Hướng tới mô hình sinh kế bền vững ở Nghệ An

Trong khoảng hai thập niên qua, giới nghiên cứu

đã và đang quan tâm nhiều đến vấn đề sinh kế và xóa

đói giảm nghèo ở Việt Nam. Theo Murray (2002):

“Trong nghiên cứu phát triển nông thôn và giảm

nghèo, vấn đề sinh kế và sinh kế bền vững đã trở

thành mục tiêu phân tích ở cả cấp vĩ mô và vi mô,

theo ba hướng tiếp cận chính, đó là các tiếp cận

đồng đại, các tiếp cận lịch đại và những tiếp cận

hướng tới tương lai” (Dẫn theo Nguyễn Văn Sửu,

2015, tr.15). Trong thời đại phát triển bền vững,

những nghiên cứu về sinh kế cũng hướng theo khung

sinh kế bền vững. Sinh kế bền vững được hiểu là

tổng thể các điều kiện tự nhiên, văn hóa, con người,

kinh tế, xã hội, chính sách, thông tin để cộng đồng

sinh tồn và phát triển nhằm hướng tới phát triển ổn

định và bền vững. Khung sinh kế bền vững được một

số nhà nghiên cứu coi là “một cách tiếp cận toàn

diện về các vấn đề phát triển thông qua việc nhấn

mạnh đến việc thảo luận về sinh kế của con người

và đói nghèo trong các bối cảnh khác nhau”

(Nguyễn Văn Sửu, 2015, tr.15).

Hướng tới mô hình sinh kế bền vững ở Nghệ An trang 1

Trang 1

Hướng tới mô hình sinh kế bền vững ở Nghệ An trang 2

Trang 2

Hướng tới mô hình sinh kế bền vững ở Nghệ An trang 3

Trang 3

Hướng tới mô hình sinh kế bền vững ở Nghệ An trang 4

Trang 4

Hướng tới mô hình sinh kế bền vững ở Nghệ An trang 5

Trang 5

Hướng tới mô hình sinh kế bền vững ở Nghệ An trang 6

Trang 6

pdf 6 trang baonam 15460
Bạn đang xem tài liệu "Hướng tới mô hình sinh kế bền vững ở Nghệ An", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hướng tới mô hình sinh kế bền vững ở Nghệ An

