Học phí, chất lượng, cạnh tranh và công bằng xã hội

Tự chủ đại học Việt Nam từ thí điểm vào năm 2014 cho đến nay đã có nhiều

tiến bộ, với kinh nghiệm thí điểm cơ chế hoạt động mới của các trường đã được đúc

kết trong Luật 34 hiệu lực từ tháng 7/2019 cùng với Nghị định 99 vừa mới ban hành.

Mức độ tự chủ đang dần nâng cao theo các nước tiên tiến, trong đó có tự chủ tài chính

mà đặc biệt là việc tự chủ học phí. Học phí là một nội dung quan trọng tại Việt Nam vì

hơn 80% thu của hệ thống đại học chủ yếu từ nguồn này. Nếu bỏ qua các trường đại

học có yếu tố quốc tế hoặc tư thục, thì hệ thống đại học công lập Việt Nam có hai

nhóm trường khác nhau về cách thu học phí, một nhóm tự chủ theo từng đề án thí

điểm riêng biệt dưới Nghị quyết 77 của Chính phủ, và nhóm đa số còn lại tuân thủ quy

định học phí của Nghị định 86 năm 2015 của Chính phủ.

Về cơ bản hệ thống đại học công lập Việt Nam vẫn chưa triển khai kịp thời tự

chủ học phí theo tinh thần Luật 34. Luật 34, Nghị định 99 và Thông tư 14/2019/TTBGDĐT coi học phí là giá dịch vụ đào tạo được tính đúng tính đủ theo định mức kinh

tế-kỹ thuật (gọi tắt định mức KTKT), được hiểu là lượng tiêu hao lao động, thiết bị,

vật tư để hoàn thành chương trình đào tạo cho một người học. Tuy nhiên, theo khảo sát

mới nhất của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên & Nhi đồng (gọi tắt

UBVHGD), vẫn có những trường chưa thu học phí đảm bảo định mức KTKT, hoặc

thậm chí chưa tính toán học phí theo định mức. Quan trọng hơn, chúng tôi quan sát

rằng việc thu học phí hiện nay chủ yếu hướng đến tồn tại (dựa vào tính đúng tính đủ

định mức KTKT) chứ chưa có yếu tố phát triển; điều này thể hiện một phần qua việc

các trường tự chủ theo từng đề án thí điểm dưới Nghị quyết 77 thì vẫn thu học phí theo

lộ trình đề án, còn các trường tuân thủ Nghị định 86 chỉ mới đảm bảo chi thường

xuyên. Đằng sau vấn đề tính đúng tính đủ định mức KTKT và yếu tố phát triển, chúng

tôi nhận thấy việc tự chủ học phí có hai thách thức nền móng cần chú ý trước tiên. Thứ

nhất, việc đảm bảo định mức và phát triển cho hoạt động đào tạo phải có sự hỗ trợ Nhà

nước, do đào tạo là một dịch vụ có ngoại tác tích cực với kinh tế, xã hội. Sự hỗ trợ Nhà

nước sẽ giúp phát huy tính tính cực của giáo dục đại học, đảm bảo tính công bằng

trong tiếp cận giáo dục đại học, cũng như tạo đột phá theo ngành hoặc vùng miền. Kế

đến, việc đo lường hiệu quả của giáo dục đại học và qua đó là hiệu quả học phí sẽ chủ

yếu thiên về chất lượng, nhưng chất lượng là một khái niệm không thể đo lường định

lượng dựa vào các định mức KTKT cụ thể.

