Hướng tới mô hình sinh kế bền vững ở Nghệ An
Trong khoảng hai thập niên qua, giới nghiên cứu
đã và đang quan tâm nhiều đến vấn đề sinh kế và xóa
đói giảm nghèo ở Việt Nam. Theo Murray (2002):
“Trong nghiên cứu phát triển nông thôn và giảm
nghèo, vấn đề sinh kế và sinh kế bền vững đã trở
thành mục tiêu phân tích ở cả cấp vĩ mô và vi mô,
theo ba hướng tiếp cận chính, đó là các tiếp cận
đồng đại, các tiếp cận lịch đại và những tiếp cận
hướng tới tương lai” (Dẫn theo Nguyễn Văn Sửu,
2015, tr.15). Trong thời đại phát triển bền vững,
những nghiên cứu về sinh kế cũng hướng theo khung
sinh kế bền vững. Sinh kế bền vững được hiểu là
tổng thể các điều kiện tự nhiên, văn hóa, con người,
kinh tế, xã hội, chính sách, thông tin để cộng đồng
sinh tồn và phát triển nhằm hướng tới phát triển ổn
định và bền vững. Khung sinh kế bền vững được một
số nhà nghiên cứu coi là “một cách tiếp cận toàn
diện về các vấn đề phát triển thông qua việc nhấn
mạnh đến việc thảo luận về sinh kế của con người
và đói nghèo trong các bối cảnh khác nhau”
(Nguyễn Văn Sửu, 2015, tr.15).
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hướng tới mô hình sinh kế bền vững ở Nghệ An
HOẠT ĐỘNG KH-CN Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 9/2017 [10] n Bùi Minh Hào(*) 1. Khung sinh kế bền vững Trong khoảng hai thập niên qua, giới nghiên cứu đã và đang quan tâm nhiều đến vấn đề sinh kế và xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam. Theo Murray (2002): “Trong nghiên cứu phát triển nông thôn và giảm nghèo, vấn đề sinh kế và sinh kế bền vững đã trở thành mục tiêu phân tích ở cả cấp vĩ mô và vi mô, theo ba hướng tiếp cận chính, đó là các tiếp cận đồng đại, các tiếp cận lịch đại và những tiếp cận hướng tới tương lai” (Dẫn theo Nguyễn Văn Sửu, 2015, tr.15). Trong thời đại phát triển bền vững, những nghiên cứu về sinh kế cũng hướng theo khung sinh kế bền vững. Sinh kế bền vững được hiểu là tổng thể các điều kiện tự nhiên, văn hóa, con người, kinh tế, xã hội, chính sách, thông tin để cộng đồng sinh tồn và phát triển nhằm hướng tới phát triển ổn định và bền vững. Khung sinh kế bền vững được một số nhà nghiên cứu coi là “một cách tiếp cận toàn diện về các vấn đề phát triển thông qua việc nhấn mạnh đến việc thảo luận về sinh kế của con người và đói nghèo trong các bối cảnh khác nhau” (Nguyễn Văn Sửu, 2015, tr.15). HƯỚNG TỚI MÔ HÌNH SINH KẾ BỀN VỮNG Ở NGHỆ AN C ông cuộc Đổi mới (1986) đã đưanền kinh tế Việt Nam chuyểnmình theo một hướng mới. Sự phát triển của kinh tế thị trường đã làm thay đổi các mô hình sinh kế, qua đó tác động mạnh mẽ đến văn hóa cộng đồng. Nghiên cứu và đánh giá các mô hình sinh kế được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và xem đó là một cách để tiếp cận sự thay đổi về văn hóa cộng đồng và văn hóa dân tộc. Cũng như các địa phương khác trong cả nước, Nghệ An bắt nhịp với sự phát triển kinh tế thị trường khá sớm và đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, sự phát triển đó có tính bền vững hay chưa thì vẫn cần phải trao đổi thêm nhiều. Theo đó, bài viết này muốn góp phần thảo luận thêm về sự phát triển ở Nghệ An theo hướng sinh kế bền vững. Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 9/2017 [11] HOẠT ĐỘNG KH-CN Nhìn chung, khái niệm sinh kế bền vững (Sustainable livelihood) bắt nguồn từ những nghiên cứu trong lĩnh vực xóa đói giảm nghèo ở các nước, các vùng kém phát triển. Qua phân tích nhiều mô hình sinh kế, các nhà nghiên cứu đưa ra thảo luận nhằm tìm ra một khung sinh kế bền vững. Sau đó, Bộ Phát triển Quốc tế Anh (Department for Internatinal De- velopment - DFID) đã tổng hợp và đưa ra khung sinh kế bền vững vào cuối thập niên 90 của thế kỷ XX. Khung sinh kế của DFID đã được các nhà nghiên cứu trong tổ chức này mở rộng, phát triển và dần phổ biến rộng rãi trong giới nhân học (Nguyễn Văn Sửu, 2015, 16). Nội dung chủ đạo của khung sinh kế bền vững là “lấy con người và sinh kế của họ làm trung tâm để phân tích, nghĩa là đặt con người ở trung tâm của sự phát triển” (Nguyễn Văn Sửu, 2015, tr.17). Khung sinh kế này đề cập đến các thành tố hợp thành sinh kế của con người, từ các ưu tiên và chiến lược, họ lựa chọn để thực hiện các ưu tiên của mình; các chính sách ảnh hưởng đến cách tiếp cận của họ, khả năng sử dụng các loại vốn và môi trường sống quanh họ. Trong phân tích khung sinh kế bền vững, các nhà nghiên cứu đã tập trung vào các loại vốn, trong đó chủ yếu là năm loại vốn gồm có: vốn vật chất (cơ sở hạ tầng, hàng hóa...), vốn tài chính (nguồn lực tài chính để sử dụng), vốn xã hội (quan hệ xã hội, mạng lưới, niềm tin, nhóm thành viên...), vốn con người (tri thức, kỹ năng làm việc, sức khỏe...) và vốn tự nhiên (đất đai, rừng, nước, nguyên liệu...). Và hiện nay, những nghiên cứu về sinh kế bền vững ở Việt Nam đang tập trung vào việc tranh luận về các loại vốn này và vai trò của các loại vốn (Nguyễn Văn Sửu, 2015). Một vấn đề quan trọng mà khung sinh kế bền vững trên chưa nhấn mạnh hay chưa đề cập đúng vai trò của nó là vốn văn hóa. Đối với các cộng đồng, vốn văn hóa giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong phát triển. Nếu phân tích sinh kế của một cộng đồng mà bỏ qua hay coi trọng chưa đúng mức vốn văn hóa thì sẽ là một thiếu sót khó chấp nhận được. Vậy nên trong phân tích khung sinh kế, cần phải phân tích vai trò của 6 loại vốn của cộng đồng mới có cái nhìn toàn diện hơn và sâu sắc hơn. 2. Phân tích mô hình sinh kế ở Nghệ An theo khung sinh kế bền vững Từ khung sinh kế bền vững đã nói ở trên, chúng ta có thể phân tích các mô hình sinh kế ở Nghệ An qua các loại vốn. Khái niệm “vốn” (Capital) sử dụng ở đây được hiểu như là một nhóm các yếu tố tác động đến mô hình sinh kế của một cộng đồng người. Vốn tự nhiên (Natural Capital): là các nguồn lực tự nhiên phục vụ đời sống sinh hoạt và sản xuất của con người. Tự nhiên Nghệ An đa dạng và cũng phức tạp, có vùng đồi núi trập trùng ở phía Tây, vùng trung du trải dài, vùng đồng bằng ven biển và vùng biển. Vốn tự nhiên quan trọng nhất ở đây là đất đai, rừng, hệ thống sông suối và nước ngầm, hệ thống sinh vật đa