Hướng tới mô hình sinh kế bền vững ở Nghệ An
HOẠT ĐỘNG KH-CN
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 9/2017 [10]
n Bùi Minh Hào(*)
1. Khung sinh kế bền vững 
Trong khoảng hai thập niên qua, giới nghiên cứu
đã và đang quan tâm nhiều đến vấn đề sinh kế và xóa
đói giảm nghèo ở Việt Nam. Theo Murray (2002):
“Trong nghiên cứu phát triển nông thôn và giảm
nghèo, vấn đề sinh kế và sinh kế bền vững đã trở
thành mục tiêu phân tích ở cả cấp vĩ mô và vi mô,
theo ba hướng tiếp cận chính, đó là các tiếp cận
đồng đại, các tiếp cận lịch đại và những tiếp cận
hướng tới tương lai” (Dẫn theo Nguyễn Văn Sửu,
2015, tr.15). Trong thời đại phát triển bền vững,
những nghiên cứu về sinh kế cũng hướng theo khung
sinh kế bền vững. Sinh kế bền vững được hiểu là
tổng thể các điều kiện tự nhiên, văn hóa, con người,
kinh tế, xã hội, chính sách, thông tin để cộng đồng
sinh tồn và phát triển nhằm hướng tới phát triển ổn
định và bền vững. Khung sinh kế bền vững được một
số nhà nghiên cứu coi là “một cách tiếp cận toàn
diện về các vấn đề phát triển thông qua việc nhấn
mạnh đến việc thảo luận về sinh kế của con người
và đói nghèo trong các bối cảnh khác nhau”
(Nguyễn Văn Sửu, 2015, tr.15).
HƯỚNG TỚI 
MÔ HÌNH 
SINH KẾ 
BỀN VỮNG 
Ở NGHỆ AN
C ông cuộc Đổi mới (1986) đã đưanền kinh tế Việt Nam chuyểnmình theo một hướng mới. Sự
phát triển của kinh tế thị trường đã làm
thay đổi các mô hình sinh kế, qua đó
tác động mạnh mẽ đến văn hóa cộng
đồng. Nghiên cứu và đánh giá các mô
hình sinh kế được nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm và xem đó là một cách
để tiếp cận sự thay đổi về văn hóa cộng
đồng và văn hóa dân tộc. Cũng như
các địa phương khác trong cả nước,
Nghệ An bắt nhịp với sự phát triển kinh
tế thị trường khá sớm và đạt được
những kết quả nhất định. Tuy nhiên, sự
phát triển đó có tính bền vững hay chưa
thì vẫn cần phải trao đổi thêm nhiều.
Theo đó, bài viết này muốn góp phần
thảo luận thêm về sự phát triển ở Nghệ
An theo hướng sinh kế bền vững.
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 9/2017 [11]
HOẠT ĐỘNG KH-CN
Nhìn chung, khái niệm sinh kế bền vững
(Sustainable livelihood) bắt nguồn từ những
nghiên cứu trong lĩnh vực xóa đói giảm nghèo
ở các nước, các vùng kém phát triển. Qua
phân tích nhiều mô hình sinh kế, các nhà
nghiên cứu đưa ra thảo luận nhằm tìm ra một
khung sinh kế bền vững. Sau đó, Bộ Phát triển
Quốc tế Anh (Department for Internatinal De-
velopment - DFID) đã tổng hợp và đưa ra
khung sinh kế bền vững vào cuối thập niên 90
của thế kỷ XX. Khung sinh kế của DFID đã
được các nhà nghiên cứu trong tổ chức này
mở rộng, phát triển và dần phổ biến rộng rãi
trong giới nhân học (Nguyễn Văn Sửu, 2015,
16). Nội dung chủ đạo của khung sinh kế bền
vững là “lấy con người và sinh kế của họ làm
trung tâm để phân tích, nghĩa là đặt con
người ở trung tâm của sự phát triển”
(Nguyễn Văn Sửu, 2015, tr.17). Khung sinh
kế này đề cập đến các thành tố hợp thành sinh
kế của con người, từ các ưu tiên và chiến
lược, họ lựa chọn để thực hiện các ưu tiên của
mình; các chính sách ảnh hưởng đến cách tiếp
cận của họ, khả năng sử dụng các loại vốn và
môi trường sống quanh họ. Trong phân tích
khung sinh kế bền vững, các nhà nghiên cứu
đã tập trung vào các loại vốn, trong đó chủ
yếu là năm loại vốn gồm có: vốn vật chất (cơ
sở hạ tầng, hàng hóa...), vốn tài chính (nguồn
