Khai thác các tiềm năng để phát triển bền vững ở thành phố Hồ Chí Minh
Cho đến hiện nay, quan niệm về phát triển bền vững
vẫn là vấn đề tranh cãi. Bỏ qua những sự khác biệt
trong các quan niệm rất đa dạng hiện nay, có thể
hiểu: Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng
những nhu cầu hiện tại nhưng không gây trở ngại
cho việc đáp ứng nhu cầu của thế hệ tương lai (Ủy
ban Thế giới về Môi trường và phát triển bền vững,
1987, tr.43). Phát triển bền vững được hiểu là sự
thống nhất biện chứng giữa ba mặt của sự phát
triển: Phát triển kinh tế phải duy trì trong thời gian
dài với quy mô, tốc độ nhanh và hiệu quả; chuyển
dịch cơ cấu theo hướng hiện đại sử dụng hiệu quả
các nguồn lực đặc biệt là khoa học - công nghệ;
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế ngày càng
cao, tính ổn định trong tăng trưởng kinh tế ngày
càng bền vững. Phát triển xã hội đảm bảo tiến bộ,
công bằng xã hội, nghĩa là cùng với tăng trưởng
kinh tế phải gắn với công bằng và tiến bộ xã hội
vì con người và bảo vệ môi trường phát triển môi
trường sinh thái.
Trong suốt quá trình cách mạng cũng như trong
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng và
Nhà nước Việt Nam đã khẳng định:
Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững,
tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Phát huy
mọi nguồn lực để phát triển nhanh và có hiệu quả
những sản phẩm, ngành, lĩnh vực mà nước ta có
lợi thế, đáp ứng nhu cầu trong nước và đẩy mạnh
xuất khẩu, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh
trên thị trường trong nước và ngoài nước. Tăng
nhanh năng suất lao động xã hội và nâng cao chất
lượng tăng trưởng. Triệt để tiết kiệm, chống lãng
phí, tăng tích luỹ cho đầu tư phát triển”
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Khai thác các tiềm năng để phát triển bền vững ở thành phố Hồ Chí Minh
AGU International Journal of Sciences – 2021, Vol. 27 (1), 38 – 46 38 KHAI THÁC CÁC TIỀM NĂNG ĐỂ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Nguyễn Minh Trí1, Nguyễn Mai Lâm2 1Trường Đại học Công nghệ TP. Hồ Chí Minh 2Trường Đại học Phan Thiết Thông tin chung: Ngày nhận bài: 07/08/2019 Ngày nhận kết quả bình duyệt: 07/01/2020 Ngày chấp nhận đăng: 01/2021 Title: Research on exploiting the potentials for sustainable development in Ho Chi Minh City Keywords: sustainable development, Ho Chi Minh City Từ khóa: Phát triển bền vững, Thành phố Hồ Chí Minh ABSTRACT This article analyzed the potentials for development in Ho Chi Minh City, and how policies impacted socioeconomic and national security in Ho Chi Minh City. This study then proposed targets for sustainable development in Ho Chi Minh City. On that basis, the author proposes some key solutions to effectively contribute to solving the problems mentioned. TÓM TẮT Bài viết phân tích khái quát các tiềm năng phát triển bền vững ở Thành phố Hồ Chí Minh; phân tích các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường ở Thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm góp vào việc giải quyết một cách hiệu quả những vấn đề đặt ra nêu trên. 1. MỞ ĐẦU Cho đến hiện nay, quan niệm về phát triển bền vững vẫn là vấn đề tranh cãi. Bỏ qua những sự khác biệt trong các quan niệm rất đa dạng hiện nay, có thể hiểu: Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng những nhu cầu hiện tại nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của thế hệ tương lai (Ủy ban Thế giới về Môi trường và phát triển bền vững, 1987, tr.43). Phát triển bền vững được hiểu là sự thống nhất biện chứng giữa ba mặt của sự phát triển: Phát triển kinh tế phải duy trì trong thời gian dài với