dạng, các loại khoáng sản, biển... Tuy nhiên, việc phát huy các nguồn vốn tự nhiên trong phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An là vấn đề cần thảo luận nhiều. Trư ... hát triển nhưng có nguồn vốn con người. Đó là những con người cụ thể cộng đồng, những tộc người đang sinh sống ở đây và tham gia hàng ngày vào quá trình phát triển. Vậy nên, cần thấy được con người Nghệ An cũng đa dạng về mặt dân tộc, văn hóa. Ngoài người Kinh sinh sống chủ yếu ở vùng trung du, đồng bằng và ven biển cùng một số vùng miền núi mới di cư lên, thì Nghệ An còn có hàng chục các nhóm tộc người khác sinh sống ở vùng miền núi như Thái, Khơ mú, Hmông, Thổ Tương ứng với các cộng đồng tộc người là các thiết chế xã hội và các nền văn hóa riêng. Tất cả những con người, những tộc người này đều là vốn con người của Nghệ An. Vậy nên cần nhận thức cụ thể về từng nhóm người, từng tộc người để phát huy sức mạnh của họ trong quá trình phát triển. Mỗi cộng đồng đều có những thế mạnh riêng với những kinh nghiệm, đặc tính khác nhau nên nếu phát huy được điểm mạnh thì đó là một động lực quan trọng cho sự phát triển và ngược lại. Tư duy phát triển lấy người Kinh làm trung tâm đang có nhiều vấn đề. Đưa những kinh nghiệm, kỹ năng của người Kinh lên để dạy cho các dân tộc khác ở vùng miền núi trong phát triển kinh tế là không hợp lý. Các cộng đồng này hàng trăm năm nay sinh sống ở đây và họ có kinh nghiệm trong khai thác tự nhiên cũng như phát triển các phương thức, mô hình sinh kế thích hợp. Không thể yêu cầu họ phát triển công nghiệp hay các ngành dịch vụ vốn quá xa lạ với họ với mục tiêu là đưa đồng bào phát triển kịp với người Kinh. Mặt khác, khi người Kinh di cư lên miền núi và sử dụng cách thức của mình khai thác tự nhiên sẽ ảnh hưởng nhiều đến các Khai thác bừa bãi nguồn lợi tự nhiên đang là vấn đề quan trọng của Nghệ An Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 9/2017 [13] HOẠT ĐỘNG KH-CN nguồn tài nguyên này. Phần lớn rừng bị chặt phá, sông suối ô nhiễm hay sự khai thác vô tổ chức các tài nguyên ở miền núi đều do người Kinh thực hiện. Bên cạnh đó, cũng cần nhìn nhận một điều là việc sử dụng nguồn lực con người ở vùng đồng bằng chưa hẳn hợp lý. Những đặc trưng đáng tự hào về người Nghệ đã nêu trên, chủ yếu nói về người Kinh vùng xuôi. Nhưng những con người như vậy đã thật sự được phát huy trong quá trình phát triển hay chưa? Người Nghệ đỗ đạt rất nhiều và có uy tín trong các cơ quan đào tạo cũng như công tác. Nhưng những người đỗ đạt quay về công tác ở quê hương rất ít và số thành công lại càng ít hơn. Tại sao lại có những nghịch lý trớ trêu như vậy? Phải chăng trong hoạch định phát triển của tỉnh nhà đã bỏ qua nguồn vốn con người, hay đúng hơn là chưa coi trọng đúng mức nguồn vốn này trong sự phát triển. Vốn văn hóa (Cultural Capital): bao gồm một hệ thống biểu hiện như giá trị, chuẩn mực, biểu tượng, tri thức, ngôn ngữ dân tộc, phong tục tập quán, trang phục, ẩm thực... Nghệ An có một nguồn vốn văn hóa đa dạng được phân biệt bởi hệ thống giá trị văn hóa của các