lực tài chính để sử dụng), vốn xã hội (quan hệ
xã hội, mạng lưới, niềm tin, nhóm thành
viên...), vốn con người (tri thức, kỹ năng làm
việc, sức khỏe...) và vốn tự nhiên (đất đai,
rừng, nước, nguyên liệu...). Và hiện nay,
những nghiên cứu về sinh kế bền vững ở Việt
Nam đang tập trung vào việc tranh luận về các
loại vốn này và vai trò của các loại vốn
(Nguyễn Văn Sửu, 2015). Một vấn đề quan
trọng mà khung sinh kế bền vững trên chưa
nhấn mạnh hay chưa đề cập đúng vai trò của
nó là vốn văn hóa. Đối với các cộng đồng,
vốn văn hóa giữ một vai trò vô cùng quan
trọng trong phát triển. Nếu phân tích sinh kế
của một cộng đồng mà bỏ qua hay coi trọng
chưa đúng mức vốn văn hóa thì sẽ là một
thiếu sót khó chấp nhận được. Vậy nên trong
phân tích khung sinh kế, cần phải phân tích
vai trò của 6 loại vốn của cộng đồng mới có
cái nhìn toàn diện hơn và sâu sắc hơn. 
2. Phân tích mô hình sinh kế ở Nghệ An theo
khung sinh kế bền vững
Từ khung sinh kế bền vững đã nói ở trên, chúng ta
có thể phân tích các mô hình sinh kế ở Nghệ An qua
các loại vốn. Khái niệm “vốn” (Capital) sử dụng ở đây
được hiểu như là một nhóm các yếu tố tác động đến
mô hình sinh kế của một cộng đồng người. 
Vốn tự nhiên (Natural Capital): là các nguồn lực
tự nhiên phục vụ đời sống sinh hoạt và sản xuất của
con người.
Tự nhiên Nghệ An đa dạng và cũng phức tạp, có
vùng đồi núi trập trùng ở phía Tây, vùng trung du trải
dài, vùng đồng bằng ven biển và vùng biển. Vốn tự
nhiên quan trọng nhất ở đây là đất đai, rừng, hệ thống
sông suối và nước ngầm, hệ thống sinh vật đa dạng,
các loại khoáng sản, biển... Tuy nhiên, việc phát huy
các nguồn vốn tự nhiên trong phát triển kinh tế - xã
hội ở Nghệ An là vấn đề cần thảo luận nhiều. 
Trư ... hát
triển nhưng có nguồn vốn con người. Đó là những con
người cụ thể cộng đồng, những tộc người đang sinh
sống ở đây và tham gia hàng ngày vào quá trình phát
triển. Vậy nên, cần thấy được con người Nghệ An
cũng đa dạng về mặt dân tộc, văn hóa. Ngoài người
Kinh sinh sống chủ yếu ở vùng trung du, đồng bằng
và ven biển cùng một số vùng miền núi mới di cư lên,
thì Nghệ An còn có hàng chục các nhóm tộc người
khác sinh sống ở vùng miền núi như Thái, Khơ mú,
Hmông, Thổ Tương ứng với các cộng đồng tộc
người là các thiết chế xã hội và các nền văn hóa riêng.
Tất cả những con người, những tộc người này đều là
vốn con người của Nghệ An. Vậy nên cần nhận thức
cụ thể về từng nhóm người, từng tộc người để phát
huy sức mạnh của họ trong quá trình phát triển. 
Mỗi cộng đồng đều có những thế mạnh riêng với
những kinh nghiệm, đặc tính khác nhau nên nếu phát
huy được điểm mạnh thì đó là một động lực quan
trọng cho sự phát triển và ngược lại. Tư duy phát triển
lấy người Kinh làm trung tâm đang có nhiều vấn đề.
Đưa những kinh nghiệm, kỹ năng của người Kinh lên
để dạy cho các dân tộc khác ở vùng miền núi trong
phát triển kinh tế là không hợp lý. Các cộng đồng này
hàng trăm năm nay sinh sống ở đây và họ có kinh
nghiệm trong khai thác tự nhiên cũng như phát triển
các phương thức, mô hình sinh kế thích hợp. Không
thể yêu cầu họ phát triển công nghiệp hay các ngành
dịch vụ vốn quá xa lạ với họ với mục tiêu là đưa đồng
bào phát triển kịp với người Kinh. Mặt khác, khi người
Kinh di cư lên miền núi và sử dụng cách thức của
mình khai thác tự nhiên sẽ ảnh hưởng nhiều đến các
Khai thác bừa bãi nguồn lợi tự nhiên 