quy mô, tốc độ nhanh và hiệu quả; chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiện đại sử dụng hiệu quả các nguồn lực đặc biệt là khoa học - công nghệ; năng lực cạnh tranh của nền kinh tế ngày càng cao, tính ổn định trong tăng trưởng kinh tế ngày càng bền vững. Phát triển xã hội đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội, nghĩa là cùng với tăng trưởng kinh tế phải gắn với công bằng và tiến bộ xã hội vì con người và bảo vệ môi trường phát triển môi trường sinh thái. Trong suốt quá trình cách mạng cũng như trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã khẳng định: Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Phát huy mọi nguồn lực để phát triển nhanh và có hiệu quả những sản phẩm, ngành, lĩnh vực mà nước ta có lợi thế, đáp ứng nhu cầu trong nước và đẩy mạnh AGU International Journal of Sciences – 2021, Vol. 27 (1), 38 – 46 39 xuất khẩu, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và ngoài nước. Tăng nhanh năng suất lao động xã hội và nâng cao chất lượng tăng trưởng. Triệt để tiết kiệm, chống lãng phí, tăng tích luỹ cho đầu tư phát triển”. (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, tr.162). Để phân tích các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với phát triển bền vững và những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển ở TP.HCM, trước hết chúng tôi trình bày khái quát tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội ở TP.HCM, bởi tổng hợp những yếu tố này là cơ sở để hoạch định chủ trương chính sách phát triển bền vững ở TP.HCM hiện nay. 2. KHÁI QUÁT TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở TP.HCM Một là, về vị trí địa tự nhiên, TP.HCM là thành phố trực thuộc Trung ương, gồm có 19 quận, 5 huyện, có tổng diện tích đất đất tự nhiên khoảng 2.095,03 km2, chiếm 6,36% diện tích toàn quốc, dân số 8.643.044 người, chiếm khoảng 9,2% dân số cả nước (Cục Thống kê TP.HCM, 2018, tr.47), nằm trong toạ độ địa lý khoảng 10o38’ - 11010’ Bắc và 106022’- 106054’ Đông; với vị trí mở, phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương, Tây Bắc giáp tỉnh Tây Ninh, Đông và Đông Bắc giáp với tỉnh Đồng Nai, Đông Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Tây và Tây Nam giáp với tỉnh Long An và tỉnh Tiền Giang. Với vị trí này, Thành phố có sự gắn kết với các vùng miền của cả nước như với Đồng bằng sông Cửu Long - vùng nông sản của cả nước; với Đông Nam Bộ và Tây Nguyên - vùng cây công nghiệp của cả nước, thị trường cung cấp nguồn nguyên vật liệu đa dạng, phong phú, phục vụ quá trình sản xuất ở TP.HCM. Đây là vùng đất có điều kiện tự nhiên đa dạng, phong phú, hiền hòa, không khắc nghiệt như các vùng miền khác. Khí hậu khô mát quanh năm, ít bị bão, lũ, không bị rét đậm, rét hại, nhiều sông ngòi, kênh rạch, đất đai rộng lớn và bằng phẳng là những điều kiện thuận lợi để phát triển công nghiệp, thương nghiệp, lâm - ngư nghiệp, đảm bảo cho con người cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Về tài nguyên thiên nhiên, so với các địa phương trong nước thì khoáng sản ở Thành phố nghèo, chủ yếu phục vụ xây dựng ... t lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của kinh tế thành phố, gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, xây dựng con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; nâng cao phúc lợi xã hội và chất lượng cuộc sống nhân dân. Xây dựng TP.HCM có chất lượng cuộc sống tốt, văn minh, hiện đại, nghĩa tình” (Ðảng bộ TP.HCM, 2015, tr.119), từ đó tạo nên tính năng động, sáng tạo của các tầng lớp nhân dân, huy động được các nguồn lực và đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng trên cả ba mục tiêu cơ bản: tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Nếu giai đoạn trước đổi mới (1976 - 1985) tốc độ tăng GDP bình quân 2,7%/năm, thì trong 30 năm đổi mới (1986 - 2016) đạt mức bình quân 10,7%, gấp 1,6 lần bình quân cả nước và năm 2018 đạt 7,08 %. Tuy nhiên, quá trình phát triển kinh tế ở TP.HCM vẫn chưa thực sự đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, thể hiện ở những vấn đề cấp bách đặt ra cần phải nhanh chóng giải quyết, như: Về cơ chế, chính sách, giải pháp hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Thành phố vừa qua chưa đủ mạnh dẫn đến “chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành kinh tế còn chậm, tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ có giá trị gia tăng còn thấp, công nghiệp nặng tính gia công” (Ðảng bộ TP.HCM, 2015, tr.101); tiềm năng, lợi thế của Thành phố chưa được huy động, khai thác đầy đủ; cơ cấu phân bổ lao động chưa hợp lý, có ngành thì thừa, có ngành thì thiếu. Công tác cổ phần hóa, sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước còn nhiều bất cập. Các hoạt động liên doanh, liên kết giữa các thành phần kinh tế chưa đồng bộ. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng về số lượng nhưng quy mô vừa và nhỏ (quy mô lao động dưới 5 người chiếm 60,8%; từ 5000 lao động trở lên chiếm 0,2% (Cục Thống kê TP.HCM, 2017, tr.140), sức cạnh tranh yếu, công nghệ lạc hậu dẫn đến năng suất và chất lượng hàng hóa không cao. Doanh nghiệp FDI, chưa tập trung vào những lĩnh vực công nghệ cao, chủ yếu là gia công, lắp ráp và mức độ liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước chưa thực sự hiệu quả. Về xã hội: Về nguồn nhân lực chưa đáp mục tiêu phát triển bền vững của Thành phố. Mặc dù lao động qua đào tạo nghề ở Thành phố đạt 77,5%, song tỷ lệ lao động qua đào tạo chỉ chiếm 34%, thấp hơn nhiều so với các tỉnh thành khác trong cả nước (Hà Nội, tỷ lệ lao động qua đào tạo chiếm 39,9%, Đà Nẵng là 41,6%). Lao động không có chuyên môn chiếm tỷ lệ đáng báo động là 66,6% (Tổng Cục Thống kê, 2018, tr.150) đã trở thành điểm nghẽn đối với doanh nghiệp trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ và tăng năng suất lao động trong tất cả các ngành của nền kinh tế. Lực lượng lao động ở Thành phố dồi dào nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn rơi vào tình trạng khan hiếm lao động, đặc biệt là đội ngũ giám đốc điều hành, quản trị, chuyên gia trên mọi lĩnh vực dẫn đến tình trạng thiếu việc làm, tỷ lệ thất nghiệp của Thành phố vẫn còn khá cao (năm 2011 là 5,0%, năm 2014 là 4,65% và năm 2016 là 4,4%) gấp gần 2 lần so với cả nước (2,24% năm 2017) (Tổng Cục Thống kê, 2018, tr.153). Về lĩnh vực ngành nghề thì những ngành chủ lực phát AGU International Journal of Sciences – 2021, Vol. 27 (1), 38 – 46 44 triển của Thành phố như ngành cơ khí, hóa chất, chế biến thực phẩm, điện tử “chỉ mới đáp ứng khoảng 30% nhu cầu tuyển dụng” (Mạnh Hòa, 2014). Mặt khác, theo khảo sát của Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao động “chỉ có 80% sinh viên, học viên tốt nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh tìm được việc làm, 20% không tìm được việc. Trong số tìm được việc chỉ có 50% là có việc làm phù hợp với năng lực, sở thích” (Huyền Bình, 2013). Về thu nhập của người lao động còn thấp ảnh hưởng đến thực hiện đời sống an sinh của người lao động. Thành tựu về tăng trưởng kinh tế qua hơn ba thập kỷ đã làm cho thu nhập bình quân đầu người hàng năm từ 586 USD (năm 1986) lên 5.538 USD (năm 2015) (Ðảng bộ TP.HCM, 2015, tr.66), gấp gần 9,5 lần (bình quân chung cả nước năm 2000 là 402 USD/người, 2015 là 