Học phí, chất lượng, cạnh tranh và công bằng xã hội trang 1

Trang 1

Học phí, chất lượng, cạnh tranh và công bằng xã hội trang 2

Trang 2

Học phí, chất lượng, cạnh tranh và công bằng xã hội trang 3

Trang 3

Học phí, chất lượng, cạnh tranh và công bằng xã hội trang 4

Trang 4

Học phí, chất lượng, cạnh tranh và công bằng xã hội trang 5

Trang 5

Học phí, chất lượng, cạnh tranh và công bằng xã hội trang 6

Trang 6

Học phí, chất lượng, cạnh tranh và công bằng xã hội trang 7

Trang 7

Học phí, chất lượng, cạnh tranh và công bằng xã hội trang 8

Trang 8

Học phí, chất lượng, cạnh tranh và công bằng xã hội trang 9

Trang 9

Học phí, chất lượng, cạnh tranh và công bằng xã hội trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang baonam 03/01/2022 7580
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Học phí, chất lượng, cạnh tranh và công bằng xã hội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Học phí, chất lượng, cạnh tranh và công bằng xã hội

Học phí, chất lượng, cạnh tranh và công bằng xã hội
 541 
HỌC PHÍ, CHẤT LƯỢNG, CẠNH TRANH VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI 
Nguyễn Trọng Hoài 
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh 
Trần Bá Linh 
King’s College London và Cardiff University 
1. Giới thiệu 
Tự chủ đại học Việt Nam từ thí điểm vào năm 2014 cho đến nay đã có nhiều 
tiến bộ, với kinh nghiệm thí điểm cơ chế hoạt động mới của các trường đã được đúc 
kết trong Luật 34 hiệu lực từ tháng 7/2019 cùng với Nghị định 99 vừa mới ban hành. 
Mức độ tự chủ đang dần nâng cao theo các nước tiên tiến, trong đó có tự chủ tài chính 
mà đặc biệt là việc tự chủ học phí. Học phí là một nội dung quan trọng tại Việt Nam vì 
hơn 80% thu của hệ thống đại học chủ yếu từ nguồn này. Nếu bỏ qua các trường đại 
học có yếu tố quốc tế hoặc tư thục, thì hệ thống đại học công lập Việt Nam có hai 
nhóm trường khác nhau về cách thu học phí, một nhóm tự chủ theo từng đề án thí 
điểm riêng biệt dưới Nghị quyết 77 của Chính phủ, và nhóm đa số còn lại tuân thủ quy 
định học phí của Nghị định 86 năm 2015 của Chính phủ. 
Về cơ bản hệ thống đại học công lập Việt Nam vẫn chưa triển khai kịp thời tự 
chủ học phí theo tinh thần Luật 34. Luật 34, Nghị định 99 và Thông tư 14/2019/TT-
BGDĐT coi học phí là giá dịch vụ đào tạo được tính đúng tính đủ theo định mức kinh 
tế-kỹ thuật (gọi tắt định mức KTKT), được hiểu là lượng tiêu hao lao động, thiết bị, 
vật tư để hoàn thành chương trình đào tạo cho một người học. Tuy nhiên, theo khảo sát 
mới nhất của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên & Nhi đồng (gọi tắt 
UBVHGD), vẫn có những trường chưa thu học phí đảm bảo định mức KTKT, hoặc 
thậm chí chưa tính toán học phí theo định mức. Quan trọng hơn, chúng tôi quan sát 
rằng việc thu học phí hiện nay chủ yếu hướng đến tồn tại (dựa vào tính đúng tính đủ 
định mức KTKT) chứ chưa có yếu tố phát triển; điều này thể hiện một phần qua việc 
các trường tự chủ theo từng đề án thí điểm dưới Nghị quyết 77 thì vẫn thu học phí theo 