đang là vấn đề quan trọng của Nghệ An
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 9/2017 [13]
HOẠT ĐỘNG KH-CN
nguồn tài nguyên này. Phần lớn rừng bị chặt
phá, sông suối ô nhiễm hay sự khai thác vô tổ
chức các tài nguyên ở miền núi đều do người
Kinh thực hiện. Bên cạnh đó, cũng cần nhìn
nhận một điều là việc sử dụng nguồn lực con
người ở vùng đồng bằng chưa hẳn hợp lý.
Những đặc trưng đáng tự hào về người Nghệ
đã nêu trên, chủ yếu nói về người Kinh vùng
xuôi. Nhưng những con người như vậy đã thật
sự được phát huy trong quá trình phát triển
hay chưa? Người Nghệ đỗ đạt rất nhiều và có
uy tín trong các cơ quan đào tạo cũng như
công tác. Nhưng những người đỗ đạt quay về
công tác ở quê hương rất ít và số thành công
lại càng ít hơn. Tại sao lại có những nghịch lý
trớ trêu như vậy? Phải chăng trong hoạch định
phát triển của tỉnh nhà đã bỏ qua nguồn vốn
con người, hay đúng hơn là chưa coi trọng
đúng mức nguồn vốn này trong sự phát triển. 
Vốn văn hóa (Cultural Capital): bao gồm
một hệ thống biểu hiện như giá trị, chuẩn
mực, biểu tượng, tri thức, ngôn ngữ dân tộc,
phong tục tập quán, trang phục, ẩm thực... 
Nghệ An có một nguồn vốn văn hóa đa
dạng được phân biệt bởi hệ thống giá trị văn
hóa của các dân tộc khác nhau, các vùng và
địa phương khác nhau. Ở đó có văn hóa vùng
cao của các dân tộc ở miền núi phía Tây, văn
hóa của người Kinh ở vùng trung du và đồng
bằng, văn hóa biển của cộng đồng người Kinh
sống ven biển Là vùng đất từng có một thời
gian dài trong lịch sử là nơi tiếp giáp, giao
thoa của nhiều nền văn hóa: văn hóa Đại Việt
từ ngoài Bắc vào, văn hóa Champa từ phía
Nam, văn hóa núi với văn hóa biển nên
Nghệ An tích hợp được một vốn văn hóa
phong phú. Truyền thống hiếu học và truyền
thống cách mạng là những yếu tố thu hút đối
với văn hóa xứ Nghệ. Vốn văn hóa đa dạng
là một thế mạnh để phát triển, đồng thời cũng
là một thách thức trong phát triển bền vững
kinh tế với bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa
các tộc người, các địa phương. Việc phát huy
các giá trị văn hóa trong kinh tế thị trường là
một vấn đề khó trong khi tác động của thị
trường đến văn hóa lại rất nhanh chóng và
mạnh mẽ. Vậy nên nhận thức và lựa chọn
những yếu tố nào trong vốn văn hóa để kích
thích phát triển kinh tế và bảo tồn giá trị, bản sắc văn
hóa còn cần nhiều nghiên cứu và thảo luận để đưa ra
những chính sách hiệu quả và hợp lý. 
Vốn xã hội (Social capital): Người Nghệ có một
vốn xã hội rộng lớn và đa dạng. Thể hiện “sự giàu có”
về nguồn vốn xã hội của người Nghệ là họ có một
mạng lưới quan hệ rộng lớn ở gần như mọi vùng miền
khắp cả nước. Người Nghệ từ quê đi ra khắp nơi sinh
sống nhưng luôn giữ mối liên hệ mật thiết với quê
hương và với các cộng đồng, các nhóm cùng quê sống
gần với họ. Mạng lưới quan hệ xã hội này cho phép
họ hoạt động trên nhiều lĩnh vực và có sự hỗ trợ hợp
tác với nhau chặt chẽ. Mạng lưới này cũng giúp người
Nghệ tiếp cận các điều kiện phát triển mới hơn và tiếp
cận thị trường lao động cũng như thị trường hàng hóa
nhanh hơn. Các hội đồng hương Nghệ An rải khắp các
địa phương, đặc biệt là các đô thị lớn là cầu nối để
người Nghệ vươn ra nhiều nơi lập nghiệp (Bùi Minh
Hào, 2014). Tuy nhiên, tính cục bộ hay tính cố kết
cộng đồng của người Nghệ nhiều khi cũng ảnh hưởng
đến quá trình phát triển của họ. Tâm lý đám đông và
sự tự tôn quá mức trở thành một rào cản lớn cho việc
