Học phí, chất lượng, cạnh tranh và công bằng xã hội
Tự chủ đại học Việt Nam từ thí điểm vào năm 2014 cho đến nay đã có nhiều
tiến bộ, với kinh nghiệm thí điểm cơ chế hoạt động mới của các trường đã được đúc
kết trong Luật 34 hiệu lực từ tháng 7/2019 cùng với Nghị định 99 vừa mới ban hành.
Mức độ tự chủ đang dần nâng cao theo các nước tiên tiến, trong đó có tự chủ tài chính
mà đặc biệt là việc tự chủ học phí. Học phí là một nội dung quan trọng tại Việt Nam vì
hơn 80% thu của hệ thống đại học chủ yếu từ nguồn này. Nếu bỏ qua các trường đại
học có yếu tố quốc tế hoặc tư thục, thì hệ thống đại học công lập Việt Nam có hai
nhóm trường khác nhau về cách thu học phí, một nhóm tự chủ theo từng đề án thí
điểm riêng biệt dưới Nghị quyết 77 của Chính phủ, và nhóm đa số còn lại tuân thủ quy
định học phí của Nghị định 86 năm 2015 của Chính phủ.
Về cơ bản hệ thống đại học công lập Việt Nam vẫn chưa triển khai kịp thời tự
chủ học phí theo tinh thần Luật 34. Luật 34, Nghị định 99 và Thông tư 14/2019/TTBGDĐT coi học phí là giá dịch vụ đào tạo được tính đúng tính đủ theo định mức kinh
tế-kỹ thuật (gọi tắt định mức KTKT), được hiểu là lượng tiêu hao lao động, thiết bị,
vật tư để hoàn thành chương trình đào tạo cho một người học. Tuy nhiên, theo khảo sát
mới nhất của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên & Nhi đồng (gọi tắt
UBVHGD), vẫn có những trường chưa thu học phí đảm bảo định mức KTKT, hoặc
thậm chí chưa tính toán học phí theo định mức. Quan trọng hơn, chúng tôi quan sát
rằng việc thu học phí hiện nay chủ yếu hướng đến tồn tại (dựa vào tính đúng tính đủ
định mức KTKT) chứ chưa có yếu tố phát triển; điều này thể hiện một phần qua việc
các trường tự chủ theo từng đề án thí điểm dưới Nghị quyết 77 thì vẫn thu học phí theo
lộ trình đề án, còn các trường tuân thủ Nghị định 86 chỉ mới đảm bảo chi thường
xuyên. Đằng sau vấn đề tính đúng tính đủ định mức KTKT và yếu tố phát triển, chúng
tôi nhận thấy việc tự chủ học phí có hai thách thức nền móng cần chú ý trước tiên. Thứ
nhất, việc đảm bảo định mức và phát triển cho hoạt động đào tạo phải có sự hỗ trợ Nhà
nước, do đào tạo là một dịch vụ có ngoại tác tích cực với kinh tế, xã hội. Sự hỗ trợ Nhà
nước sẽ giúp phát huy tính tính cực của giáo dục đại học, đảm bảo tính công bằng
trong tiếp cận giáo dục đại học, cũng như tạo đột phá theo ngành hoặc vùng miền. Kế
đến, việc đo lường hiệu quả của giáo dục đại học và qua đó là hiệu quả học phí sẽ chủ
yếu thiên về chất lượng, nhưng chất lượng là một khái niệm không thể đo lường định
lượng dựa vào các định mức KTKT cụ thể.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Học phí, chất lượng, cạnh tranh và công bằng xã hội
541 HỌC PHÍ, CHẤT LƯỢNG, CẠNH TRANH VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI Nguyễn Trọng Hoài Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh Trần Bá Linh King’s College London và Cardiff University 1. Giới thiệu Tự chủ đại học Việt Nam từ thí điểm vào năm 2014 cho đến nay đã có nhiều tiến bộ, với kinh nghiệm thí điểm cơ chế hoạt động mới của các trường đã được đúc kết trong Luật 34 hiệu lực từ tháng 7/2019 cùng với Nghị định 99 vừa mới ban hành. Mức độ tự chủ đang dần nâng cao theo các nước tiên tiến, trong đó có tự chủ tài chính mà đặc biệt là việc tự chủ học phí. Học phí là một nội dung quan trọng tại Việt Nam vì hơn 80% thu của hệ thống đại học chủ yếu từ nguồn này. Nếu bỏ qua các trường đại học có yếu tố quốc tế hoặc tư thục, thì hệ thống đại học công lập Việt Nam có hai nhóm trường khác nhau về cách thu học phí, một nhóm tự chủ theo từng đề án thí điểm riêng biệt dưới Nghị quyết 77 của Chính phủ, và nhóm đa số còn lại tuân thủ quy định học phí của Nghị định 86 năm 2015 của Chính phủ. Về