2.200 USD/người). Mức tăng GDP bình quân đầu người cao đã tạo nguồn lực vật chất dồi dào cho người dân và Nhà nước thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội. Tuy nhiên, nếu so với với các nước lân cận thì thu nhập của Thành phố vẫn còn thấp (Trung Quốc 8.123 USD; Malaysia 9.508 USD, Singapore 52.962 USD (Tổng Cục Thống kê, 2018, tr. 896 - 897). Mức thu nhập thấp dẫn đến mức sống thấp gây ảnh hưởng tiêu cực đến mức độ gắn kết với nghề nghiệp, lý tưởng cống hiến và an sinh xã hội cho người lao động Thành phố. Cùng với “hiệu quả giảm nghèo thiếu bền vững” (Ðảng bộ TP.HCM, 2015, tr.104), “sự chênh lệch đời sống và mức hưởng thụ văn hóa giữa nhân dân nội thành và ngoại thành càng lớn” (Ðảng bộ TP.HCM, 2015, tr.34); việc mở rộng và phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp còn dưới mức tiềm năng. Do đó, cần sớm khắc phục để nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo đảm an sinh xã hội của những người dân Thành phố nói chung. Về giáo dục và đào tạo, TP.HCM có một hệ thống trường đại học, cao đẳng, trường trung cấp nghề, khu công nghệ cao phát triển, đã đào tạo ra nguồn nhân lực với chất lượng ngày càng cao, có kiến thức, có tay nghề, có kinh nghiệm tổ chức, quản lý sản xuất và khả năng tự hoàn thiện mình trong môi trường cạnh tranh khốc liệt, phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thành phố. Tuy nhiên, việc thực hiện công tác giáo dục và đào tạo ở TP.HCM hiện nay chưa thực sự đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa; do nội dung và phương pháp, hệ thống giáo dục còn hạn chế, tỉ lệ lao động có trình độ chuyên môn cao, tay nghề giỏi còn ít; tình trạng vừa thừa, vừa thiếu nhân lực ở một số ngành, lĩnh vực, tổ chức khá phổ biến. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nhất là đào tạo sau đại học chưa chú trọng đúng chưa thực sự đóng vai trò là cơ sở động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội ở Thành phố; một số cơ sở liên kết đào tạo sau đại học tại tỉnh chưa chú trọng đầu vào, chất lượng đào tạo thấp đã và đang tác động chưa thực sự mạnh mẽ, sâu rộng và hiệu quả đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thành phố hiện nay. Những hạn chế trên đã được Đảng bộ Thành phố nhận định: “Chất lượng giáo dục - đào tạo và nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế; khoa học - công nghệ chưa thật sự trở thành động lực thúc đẩy phát triển” (Ðảng bộ TP.HCM, 2015, tr. 23). Về trình độ phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội (tình trạng ngập nước, ùn tắc giao thông, áp lực về dân số) với tốc độ tăng trưởng kinh tế và yêu cầu cải thiện dân sinh đã ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố. Vì vậy, để TP.HCM phát triển bền vững thì Thành phố cần đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện các quy hoạch tổng thể, đồng bộ, hiện đại, đảm bảo định hướng lâu dài và kết nối TP.HCM với các tỉnh, thành trong cả nước. Nhanh chóng triển khai có hiệu quả đề án Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh giai đoạn 2017-2020, tầm nhìn đến năm 2025 trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm quốc tế nhằm phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật ở Thành phố theo hướng hiện đại góp nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân Thành phố. Về môi trường: Môi trường ở TP.HCM hiện cũng đang là những vấn đề “nóng”, trở thành một trong những mối quan tâm đặc biệt của xã hội. Biểu AGU International Journal of Sciences – 2021, Vol. 27 (1), 38 – 46 45 hiện của nhóm vấn đề này tập trung ở một số khía cạnh sau: Tình trạng ô nhiễm môi trường đã lên tới mức báo động. Theo