tiếp cận thị trường và tiếp cận các quy trình sản xuất
hiện đại mà người Nghệ mong muốn vươn ra. 
Vốn vật chất (Physical capital): được hiểu là các
điều kiện vật chất, cơ sở hạ tầng phục vụ cho sự phát
triển, là một nguồn vốn quan trọng để phát triển kinh
tế thị trường. Khi các cơ sở hạ tầng và các loại sản
phẩm hàng hóa không được phát triển và nâng cấp thì
việc tiếp cận thị trường thêm khó khăn. 
Vốn vật chất ở Nghệ An trong nhiều năm qua đã
được đầu tư và xây dựng nhiều. Các tuyến đường
huyết mạch được sửa sang, mở rộng và nâng cấp, tạo
điều kiện cho giao thông thuận lợi hơn. Các đường nối
liền các địa phương trong tỉnh cũng được đầu tư xây
dựng. Nhìn chung, hệ thống giao thông các cấp được
cải tạo và nâng cấp hơn, điều kiện giao thông giữa các
vùng, địa phương trở nên thuận lợi hơn. Bên cạnh đó
là sự nâng cấp các yếu tố khác như đường điện, hệ
thống cơ sở vật chất cho y tế, giáo dục và hệ thống
chợ được đầu tư nhiều hơn. Điều đó thể hiện nguồn
vốn vật chất được tăng cường đáng kể. Tuy nhiên, sự
đầu tư đó chưa đáp ứng được điều kiện phát triển. Vốn
vật chất thiếu đồng bộ, trong khi vùng đồng bằng, ven
biển có cơ sở hạ tầng tốt hơn thì vùng miền núi phía
Tây vẫn còn gặp nhiều khó khăn, yếu kém. Nhiều dự
án để cải tạo vốn vật chất được thực hiện nhưng hiệu
quả thấp. Điều kiện để phát triển kinh tế thị trường là
HOẠT ĐỘNG KH-CN
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 9/2017 [14]
cơ sở vật chất và điều kiện vật chất ở khu vực
nông thôn, miền núi hạn chế nên khả năng
tiếp cận thị trường của người dân cũng khó
khăn hơn. Trong khi đó, việc đầu tư hạ tầng
cũng manh mún, thiếu chiến lược và theo
phong trào, sự kiện làm cho quy hoạch phát
triển càng thêm khó khăn, kém hiệu quả hơn. 
Vốn tài chính (Financial capital): là một
cụ thể hóa nguồn vốn kinh tế (Economical
Capital), là nguồn vốn để con người đầu tư
vào phát triển kinh tế. 
Ngoài nguồn vốn tự huy động của người
dân trong tỉnh thì Nghệ An còn nhận được
một nguồn vốn tài chính từ con em ở xa quê
gửi về tái đầu tư để kiến thiết quê hương (Bùi
Minh Hào, 2014). Tuy nhiên, vốn tài chính
vẫn là một điểm yếu trong phát triển sinh kế
của người Nghệ, đặc biệt là người dân vùng
miền núi phía Tây. Sự yếu kém về vốn tài
chính làm cho kinh tế thiếu sức đầu tư lớn,
thiếu những tập đoàn, công ty lớn để làm đầu
kéo cho kinh tế tỉnh nhà. Nhưng có thể coi đó
là hạn chế chung cả cả nước chứ không của
riêng Nghệ An. Vấn đề là nhận thức và sử
dụng nguồn vốn này như thế nào? Bao nhiêu
năm cơ chế xin cho đã ảnh hưởng nhiều đến
tư duy về tài chính của con người ở đây. Sự
đầu tư tài chính cho phát triển kinh tế khác
với cứu trợ tài chính cho đối tượng chính
sách. Nó cần tập trung nguồn vốn để phát
triển một ưu thế của một vùng, một địa
phương hay một bộ phận của tộc người.
Không thể dàn trải, cào bằng tài chính để phát
triển kinh tế như một chính sách hỗ trợ người
dân. Sự tiếp cận thị trường là sự phát triển
năng lực cá nhân của một bộ phận trong cộng
đồng nên cần đầu tư, hỗ trợ cho nhóm này
phát triển, đồng thời cứu trợ cho những nhóm
yếu thể để có điều kiện vươn lên. Một chính
sách tài chính tối ưu là phân loại được các
hạng mục và các đối tượng cụ thể để đầu tư.
Việc này thì Nghệ An chưa làm tốt, chủ yếu
vẫn là đầu tư mang tính gia đình, do nội lực
và thiếu định hướng, thiếu hỗ trợ từ nhà nước. 