lộ trình đề án, còn các trường tuân thủ Nghị định 86 chỉ mới đảm bảo chi thường 
xuyên. Đằng sau vấn đề tính đúng tính đủ định mức KTKT và yếu tố phát triển, chúng 
tôi nhận thấy việc tự chủ học phí có hai thách thức nền móng cần chú ý trước tiên. Thứ 
nhất, việc đảm bảo định mức và phát triển cho hoạt động đào tạo phải có sự hỗ trợ Nhà 
nước, do đào tạo là một dịch vụ có ngoại tác tích cực với kinh tế, xã hội. Sự hỗ trợ Nhà 
nước sẽ giúp phát huy tính tính cực của giáo dục đại học, đảm bảo tính công bằng 
trong tiếp cận giáo dục đại học, cũng như tạo đột phá theo ngành hoặc vùng miền. Kế 
đến, việc đo lường hiệu quả của giáo dục đại học và qua đó là hiệu quả học phí sẽ chủ 
yếu thiên về chất lượng, nhưng chất lượng là một khái niệm không thể đo lường định 
lượng dựa vào các định mức KTKT cụ thể. 
Trước bối cảnh và các thách thức nêu trên, chúng tôi gửi tham luận này đến 
UBVHGD với bốn mục tiêu chính. Thứ nhất, tham luận soi xét vấn đề chất lượng ở 
cấp độ lí luận, và chứng minh rằng học phí phải phản ảnh thực chất chất lượng đào tạo, 
đi kèm mô tả một quy trình đánh giá chất lượng đầu ra theo thông lệ quốc tế. Thứ hai, 
tham luận sẽ bàn về tính cạnh tranh và công bằng xã hội trong học phí. Thứ ba, chúng 
tôi đưa ra một số giải pháp ngắn hạn và dài hạn để thúc đẩy thực hiện tự chủ học phí. 
 542 
Bao trùm cả tham luận, chúng tôi trân trọng gởi thông điệp rằng tự chủ đại học trong 
đó có học phí là một bước đi đúng đắn để phát triển đại học, nhưng sự hỗ trợ Nhà 
nước là luôn cần thiết. 
Tham luận này thể hiện góc nhìn theo tiếp cận tình huống, dựa vào quan sát của 
chúng tôi từ Nghiên cứu đề xuất các giải pháp đẩy mạnh quốc tế hóa giáo dục Việt 
Nam, mã số: KHGD/16-20.ĐT.018 thuộc Chương trình Khoa học và công nghệ cấp 
quốc gia giai đoạn 2016-2020, và kết quả khảo sát học phí gần đây nhất do UBVHGD 
thực hiện. Chúng tôi cũng tham khảo một số tài liệu về học phí của Quốc hội và Chính 
phủ Anh Quốc và Úc. Chúng tôi tham khảo hai quốc gia này vì (1) họ có hệ thống đại 
học thành công, được xây dựng kết hợp giữa tự chủ và hỗ trợ nhà nước; (2) sự tự chủ 
học phí của họ có tính đến công bằng xã hội cho nhóm yếu thế. Mỹ cũng là một đất 
nước đáng tham khảo về tự chủ học phí, nhưng do tính chất phức tạp về hành chính – 
50 bang có cách quản lí đại học riêng, nên có lẽ Mỹ sẽ phù hợp hơn với một tham luận 
dài hoặc một nghiên cứu sâu. Do tham luận này chỉ dựa trên cơ sở hai quốc gia 
phương Tây có lịch sử văn hóa và chính trị liên quan với nhau, nên chúng tôi kêu gọi 
thêm nhiều góc nhìn tham luận khác, và đặc biệt là những nghiên cứu diện rộng. 
2. Cơ sở tự chủ học phí: Tính mục đích, giá trị, chất lượng và thị trường 
Kết quả khảo sát học phí của UBVHGD có chỉ ra các bất cập trong việc tính 
học phí đại học Việt Nam, mà một nguyên nhân là khoa học về tài chính đại học chưa 
được chú trọng. Chúng tôi đồng tình với kết luận này, nhưng cho rằng có một nguyên 
nhân nền tảng hơn, đó là sự thiếu sót hoặc thiếu nhất quán về một triết lý cho mục đích 
