-197 197 [16] Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục, Trong sách Di văn chùa Dâu, Nguyễn Quang Hồng chủ biên, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1997. [17] Dào Duy Anh, Truyện Kiều, Từ điển Truyện Kiều, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1974. [18] Trần Thị Mỹ, Nguyễn Thiện Nam, Một vài nhận xét về cách dùng các từ “một, phô, thay thảy, cả và...” trong văn xuôi cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, (cứ liệu rút từ “Sách sổ sang chép các việc...”), Ngôn ngữ, 1 (1981) 25. Examine archaic Vietnamese words used in three texts writen in Quoc Ngu (romanized Vietnamese) in the 17th century Vu Duc Nghieu College of Social Sciences and Humanities, Vietnam National University, Ha Noi, 336 Nguyen Trai, Thanh Xuan, Hanoi, Vietnam This paper deals with archaic Vietnamese words used in three texts writen in Quoc ngu (ronmanized Vietnamesse writing system) in the 17th Century. Those three texts include Igesico Văn Tin’s letter writen on September 12, 1659 to Marini, Bento Thien’s letter writen on October 25,1659 to Marini, Bento Thien’s text on Annam history writen in the begining or middle of 1659 to Marini. Followings are what we have found from the analysis of those three texts: - There are 45 archaic Vietnamese words which are divided into two groups: a group of 27 lexcal words (of which some have been used until now but they contained old meanings). Another goup consists of 18 functional words. - The group 18 empty words can be divided into some following subgroups based on their functions: phô (this word only) precedes nouns. thay thảy (this word only) occurs at the end of the noun phrases. hằng, hầu, một, những precede verbs. . cùng, liên, đoạn follow verbs or occurs at the end of verb phrases. bằng1, bằng2, như bằng, bởi, chăng, dù mà, song le, ví bằng have no stable positions in noun phrases and verb phrases. Ru (this word only) occurs at the end of sentences. - We have analysed and pointed out semantic, grammatical features of words mentioned above to contribute to understand the 17th Century Vietnamese vocabulary in general and archaic Vietnamese words during that century in particular.
File đính kèm:
- khao_sat_cac_tu_co_trong_ba_van_ban_viet_bang_chu_quoc_ngu_t.pdf