số liệu của Trung tâm Quan trắc và Phân tích môi trường TP.HCM hiện nay, nồng độ trung bình giờ của khí oxyt carbon, hàm lượng trung bình giờ của bụi lơ lửng năm sau luôn cao hơn năm trước. Ngoài bụi, trong không khí Thành phố còn chứa nhiều hơi khí độc phổ biến là anhydrít sylfurơ, carbua hydro, amoniắc, sulfua hydro... Thành phố Hồ Chí Minh có số lượng lớn xe máy, xe ôtô; mật độ giao thông cao, các phương tiện giao thông là một nguồn gây ô nhiễm không khí nghiêm trọng. Liên quan đến việc quản lý chất thải, với việc phát triển đô thị nhanh gần 10 triệu người thì lượng rác thải và nước thải sinh hoạt đã quá tải so với khả năng xử lý của Thành phố. Nước thải sinh hoạt cùng với nước thải công nghiệp đang làm trầm trọng hơn mức độ ô nhiễm nguồn nước của Thành phố. Hệ thống sông Đồng Nai và sông Sài Gòn, hằng ngày đang tiếp nhận hàng ngàn mét khối nước thải từ các khu vực đô thị, khu sản xuất công nghiệp và nông nghiệp của địa phương (Tây Ninh, Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai). TP.HCM là địa phương ở cuối nguồn chịu ảnh hưởng lớn nhất của tình trạng ô nhiễm nguồn nước mặt của hệ thống sông Đồng Nai và sông Sài Gòn. Nếu không có cơ chế phối hợp giữa Thành phố với các địa phương thì chất lượng nguồn nước khó mà cải thiện. Chính những tác động trên đã gây nên những căn bệnh như tắc nghẽn phổi mãn tính, viêm phế quản, ung thư phổi ảnh hưởng đến an sinh xã hội của người dân Thành phố. Bên cạnh đó, TP.HCM là đô thị lớn với dân số đông và mật độ cao là môi trường thích hợp nhất cho các loại tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp, tinh vi và khó kiểm soát như độ tuổi của người nghiện ngày càng trẻ hóa, tỷ lệ người nghiện bằng con đường tiêm chích cũng gia tăng; trộm cướp diễn ra với mức độ ngày càng nguy hiểm; mại dâm, buôn lậu, băng đảng, nhóm lợi ích tham nhũng... đã và đang ảnh hưởng đến sự an toàn của xã hội. Tất cả những vấn đề trên cho thấy, phát triển bền vững ở TP.HCM đang đứng trước nhiều yêu cầu, thách thức trong quá trình hội nhập quốc tế. Chính vì vậy, để phát triển bền vững ở TP.HCM trong thời gian tới, chúng tôi đề xuất một số giải pháp định hướng: Thứ nhất, quát triệt, nhận thức một cách đầy đủ và sâu sắc phát triển bền vững trong từng bước, từng chiến lược, từng chính sách phát triển kinh tế - xã hội nói chung trong Đảng bộ, chính quyền và các cơ quan ban ngành, các tổ chức xã hội và nhân dân Thành phố. Từ đó tạo nên sự thống nhất về nhận thức và hành động trong hệ thống chính trị của Thành phố, hướng đến mục tiêu phát triển vì con người. Thứ hai, đẩy mạnh việc xây dựng, điều chỉnh, hoàn thiện cơ chế, chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại (dịch vụ - công nghiệp – nông nghiệp); đồng thời kết hợp giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội. Thứ ba, phát triển nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn và kỹ năng dựa trên nhu cầu thực tế của mỗi địa phương khác nhau trên địa bàn Thành phố thông qua các hình thức tự đào tạo, tăng cường liên kết các doanh nghiệp và cơ sở đào tạo dựa trên nhu cầu. Tập trung đào tạo lao động có trình độ phù hợp với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trong đó, tập trung nguồn nhân lực cho những ngành có hàm lượng công nghệ, giá trị gia tăng cao, đảm bảo nhu cầu lao động có chất lượng cao cho 9 ngành dịch vụ, 4 ngành công nghiệp vốn là thế mạnh của Thành phố; từng bước chủ động tham gia tích cực và hiệu quả thị trường lao động kỹ thuật cao trong khu vực và quốc tế, trước hết là 8 ngành nghề (gồm nha khoa, điều dưỡng, kỹ thuật, xây dựng, kế toán, kiến trúc, khảo sát và du lịch) được tự do chuyển