thu học phí. Triết lý về m ... nh phần để cho 
ra cấp độ năng lực TEF (vàng, bạc, đồng) sơ khởi. Xin nhắc lại, tất cả các chỉ số sẽ 
được tính sẵn bởi Office for Students. Điểm quan trọng nhất của phân tích định lượng 
trong TEF đó là chỉ số chính và chỉ số thành phần phải được so sánh với benchmark, 
chứ tự thân giá trị của chúng không có ý nghĩa. Benchmark là mức kì vọng chất lượng 
của từng trường, tính bằng cách lấy sinh viên của trường đó áp vào toàn bộ hệ thống 
đại học và xem các trường khác trung bình đạt giá trị bao nhiêu cho từng chỉ số 
(phương pháp benchmark được công bố trên website của HESA). Tương tự các chỉ số, 
benchmark cũng được tính sẵn cho giám khảo. Vì đánh giá TEF là sự so sánh giữa giá 
trị thật với benchmark, nên TEF chỉ nói lên được một trường có vượt qua kì vọng và 
vượt qua đến cỡ nào, chứ nó không thể dùng để so sánh trường này với trường kia. 
Trong loại đánh giá thứ hai, mức năng lực sơ khởi sẽ được điều chỉnh dựa trên giải 
trình của trường và các chỉ số phụ. Giám khảo sẽ xem xét các yếu tố đặc biệt có thể 
ảnh hưởng đến chỉ số chính và chỉ số thành phần, và đồng thời để xác định những yếu 
tố thể hiện năng lực đào tạo nằm ngoài tẩt cả các chỉ số. Việc sử dụng các chỉ số phụ 
trong bước này cũng dựa trên benchmark. Để chuẩn bị cho TEF, các giám khảo sẽ 
được tập huấn về bộ tiêu chuẩn và cấp độ năng lực TEF, sử dụng dữ liệu từng chỉ số, 
và về bối cảnh đại học của các vùng trong Anh Quốc. Tập huấn cũng bao gồm đánh 
giá thử. 
Kết quả TEF sẽ được công bố trên website Office for Students, UCAS và 
Unistats4. Công bố cho từng trường gồm cấp độ năng lực TEF, báo cáo quá trình đánh 
giá, thông tin tiêu chuẩn, chỉ số, benchmark và dữ liệu đánh giá cho trường đó. Các 
trường chỉ được khiếu nại với lí do quy trình chấm đã không được tuân thủ hay có 
thông tin sai sự thật trong báo cáo quá trình đánh giá. 
4 Universities and Colleges Admissions Service (UCAS) là tổ chức vận hành việc nộp và xử lí đơn nhập học cử 
nhân tại Anh. Unistats, nay đổi tên thành Discover Uni, là một trang web chính phủ công bố thông tin thống 
kê về từng chương trình của từng trường, để giúp người dân chọn địa điểm học phù hợp. 
 548 
Có thể thấy TEF đặt ra nhiều vấn đề tiềm năng cho tự chủ học phí và tự chủ nói 
chung của đại học Việt Nam. Về ưu thế, một quy trình như TEF sẽ tạo cơ sở cho người 
học đối chiếu giữa chất lượng đào tạo và học phí, và giúp các nhà quản lí đại học, 
người làm chính sách theo dõi tình trạng chất lượng và học phí để ra quyết định phù 
hợp. Hơn nữa, vì TEF quan tâm chất lượng đào tạo của từng nhóm sinh viên, nên kết 
quả TEF có thể gián tiếp cải thiện công bằng xã hội thông qua việc định hướng giảm 
học phí và phát triển chất lượng cho các nhóm cụ thể. Nhược điểm của TEF là kết quả 
của nó không mang tính so sánh giữa các trường, nên sẽ khó để xác định tính cạnh 
tranh trong học phí. Tuy nhiên, do công bố TEF bao gồm báo cáo quá trình đánh giá 
của giám khảo, dữ liệu thô (trong đó quan trọng là giải trình của trường và thông tin 