dân tộc khác nhau, các vùng và địa phương khác nhau. Ở đó có văn hóa vùng cao của các dân tộc ở miền núi phía Tây, văn hóa của người Kinh ở vùng trung du và đồng bằng, văn hóa biển của cộng đồng người Kinh sống ven biển Là vùng đất từng có một thời gian dài trong lịch sử là nơi tiếp giáp, giao thoa của nhiều nền văn hóa: văn hóa Đại Việt từ ngoài Bắc vào, văn hóa Champa từ phía Nam, văn hóa núi với văn hóa biển nên Nghệ An tích hợp được một vốn văn hóa phong phú. Truyền thống hiếu học và truyền thống cách mạng là những yếu tố thu hút đối với văn hóa xứ Nghệ. Vốn văn hóa đa dạng là một thế mạnh để phát triển, đồng thời cũng là một thách thức trong phát triển bền vững kinh tế với bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các tộc người, các địa phương. Việc phát huy các giá trị văn hóa trong kinh tế thị trường là một vấn đề khó trong khi tác động của thị trường đến văn hóa lại rất nhanh chóng và mạnh mẽ. Vậy nên nhận thức và lựa chọn những yếu tố nào trong vốn văn hóa để kích thích phát triển kinh tế và bảo tồn giá trị, bản sắc văn hóa còn cần nhiều nghiên cứu và thảo luận để đưa ra những chính sách hiệu quả và hợp lý. Vốn xã hội (Social capital): Người Nghệ có một vốn xã hội rộng lớn và đa dạng. Thể hiện “sự giàu có” về nguồn vốn xã hội của người Nghệ là họ có một mạng lưới quan hệ rộng lớn ở gần như mọi vùng miền khắp cả nước. Người Nghệ từ quê đi ra khắp nơi sinh sống nhưng luôn giữ mối liên hệ mật thiết với quê hương và với các cộng đồng, các nhóm cùng quê sống gần với họ. Mạng lưới quan hệ xã hội này cho phép họ hoạt động trên nhiều lĩnh vực và có sự hỗ trợ hợp tác với nhau chặt chẽ. Mạng lưới này cũng giúp người Nghệ tiếp cận các điều kiện phát triển mới hơn và tiếp cận thị trường lao động cũng như thị trường hàng hóa nhanh hơn. Các hội đồng hương Nghệ An rải khắp các địa phương, đặc biệt là các đô thị lớn là cầu nối để người Nghệ vươn ra nhiều nơi lập nghiệp (Bùi Minh Hào, 2014). Tuy nhiên, tính cục bộ hay tính cố kết cộng đồng của người Nghệ nhiều khi cũng ảnh hưởng đến quá trình phát triển của họ. Tâm lý đám đông và sự tự tôn quá mức trở thành một rào cản lớn cho việc tiếp cận thị trường và tiếp cận các quy trình sản xuất hiện đại mà người Nghệ mong muốn vươn ra. Vốn vật chất (Physical capital): được hiểu là các điều kiện vật chất, cơ sở hạ tầng phục vụ cho sự phát triển, là một nguồn vốn quan trọng để phát triển kinh tế thị trường. Khi các cơ sở hạ tầng và các loại sản phẩm hàng hóa không được phát triển và nâng cấp thì việc tiếp cận thị trường thêm khó khăn. Vốn vật chất ở Nghệ An trong nhiều năm qua đã được đầu tư và xây dựng nhiều. Các tuyến đường huyết mạch được sửa sang, mở rộng và nâng cấp, tạo điều kiện cho giao thông thuận lợi hơn. Các đường nối liền các địa phương trong tỉnh cũng được đầu tư xây dựng. Nhìn chung, hệ thống giao thông các cấp được cải tạo và nâng cấp hơn, điều kiện giao thông giữa các vùng, địa phương trở nên thuận lợi hơn. Bên cạnh đó là sự nâng cấp các yếu tố khác như đường điện, hệ thống cơ sở vật chất