3. Hướng tới xây dựng một mô hình sinh
kế bền vững ở Nghệ An
Trước hết, cần khẳng định rằng sẽ không
thể có một mô hình sinh kế bền vững chung
cho mọi cộng đồng. Những phân tích này mong muốn
hướng đến những nguyên tắc chung, điều kiện chung
cho việc xây dựng một các mô hình sinh kế tối ưu và
khả dụng trong quá trình phát triển. Như vậy, một mô
hình sinh kế mang tính bền vững là một mô hình sinh
kế có sự phù hợp và linh động trong những biến đổi
bất ngờ của điều kiện tự nhiên, sự biến đổi của thị
trường và cả những biến đổi xã hội nhất định. 
Hướng đến một khung sinh kế bền vững cần nhận
thức rõ về quá trình phát triển. Ai phát triển và phát
triển cho ai là một câu hỏi quan trọng trong quá trình
nhận thức và thực hành vấn đề này. Trong nhiều năm
thực hiện cơ chế xin - cho, quan điểm người Kinh đi
xây dựng và giúp đồng bào miền núi phát triển gây
nên nhiều hậu quả nghiêm trọng đến các nguồn vốn.
Hay việc các nhà quản lý độc quyền trong hoạch định
đường lối, mô hình phát triển, xem đây là việc của giới
quản lý chuyên nghiệp mà xa lánh ý kiến tham vấn
của cộng đồng chủ thể hay nhà khoa học cũng gây ra
nhiều hạn chế. Khi bắt đầu một dự án xây dựng mô
hình sinh kế mới mang tính bền vững cần phải có một
sự phân tích từ các bên liên quan thật sự sâu sắc và rõ
ràng, để nhận dạng rõ những phía liên quan trong quá
trình khám phá đó và lợi ích, tác động khi thực hiện
dự án để tránh những hậu quả, những hạn chế của
nhận thức chủ quan và hẹp hòi (Hà Hữu Nga, 2010a).
Khi trực tiếp xây dựng mô hình sinh kế mới có tính
bền vững, cần phải lấy ý kiến “tham vấn cộng đồng”,
để những người dân là chủ thể của mô hình sinh kế đó
tham gia và góp phần quyết định việc xây dựng mô
hình sinh kế của họ. Họ là người đề bạt nguyện vọng
Mô hình ớt cay xuất khẩu tạo sinh kế hiệu quả 
cho người dân xã Lục Dạ (Con Cuông)
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 9/2017 [15]
HOẠT ĐỘNG KH-CN
và là người nhận lợi ích cũng như chịu mọi
tác động từ mô hình sinh kế đó (Hà Hữu
Nga, 2010b). Như vậy, trong quá trình hoạch
định chiến lược phát triển sinh kế ở Nghệ An
cần nhấn mạnh quan điểm phân vùng nhỏ và
gắn các mục tiêu chủ chốt theo lợi thế và vị
thế của từng vùng, không đặt mục tiêu kinh
tế, thu nhập lên tất cả các vùng. Có vùng
phát triển để làm kinh tế, có vùng phát triển
để bảo tồn và có vùng phát triển để bảo vệ.
Để tiến hành xây dựng các mô hình sinh kế
hợp lý cho từng vùng nhỏ, từng địa phương
cần thống nhất chung là đặt vị trí của con
người, cụ thể là chủ thể của các cộng đồng
làm trung tâm, làm chủ quá trình phát triển.
Để họ đóng vai trò quyết định trong việc lựa
chọn con đường và phương pháp sinh tồn
trong điều kiện của họ. 
Phân tích mô hình sinh kế ở Nghệ An trên
đây cho thấy một điều thật khó để phát triển
cả 6 loại vốn cùng một lúc cho một cộng
đồng theo khung sinh kế bền vững. Trong
khi mỗi một cộng đồng, một địa phương có
những lợi thế nhất định về các nguồn vốn,
đồng thời cũng có những hạn chế đến từ các
nguồn vốn đó. Vậy nên, mô hình có đầy đủ
cả 6 nguồn vốn phục vụ phát triển là mơ ước,
còn việc cần làm là tạo khung chính sách sao
cho để khắc phục những hạn chế về các
nguồn vốn trong quá trình phát triển. Có các
nguồn vốn chưa đủ mà cần sử dụng nguốn
vốn đó sao cho hợp lý và hiệu quả. 
Quá trình phát triển kinh tế thị trường
cũng gây sức ép thật sự lên môi trường và