‘cứng’ như việc làm, thu nhập), nên người học có thể tự mình đánh giá mức độ tương 
xứng chất lượng và học phí giữa nhiều trường. 
Việc áp dụng một quy trình như TEF tại Việt Nam không dễ. Một trở ngại rất 
lớn là chúng ta phải xây dựng một cơ sở dữ liệu đồ sộ về sinh viên (đang theo học lẫn 
ra trường) và về các mặt hoạt động của trường đại học, đi kèm là khảo sát diện rộng 
mức độ hài lòng của sinh viên. Dù một số trường đã bắt đầu xây dựng các cơ sở dữ 
liệu này, họ làm theo cách riêng và chưa có liên thông với quản lí vĩ mô. Trở ngại lớn 
thứ hai là xây dựng và ban hành chính sách, cơ chế để áp dụng, hướng dẫn và giám sát 
một quy trình lớn như vậy. Cuối cùng, phải có chính sách, cơ chế để vừa giám sát việc 
tự chủ học phí thông qua quy trình này nhưng vừa tránh kiểm soát học phí để thực 
hiện tinh thần tự chủ đại học. Hiện nay ta chỉ mới quy định về việc đạt kiểm định làm 
điều kiện mở ngành, chứ chưa tính đến việc đánh giá đầu ra và gắn học phí với đánh 
giá đầu ra. 
4. Cạnh tranh và công bằng xã hội 
Gắn học phí với chất lượng đào tạo là điều cần thiết, nhưng đây chỉ mới là 
nguyên tắc chủ đạo để tự chủ học phí. Theo chúng tôi, cần có thêm hai nguyên tắc 
khác. Nguyên tắc bổ sung đầu tiên là học phí phải có tính cạnh tranh giữa các trường. 
Ở đây chúng tôi hiểu cạnh tranh không chỉ đơn giản là giảm học phí, mà cạnh tranh 
phải nằm ở tương quan chất lượng đào tạo với học phí, để người học nhận được giá trị 
nhiều nhất cho số tiền họ bỏ ra. Nói một cách đơn giản, học phí cạnh tranh không phải 
là học phí rẻ, mà là học phí rẻ so với chất lượng. Tính cạnh tranh là cần thiết vì ba lí 
do. Thứ nhất, cạnh tranh giúp nhà trường năng động, chú ý đến nhu cầu của thị trường 
hơn, tránh tình trạng đào tạo trong tháp ngà. Thứ hai, chúng tôi dự đoán các trường sẽ 
có xu hướng đa ngành trong bối cảnh tự chủ, và vì thế sự trùng lắp lĩnh vực đào tạo là 
khó tránh khỏi (hiện nay cũng đã tồn tại). Chủ động cạnh tranh, cộng với áp lực thị 
trường, sẽ là sự sàng lọc để các trường vừa không đầu tư dàn trải, vừa phát hiện ra thế 
mạnh của mình và từ đó phát huy. Hiện nay cơ cấu hệ thống đại học của ta đã có sẵn 
chuyên môn hóa, nhưng sự chuyên môn hóa này là di sản lịch sử hàng thập kỉ của quy 
hoạch từ trên xuống, nó ít cho các trường có cơ hội khám phá, cọ sát và phát huy năng 
lực tiềm tàng. Cuối cùng, sự năng động thích nghi với thị trường, cùng với chuyên 
môn hóa, sẽ là cơ sở để các trường tuyển sinh bền vững, chưa kể đến những gói đặt 
hàng nghiên cứu, chuyển giao công nghệ. Tuy nhiên, cạnh tranh chắc chắn sẽ có mặt 
tối. Các hình thức cạnh tranh không lành mạnh như quảng cáo dối, dùng tài nguyên 
vào các giá trị không thực chất (có thể nghĩ đến việc mua bài gần đây), hoặc dùng 
truyền thông tấn công đối thủ, đều sẽ có hậu quả lớn cho xã hội và làm mất uy tín Nhà 
nước. Chính vì vậy, ta cần có chính sách, cơ chế giám sát cạnh tranh. Một nhược điểm 
khác của cạnh tranh đó là, nếu ta chú ý vào vấn đề phân bổ ngành, thì có những ngành 