dịch trong Cộng đồng Kinh tế ASEAN). Thứ tư, tranh thủ sự hỗ trợ của quốc tế. Đó là sự giúp đỡ vật chất, tinh thần, chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm nhằm giúp các nước gặp khó khăn trong việc giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội bền vững. Để có thể tranh thủ sự giúp đỡ của bạn AGU International Journal of Sciences – 2021, Vol. 27 (1), 38 – 46 46 bè các tổ chức quốc tế, muốn như vậy, TP.HCM cũng như Việt Nam cần phải tăng cường tuyên truyền, xúc tiến các chương trình tìm kiếm viện trợ nước ngoài; sử dụng đúng mục đích đã cam kết khi nhận viện trợ; công khai, minh bạch trong việc sử dụng viện trợ quốc tế. Các giải pháp trên cần được tiến hành một cách thống nhất và đồng bộ, đồng thời có sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo ở các cấp, các ngành trong từng giai đoạn phát triển nhất định. KẾT LUẬN TP.HCM là một đô thị đặc biệt quan trọng, đầu tàu kinh tế của cả nước, sự phát triển của Thành phố có vai trò là động lực phát triển của cả nước. Trong quá trình hội nhập quốc tế, TP.HCM đã hoạch định chính sách nhằm khai thác tiềm năng vốn có và đã đạt những thành tựu quan trọng trên mọi lĩnh vực như kinh tế, xã hội và môi trường, góp phần hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Thành phố văn minh, hiện đại, nghĩa tình, có chất lượng sống tốt. Tuy nhiên, việc khai thác tiềm năng thế mạnh của TP.HCM vẫn còn một số vấn đề đặt ra trên lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường đã tác động tiêu cực đến mục tiêu phát triển của Thành phố. Với những giải pháp được đưa ra, chúng tôi mong muốn góp phần tìm ra hướng đi đúng đắn trong việc xây dựng chiến lược phát triển bền vững vì một Thành phố văn minh, hiện đại. TÀI LIỆU THAM KHẢO Cục Thống kê TP.HCM. (2017). Niên giám Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh 2016. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Thanh niên. Cục Thống kê TP.HCM. (2018). Niên giám Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh 2017. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Thanh niên. Huyền Bình. (2013). Vì sao nhiều sinh viên ra trường khó tìm việc làm?. Báo Nhân dân. Truy cập từ: chung/item/21478802.html Ðảng bộ TP.HCM. (2010). Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ IX. Thành phố Hồ Chí Minh: Đảng bộ TP.HCM Ðảng bộ TP.HCM. (2015). Văn kiện Đại hội đại biểulần thứ X. Thành phố Hồ Chí Minh: Đảng bộ TP.HCM Đảng Cộng sản Việt Nam. (2012). Nghị quyết số 16-NQ/TW ngày 10/8/2012 về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020. Hà Nội. Phạm Thị Oanh. (2013). Mối quan hệ giữa con người – tự nhiên và phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự Thật. Mạnh Hòa. (2014). 9 Thành ủy, HĐND, UBND, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP.HCM. (2015). Thành phố Hồ Chí Minh - 40 năm xây dựng, phát triển và hội nhập. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. Tổng Cục Thống kê. (2018). Niên giám thống kê Việt Nam năm 2017. Hà Nội: Nhà xuất bản Thống kê. UBND TP.HCM. (2016). Thành phố Hồ Chí Minh xây dựng, phát triển và hội nhập 2015 - Ho Chi Minh City construction, development and integration (Song ngữ Anh-Việt). Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. UBND TP.HCM. (2017). Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội Thành phố năm 2017 và nhiệm vụ, giải pháp năm 2018. Thành phố Hồ Chí Minh: Thành phố Hồ Chí Minh: Văn phòng UBND TPHCM Ủy ban Thế giới về Môi trường và phát triển bền vững. (1987). Tương lai của chúng ta. USA: Nhà xuất bản Oxford.
File đính kèm:
- khai_thac_cac_tiem_nang_de_phat_trien_ben_vung_o_thanh_pho_h.pdf