văn hóa của các cộng đồng. Sự Kinh hóa văn
hóa, thương mại hóa văn hóa và sự quá tải
của môi trường là điều cần bàn đến trong
một mô hình sinh kế. Muốn hạn chế điều này
cần phải thúc đẩy nội lực của chính chủ thể
phát triển, trả lại các nguyên liệu sản xuất,
phương tiện sản xuất cho người dân để họ có
quyền sở hữu và sử dụng trong quá trình
phát triển của mình. Quan trọng nữa là cần
chú trọng phát triển con người. Cần đưa họ
về vị thế chủ thể của sự phát triển, làm cho
họ trở lại như xưa, mạnh mẽ và kiên cường
lao động. Đồng thời, đào tạo và giúp đỡ họ
tiếp cận các kỹ năng, thông tin và tư duy mới
về sự phát triển. Mọi việc đều hướng đến để họ làm
chủ tất cả cuộc sống của họ chứ không phải biến họ
từ lệ thuộc vào tự nhiên trở thành lệ thuộc vào người
Kinh, lệ thuộc vào kỹ thuật và lệ thuộc vào thị trường. 
Nói tóm lại, một mô hình sinh kế mang tính bền
vững cho Nghệ An phải là một mô hình được đầu tư
cả 6 loại vốn mà khung sinh kế bền vững đưa ra,
nhưng có độ thích ứng và cơ động trước các biến đổi
của đời sống kinh tế thị trường, tự nhiên và cả lịch sử
xã hội. Trong mô hình đó, con người là trung tâm, làm
chủ các loại vốn phát triển và làm chủ chiến lược phát
triển cũng như làm chủ hoàn toàn cuộc sống của họ.
Để hướng đến một mô hình như vậy, có lẽ còn cần
nhiều thời gian và nhiều nỗ lực của rất nhiều phía tham
gia vào công cuộc phát triển./.
(*) Thạc sĩ, Nghiên cứu sinh Khoa Nhân học, Trường Đại học
Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. 
Tài liệu tham khảo:
1. Bùi Minh Hào (2014), “Biến đổi văn hóa ở các cộng đồng
sống xa quê hương: trường hợp người Nghệ ở Hà Nội”, Tạp chí
Văn hóa Nghệ An, số 277, ngày 25/9/2014.
2. Ellis, Frank (1993), “Peasants Economics: Farm House-
holds and Agrarian Devolopment”, 2ndEdition, Cambridge Uni-
versity Press.
3. Hà Hữu Nga (2010a), “Phân tích các bên liên quan trong
các dự án lớn và các chương trình trợ giúp phát triển”, Tài liệu tập
huấn cho dự án của Ngân hàng Thế giới (World Bank) tại Hà Nội.
4. Hà Hữu Nga (2010b), “Tham vấn cộng đồng trong các dự
án phát triển”, Tài liệu tập huấn cho dự án của Ngân hàng Thế
giới (World Bank) tại Hà Nội.
5. Nguyễn Đình Lộc, “Các dân tộc thiểu số ở Nghệ An”, Nxb
Nghệ An, 1993.
6. Nguyễn Văn Sửu (2014), “Công nghiệp hóa, đô thị hóa và
biến đổi sinh kế ở ven đô Hà Nội”, Nxb Tri thức, Hà Nội.
7. Nguyễn Văn Sửu (2015), “Khung sinh kế bền vững: một
cách phân tích toàn diện về phát triển và giảm nghèo”, In trong
“Nhân học phát triển: lich sử, lý thuyết và công cụ thực hành”,
Nxb Tri thức, Hà Nội, trang 15-33.
8. Nguyễn Duy Thắng (2007), “Sử dụng vốn xã hội trong
chiến lược sinh kế của nông dân ven đô Hà Nội dưới tác động
của đô thị hóa”, Tạp chí Xã hội học, số 4, trang 37-47.
9. Neefies, Koos (2008), “Môi trường và sinh kế: các chiến
lược phát triển bền vững”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
10. James C. Scott (1976), “The Moral Economy of the Peasant:
Rebellion and Subsistence in Southeast Asia”, Yale Univ Pr. USA.
11. Tô Duy Hợp (2006),“Biến đổi tam nông: một số vấn đề
lý luận cơ bản”, Bài tham luận tại Hội thảo khoa học “Biến đổi
xã hội nông thôn Việt Nam dưới tác động của đô thị hóa, tích tụ
ruộng đất và chính sách dồn điền đổi thửa: những vấn đề lý luận,
thực trạng và giải pháp”.

File đính kèm:

  • pdfhuong_toi_mo_hinh_sinh_ke_ben_vung_o_nghe_an.pdf