cho y tế, giáo dục và hệ thống chợ được đầu tư nhiều hơn. Điều đó thể hiện nguồn vốn vật chất được tăng cường đáng kể. Tuy nhiên, sự đầu tư đó chưa đáp ứng được điều kiện phát triển. Vốn vật chất thiếu đồng bộ, trong khi vùng đồng bằng, ven biển có cơ sở hạ tầng tốt hơn thì vùng miền núi phía Tây vẫn còn gặp nhiều khó khăn, yếu kém. Nhiều dự án để cải tạo vốn vật chất được thực hiện nhưng hiệu quả thấp. Điều kiện để phát triển kinh tế thị trường là HOẠT ĐỘNG KH-CN Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 9/2017 [14] cơ sở vật chất và điều kiện vật chất ở khu vực nông thôn, miền núi hạn chế nên khả năng tiếp cận thị trường của người dân cũng khó khăn hơn. Trong khi đó, việc đầu tư hạ tầng cũng manh mún, thiếu chiến lược và theo phong trào, sự kiện làm cho quy hoạch phát triển càng thêm khó khăn, kém hiệu quả hơn. Vốn tài chính (Financial capital): là một cụ thể hóa nguồn vốn kinh tế (Economical Capital), là nguồn vốn để con người đầu tư vào phát triển kinh tế. Ngoài nguồn vốn tự huy động của người dân trong tỉnh thì Nghệ An còn nhận được một nguồn vốn tài chính từ con em ở xa quê gửi về tái đầu tư để kiến thiết quê hương (Bùi Minh Hào, 2014). Tuy nhiên, vốn tài chính vẫn là một điểm yếu trong phát triển sinh kế của người Nghệ, đặc biệt là người dân vùng miền núi phía Tây. Sự yếu kém về vốn tài chính làm cho kinh tế thiếu sức đầu tư lớn, thiếu những tập đoàn, công ty lớn để làm đầu kéo cho kinh tế tỉnh nhà. Nhưng có thể coi đó là hạn chế chung cả cả nước chứ không của riêng Nghệ An. Vấn đề là nhận thức và sử dụng nguồn vốn này như thế nào? Bao nhiêu năm cơ chế xin cho đã ảnh hưởng nhiều đến tư duy về tài chính của con người ở đây. Sự đầu tư tài chính cho phát triển kinh tế khác với cứu trợ tài chính cho đối tượng chính sách. Nó cần tập trung nguồn vốn để phát triển một ưu thế của một vùng, một địa phương hay một bộ phận của tộc người. Không thể dàn trải, cào bằng tài chính để phát triển kinh tế như một chính sách hỗ trợ người dân. Sự tiếp cận thị trường là sự phát triển năng lực cá nhân của một bộ phận trong cộng đồng nên cần đầu tư, hỗ trợ cho nhóm này phát triển, đồng thời cứu trợ cho những nhóm yếu thể để có điều kiện vươn lên. Một chính sách tài chính tối ưu là phân loại được các hạng mục và các đối tượng cụ thể để đầu tư. Việc này thì Nghệ An chưa làm tốt, chủ yếu vẫn là đầu tư mang tính gia đình, do nội lực và thiếu định hướng, thiếu hỗ trợ từ nhà nước. 3. Hướng tới xây dựng một mô hình sinh kế bền vững ở Nghệ An Trước hết, cần khẳng định rằng sẽ không thể có một mô hình sinh kế bền vững chung cho mọi cộng đồng. Những phân tích này mong muốn hướng đến những nguyên tắc chung, điều kiện chung cho việc xây dựng một các mô hình sinh kế tối ưu và khả dụng trong quá trình phát triển. Như vậy, một mô hình sinh kế mang tính bền vững là một mô hình sinh kế có sự phù hợp và linh động trong những biến đổi bất ngờ của điều kiện tự nhiên, sự biến đổi của thị trường và cả những biến đổi xã hội nhất định. Hướng đến một khung sinh kế bền vững cần nhận