có chi phí đào tạo quá cao và sẽ cần học phí của các ngành khác bù qua, nếu không 
 549 
học phí của chúng sẽ quá khả năng thị trường (đây là bài toán đau đầu của những 
trường đơn ngành chi phí cao như Y Dược TP.HCM5). Chúng tôi dự đoán các trường 
sẽ có khuynh hướng không mở hoặc đóng những ngành chi phí cao để giữ tính cạnh 
tranh của các ngành còn lại và của tổng thể trường. Tuy nhiên, những ngành chi phí 
cao lại thường là các ngành khoa học tự nhiên, kĩ thuật hoặc y khoa, nên không thế 
thiếu cho sự phát triển đất nước. Vì lẽ nãy, cạnh tranh có thể dẫn tới một nền giáo dục 
đại học khiếm khuyết, và chúng tôi tin rằng cần có sự can thiệp của Nhà nước để tránh 
viễn cảnh trên. 
Nguyên tắc bổ sung còn lại của tự chủ học phí đó là đảm bảo công bằng xã hội. 
Việc học phí tương xứng với chất lượng và có tính cạnh tranh không có nghĩa rằng 
mọi sinh viên có năng lực đều trang trải được, đặc biệt nếu họ thuộc các nhóm yếu thế 
trong xã hội. Chính vì vậy, học phí nên được tính toán để tạo ra các khoản hỗ trợ các 
nhóm yếu thế, có thể là học bổng hoặc trợ giá. Dù vậy, công bằng xã hội là một vấn đề 
vĩ mô, nên chúng tôi cho rằng cần có sự vào cuộc Nhà nước. Về việc này, ta có thể lấy 
ví dụ từ nước Úc10. Tại Úc, Nhà nước trợ giá cho tất cả mọi sinh viên, nhưng mức trợ 
giá sẽ dao động tùy ngành, với các ngành có chi phí đào tạo cao và/hoặc triển vọng 
lương thấp sẽ được trợ giá cao. Mức trợ giá cho các ngành được thể hiện trong bảng 
dưới. 
Bảng 2. Mức trợ giá học phí Úc 
Ngành/Nhóm ngành 
Mức trả 
Chính phủ 
Học phí Tổng 
Phần trăm 
của học phí 
Luật, Kế toán, Quản trị, Kinh 
tế, Thương mại 
$1 990 $10 085 $12 075 83.5% 
Nhân văn $5 530 $6 044 $11 574 52.2% 
Toán, Xác suất thống kê, Xây 
dựng, Máy tính, Y tế công 
$9 782 $8 613 $18 395 46.8% 
Khoa học hành vi, Khoa học 
xã hội 
$9 782 $6 044 $15 826 38.2% 
Giáo dục $10 178 $6 044 $16 222 37.3% 
Tâm lí y khoa, Ngoại ngữ, 
Nghệ thuật biểu diễn 
$12 031 $6 044 $18 075 33.4% 
Allied health $12 031 $8 613 $20 644 41.7% 
Điều dưỡng $13 432 $6 044 $19 476 31.0% 
Kĩ thuật, Khoa học, Quan trắc 
đo đạc 
$17 104 $8 613 $25 717 33.5% 
Nha, Y khoa, Thú y $21 707 $10 085 $31 792 31.7% 
Nông lâm $21 707 $8 613 $30 320 28.4% 
5 Ngành Răng-Hàm-Mặt của Y Dược TP.HCM tăng học phí từ 13 lên 70 triệu/năm, một số ngành khác tăng lên 
50-70 triệu. Học phí mới chắn chắn sẽ gây khó khăn cho cả nhà trường, sinh viên và có thể dẫn đến thiếu bác 
sĩ cho xã hội. Rõ ràng trong trường hợp này cần có sự hỗ trợ Nhà nước. 
 550 
Ngoài trợ giá, người học Úc có thể vay để không phải trả học phí, và họ chỉ cần 
trả lại nếu thu nhập sau tốt nghiệp vượt quá một mức nào đó. Chúng tôi nhận thấy rằng 
Việt Nam có thể học hỏi nước Úc về tinh thần, nhưng về cách làm ta nên có điều 
chỉnh. Thay vì trợ giá và cho vay với tất cả các ngành và sinh viên, ta nên ưu tiên cho 
(1) những ngành chi phí cao (trợ giá học phí cũng là một cách để chúng không bị bỏ 
quên trong sự cạnh trong giữa các trường), và (2) sinh viên từ những nhóm yếu thế. 