thức rõ về quá trình phát triển. Ai phát triển và phát triển cho ai là một câu hỏi quan trọng trong quá trình nhận thức và thực hành vấn đề này. Trong nhiều năm thực hiện cơ chế xin - cho, quan điểm người Kinh đi xây dựng và giúp đồng bào miền núi phát triển gây nên nhiều hậu quả nghiêm trọng đến các nguồn vốn. Hay việc các nhà quản lý độc quyền trong hoạch định đường lối, mô hình phát triển, xem đây là việc của giới quản lý chuyên nghiệp mà xa lánh ý kiến tham vấn của cộng đồng chủ thể hay nhà khoa học cũng gây ra nhiều hạn chế. Khi bắt đầu một dự án xây dựng mô hình sinh kế mới mang tính bền vững cần phải có một sự phân tích từ các bên liên quan thật sự sâu sắc và rõ ràng, để nhận dạng rõ những phía liên quan trong quá trình khám phá đó và lợi ích, tác động khi thực hiện dự án để tránh những hậu quả, những hạn chế của nhận thức chủ quan và hẹp hòi (Hà Hữu Nga, 2010a). Khi trực tiếp xây dựng mô hình sinh kế mới có tính bền vững, cần phải lấy ý kiến “tham vấn cộng đồng”, để những người dân là chủ thể của mô hình sinh kế đó tham gia và góp phần quyết định việc xây dựng mô hình sinh kế của họ. Họ là người đề bạt nguyện vọng Mô hình ớt cay xuất khẩu tạo sinh kế hiệu quả cho người dân xã Lục Dạ (Con Cuông) Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 9/2017 [15] HOẠT ĐỘNG KH-CN và là người nhận lợi ích cũng như chịu mọi tác động từ mô hình sinh kế đó (Hà Hữu Nga, 2010b). Như vậy, trong quá trình hoạch định chiến lược phát triển sinh kế ở Nghệ An cần nhấn mạnh quan điểm phân vùng nhỏ và gắn các mục tiêu chủ chốt theo lợi thế và vị thế của từng vùng, không đặt mục tiêu kinh tế, thu nhập lên tất cả các vùng. Có vùng phát triển để làm kinh tế, có vùng phát triển để bảo tồn và có vùng phát triển để bảo vệ. Để tiến hành xây dựng các mô hình sinh kế hợp lý cho từng vùng nhỏ, từng địa phương cần thống nhất chung là đặt vị trí của con người, cụ thể là chủ thể của các cộng đồng làm trung tâm, làm chủ quá trình phát triển. Để họ đóng vai trò quyết định trong việc lựa chọn con đường và phương pháp sinh tồn trong điều kiện của họ. Phân tích mô hình sinh kế ở Nghệ An trên đây cho thấy một điều thật khó để phát triển cả 6 loại vốn cùng một lúc cho một cộng đồng theo khung sinh kế bền vững. Trong khi mỗi một cộng đồng, một địa phương có những lợi thế nhất định về các nguồn vốn, đồng thời cũng có những hạn chế đến từ các nguồn vốn đó. Vậy nên, mô hình có đầy đủ cả 6 nguồn vốn phục vụ phát triển là mơ ước, còn việc cần làm là tạo khung chính sách sao cho để khắc phục những hạn chế về các nguồn vốn trong quá trình phát triển. Có các nguồn vốn chưa đủ mà cần sử dụng nguốn vốn đó sao cho hợp lý và hiệu quả. Quá trình phát triển kinh tế thị trường cũng gây sức ép thật sự lên môi trường và văn hóa của các cộng đồng. Sự Kinh hóa văn hóa, thương mại hóa văn hóa và sự quá tải của môi trường là điều cần bàn đến trong một mô hình sinh kế. Muốn hạn chế điều này cần phải thúc đẩy nội lực của chính chủ thể phát triển, trả lại các nguyên liệu sản xuất, phương tiện sản xuất cho người dân để họ có quyền sở hữu và sử dụng trong quá trình phát triển của mình. Quan trọng nữa là cần chú trọng phát triển con người. Cần đưa họ về vị thế chủ thể của sự phát triển, làm cho họ trở lại như xưa, mạnh mẽ và kiên cường lao động. Đồng thời, đào tạo và giúp đỡ họ tiếp cận các kỹ năng, thông tin và tư duy mới về sự phát triển. Mọi việc đều hướng đến để họ làm chủ tất cả cuộc sống của họ chứ không phải biến họ từ lệ thuộc vào tự nhiên trở thành lệ thuộc vào người Kinh, lệ thuộc vào kỹ thuật và lệ thuộc vào thị trường. Nói tóm lại, một mô hình sinh kế mang tính bền vững cho Nghệ An phải là một mô hình được đầu tư cả 6 loại vốn mà khung sinh kế bền vững đưa ra, nhưng có độ thích ứng và cơ động trước các biến đổi của đời sống kinh tế thị trường, tự nhiên và cả lịch sử xã hội. Trong mô hình đó, con người là trung tâm, làm chủ các loại vốn phát triển và làm chủ chiến lược phát triển cũng như làm chủ hoàn toàn cuộc sống của họ. Để hướng đến một mô hình như vậy, có lẽ còn cần nhiều thời gian và nhiều nỗ lực của rất nhiều phía tham gia vào công cuộc phát triển./. (*) Thạc sĩ, Nghiên cứu sinh Khoa Nhân học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Tài liệu tham khảo: 1. Bùi Minh Hào (2014), “Biến đổi văn hóa ở các cộng đồng sống xa quê hương: trường hợp người Nghệ ở Hà Nội”, Tạp chí Văn hóa Nghệ An, số 277, ngày 25/9/2014. 2. Ellis, Frank (1993), “Peasants Economics: Farm House- holds and Agrarian Devolopment”, 2ndEdition, Cambridge Uni- versity Press. 3. Hà Hữu Nga (2010a), “Phân tích các bên liên quan trong các dự án lớn và các chương trình trợ giúp phát triển”, Tài liệu tập huấn cho dự án của Ngân hàng Thế giới (World Bank) tại Hà Nội. 4. Hà Hữu Nga (2010b), “Tham vấn cộng đồng trong các dự án phát triển”, Tài liệu tập huấn cho dự án của Ngân hàng Thế giới (World Bank) tại Hà Nội. 5. Nguyễn Đình Lộc, “Các dân tộc thiểu số ở Nghệ An”, Nxb Nghệ An, 1993. 6. Nguyễn Văn Sửu (2014), “Công nghiệp hóa, đô thị hóa và biến đổi sinh kế ở ven đô Hà Nội”, Nxb Tri thức, Hà Nội. 7. Nguyễn Văn Sửu (2015), “Khung sinh kế bền vững: một cách phân tích toàn diện về phát triển và giảm nghèo”, In trong “Nhân học phát triển: lich sử, lý thuyết và công cụ thực hành”, Nxb Tri thức, Hà Nội, trang 15-33. 8. Nguyễn Duy Thắng (2007), “Sử dụng vốn xã hội trong chiến lược sinh kế của nông dân ven đô Hà Nội dưới tác động của đô thị hóa”, Tạp chí Xã hội học, số 4, trang 37-47. 9. Neefies, Koos (2008), “Môi trường và sinh kế: các chiến lược phát triển bền vững”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 10. James C. Scott (1976), “The Moral Economy of the Peasant: Rebellion and Subsistence in Southeast Asia”, Yale Univ Pr. USA. 11. Tô Duy Hợp (2006),“Biến đổi tam nông: một số vấn đề lý luận cơ bản”, Bài tham luận tại Hội thảo khoa học “Biến đổi xã hội nông thôn Việt Nam dưới tác động của đô thị hóa, tích tụ ruộng đất và chính sách dồn điền đổi thửa: những vấn đề lý luận, thực trạng và giải pháp”.
File đính kèm:
- huong_toi_mo_hinh_sinh_ke_ben_vung_o_nghe_an.pdf