Mức trợ giá và cho vay cũng nên tính toán phù hợp điều kiện kinh tế Việt Nam. Ý 
tưởng trợ giá và cho vay thoạt nhìn đơn giản nhưng đi vào thực tiễn Việt Nam sẽ nảy 
sinh nhiều vấn đề. Thứ nhất, để tính mức trợ giá và cho vay phù hợp, chúng ta cần xây 
dựng cơ sở dữ liệu về chi phí đào tạo và thu nhập ra trường của các ngành chi phí cao, 
cũng như cơ sở dữ liệu về các nhóm yếu thế và mức sống của họ. Thứ hai, ta phải có 
cách theo dõi tiền vay và đảm bảo tiền vay được trả nhiều nhất có thể mà không ảnh 
hưởng đến an sinh xã hội của người đi vay, và điều này đòi hỏi phát triển hệ thống tín 
dụng cả nước. Riêng vấn đề tín dụng, báo cáo khảo sát học phí của UBVHGD cũng đã 
chỉ ra sự thiếu liên kết giữa chính sách học phí và các chính sách tính dụng, hỗ trợ tài 
chính cho đại học. Thứ ba, ta cần một quy trình đánh giá độ hiệu quả của trợ giá và 
vay để tránh lãng phí. Cả ba vấn đề vừa nêu hiện nay đều là những mảng trống tại Việt 
Nam, trừ việc chúng ta có điều tra dân số và thu nhập bình quân cho đồng bào các dân 
tộc thiểu số (có thể xem là một nhóm yếu thế). 
5. Giải pháp ngắn hạn và dài hạn 
Trên cơ sở các vấn đề đã tham luận, chúng tôi đề xuất một số giải pháp ngắn 
hạn và dài hạn để thực hiện tự chủ học phí với đại học Việt Nam. Về ngắn hạn: 
• Như đã nói ở mục 2, hiện nay ta chưa có quy trình đánh giá và thông tin 
chất lượng đào tạo (đặc biệt là đánh giá kết quả) cho thị trường, cộng với việc ta mới 
áp dụng tự chủ học phí, nên sự tùy tiện trong học phí là khó tránh khỏi. Mặc dù ta chấp 
nhận sự tùy tiện trong một thời gian, nhưng các cơ quan quản lí nên theo dõi sát sao và 
yêu cầu giải trình nếu có dấu hiệu tiêu cực, và xử lí nếu cần thiết theo pháp luật hiện 
hành. 
• Lập các nhóm chuyên môn gồm các chuyên gia công nghệ thông tin, giáo 
dục, kinh tế, đại diện của UBVHGD, đại diện Bộ Giáo dục và đào tạo và các bộ ngành 
liên quan, để nghiên cứu và xây dựng các nền tảng để phát triển tự chủ học phí, gồm 
(1) quy trình khảo sát mức độ hài lòng của sinh viên cho toàn hệ thống đại học, (2) cơ 
sở dữ liệu về các trường đại học, (3) cơ sở dữ liệu về sinh viên, gồm thông tin khi đang 
theo học và thông tin việc làm sau khi tốt nghiệp (có thể chia mức thời gian 6 tháng, 2 
năm), (4) cơ sở dữ liệu về các ngành chi phí cao, (5) cơ sở dữ liệu về các nhóm yếu thế 
và mức sống của họ. 
• Phối hợp giữa Bộ Giáo dục và đào tạo và Bộ Tài chính để phát triển hệ 
thống tín dụng cho sinh viên ở cấp độ quốc gia, và đây là điều nên làm và phải làm để 
đảm bảo tính công bằng trong tiếp cận giáo dục. Tín dụng cho người học phải là thực 
chất và chỉ nên hoàn lại sau khi người học ra trường có việc làm, ở một mức không 
ảnh hưởng an sinh của họ. 
Về dài hạn: 
• Có chính sách, luật và quy trình đánh giá chất lượng kết quả đào tạo. Điều 
này sẽ đưa đánh giá kết quả thành một việc phải quan tâm của cả hệ thống và thúc đẩy 
các trường cải thiện năng lực của mình. Việc thử nghiệm và về sau là tổ chức đánh giá 
 551 
nên giao cho một cơ quan độc lập, để đánh giá chính xác hơn và ngăn chặn tiêu cực, 
tham nhũng. 
• Có chính sách và luật về cạnh tranh giữa các trường đại học. Các chính sách 
và luật này chỉ nên tập trung vào giám sát, ngăn chặn và xử lí hành vi cạnh tranh 
không lành mạnh (sẽ cần định nghĩa các hành vi này). Không nên kiểm soát việc cạnh 
tranh nói chung. 
• Có chính sách và cơ chế trợ giá những ngành chi phí cao như các ngành kĩ 
thuật, sức khỏe 
• Có chính sách và cơ chế cho vay với những nhóm yếu thế, đi kèm là hệ 
thống tín dụng để kiểm soát tiền vay 
6. Kết luận: Các vấn đề còn bỏ ngõ 
Trong tham luận này, chúng tôi đã bàn về các nguyên tắc quan trọng với tự chủ 
học phí, bao gồm chất lượng đào tạo, tính cạnh tranh và công bằng xã hội. Một số ví 
dụ cụ thể, các vấn đề phát sinh và đề xuất cũng đã được nêu lên. Liên quan đến cả ba 
nguyên tắc, ta có thể thấy rằng vai trò của Nhà nước vẫn thực sự quan trọng, cho dù tự 
chủ đại học, trong đó có tự chủ học phí, là một xu hướng cần thiết. Sự vào cuộc của 
Nhà nước sẽ đảm bảo chất lượng trong một thị trường giáo dục chưa thực sự hoàn hảo 
và đồng thời đảm bảo nguyên tắc công bằng trong tiếp cận cho những đối tượng yếu 
thế. 
Tuy nhiên, trong khuôn khổ một tham luận ngắn vẫn còn nhiều vấn đề bỏ ngõ 
và cần bàn bạc thêm. Chúng tôi ví dụ hai vấn đề đó là, thứ nhất, do ta gắn liền học phí 
với hoạt động đào tạo (như đã nói ở mục 1 và 2), thì nguồn kinh phí cho hai chức năng 
còn lại của trường đại học – nghiên cứu và phục vụ cộng đồng, sẽ đến từ đâu. Nếu yêu 
cầu người học phải chi trả cho hai mảng hoạt động này, đặc biệt là nghiên cứu, thì học 
phí sẽ rất cao và chưa kể là bất công cho họ; có thể dễ hình dung rằng không phải dự 
án nghiên cứu nào cũng liên quan đến nhu cầu người học, cũng như sẽ khó lí giải tại 
sao người học phải đóng học phí để rồi vào thực hiện các hoạt động phục vụ cộng 
đồng. Có lẽ một sự đầu tư mang tính đột phá và có yếu tố cạnh tranh năng lực của Nhà 
nước sẽ là lời giải. Thứ hai, ta cũng nên trợ giá học phí (hoặc một dạng hỗ trợ gói) 
theo vùng miền để phát triển đại học vùng, và qua đó phát triển kinh tế vùng, nhưng 
việc này sẽ được làm thế nào để vừa công bằng giữa các vùng miền vừa có hiệu quả 
tổng thể cho kinh tế quốc gia? Báo cáo của UBVHGD cũng có đề cập việc rà soát, 
phân nhóm đại học theo vùng miền, dựa trên đó xây dựng chính sách hỗ trợ Nhà nước. 
Chúng tôi tin rằng sẽ cần thêm thời gian để nghiên cứu và tranh luận những vấn đề 
như thế này. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. UK Parliament (2018). Tuition fee statistics. Available online at 
https://commonslibrary.parliament.uk/research-briefings/sn00917/ 
2. UK Parliament (2020). Higher education funding in England. Available online at 
https://commonslibrary.parliament.uk/research-briefings/cbp-7973/ 
3. Park, S (1996). Research, Teaching, and Service. Journal of Higher Education, 
67(1), pp. 46-84. 

File đính kèm:

  • pdfhoc_phi_chat_luong_canh_tranh_va_cong_bang_xa_hoi.pdf