cơ bản hệ thống đại học công lập Việt Nam vẫn chưa triển khai kịp thời tự chủ học phí theo tinh thần Luật 34. Luật 34, Nghị định 99 và Thông tư 14/2019/TT- BGDĐT coi học phí là giá dịch vụ đào tạo được tính đúng tính đủ theo định mức kinh tế-kỹ thuật (gọi tắt định mức KTKT), được hiểu là lượng tiêu hao lao động, thiết bị, vật tư để hoàn thành chương trình đào tạo cho một người học. Tuy nhiên, theo khảo sát mới nhất của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên & Nhi đồng (gọi tắt UBVHGD), vẫn có những trường chưa thu học phí đảm bảo định mức KTKT, hoặc thậm chí chưa tính toán học phí theo định mức. Quan trọng hơn, chúng tôi quan sát rằng việc thu học phí hiện nay chủ yếu hướng đến tồn tại (dựa vào tính đúng tính đủ định mức KTKT) chứ chưa có yếu tố phát triển; điều này thể hiện một phần qua việc các trường tự chủ theo từng đề án thí điểm dưới Nghị quyết 77 thì vẫn thu học phí theo lộ trình đề án, còn các trường tuân thủ Nghị định 86 chỉ mới đảm bảo chi thường xuyên. Đằng sau vấn đề tính đúng tính đủ định mức KTKT và yếu tố phát triển, chúng tôi nhận thấy việc tự chủ học phí có hai thách thức nền móng cần chú ý trước tiên. Thứ nhất, việc đảm bảo định mức và phát triển cho hoạt động đào tạo phải có sự hỗ trợ Nhà nước, do đào tạo là một dịch vụ có ngoại tác tích cực với kinh tế, xã hội. Sự hỗ trợ Nhà nước sẽ giúp phát huy tính tính cực của giáo dục đại học, đảm bảo tính công bằng trong tiếp cận giáo dục đại học, cũng như tạo đột phá theo ngành hoặc vùng miền. Kế đến, việc đo lường hiệu quả của giáo dục đại học và qua đó là hiệu quả học phí sẽ chủ yếu thiên về chất lượng, nhưng chất lượng là một khái niệm không thể đo lường định lượng dựa vào các định mức KTKT cụ thể. Trước bối cảnh và các thách thức nêu trên, chúng tôi gửi tham luận này đến UBVHGD với bốn mục tiêu chính. Thứ nhất, tham luận soi xét vấn đề chất lượng ở cấp độ lí luận, và chứng minh rằng học phí phải phản ảnh thực chất chất lượng đào tạo, đi kèm mô tả một quy trình đánh giá chất lượng đầu ra theo thông lệ quốc tế. Thứ hai, tham luận sẽ bàn về tính cạnh tranh và công bằng xã hội trong học phí. Thứ ba, chúng tôi đưa ra một số giải pháp ngắn hạn và dài hạn để thúc đẩy thực hiện tự chủ học phí. 542 Bao trùm cả tham luận, chúng tôi trân trọng gởi thông điệp rằng tự chủ đại học trong đó có học phí là một bước đi đúng đắn để phát triển đại học, nhưng sự hỗ trợ Nhà nước là luôn cần thiết. Tham luận này thể hiện góc nhìn theo tiếp cận tình huống, dựa vào quan sát của chúng tôi từ Nghiên cứu đề xuất các giải pháp đẩy mạnh quốc tế hóa giáo dục Việt Nam, mã số: KHGD/16-20.ĐT.018 thuộc Chương trình Khoa học và công nghệ cấp quốc gia giai đoạn 2016-2020, và kết quả khảo sát học phí gần đây nhất do UBVHGD thực hiện. Chúng tôi cũng tham khảo một số tài liệu về học phí của Quốc hội và Chính phủ Anh Quốc và Úc. Chúng tôi tham khảo hai quốc gia này vì (1) họ có hệ thống đại học thành công, được xây dựng kết hợp giữa tự chủ và hỗ trợ nhà nước; (2) sự tự chủ học phí của họ có tính đến công bằng xã hội cho nhóm yếu thế. Mỹ cũng là một đất nước đáng tham khảo về tự chủ học phí, nhưng do tính chất phức tạp về hành chính – 50 bang có cách quản lí đại học riêng, nên có lẽ Mỹ sẽ phù hợp hơn với một tham luận dài hoặc một nghiên cứu sâu. Do tham luận này chỉ dựa trên cơ sở hai quốc gia phương Tây có lịch sử văn hóa và chính trị liên quan với nhau, nên chúng tôi kêu gọi thêm nhiều góc nhìn tham luận khác, và đặc biệt là những nghiên cứu diện rộng. 2. Cơ sở tự chủ học phí: Tính mục đích, giá trị, chất lượng và thị trường Kết quả khảo sát học phí của UBVHGD có chỉ ra các bất cập trong việc tính học phí đại học Việt Nam, mà một nguyên nhân là khoa học về tài chính đại học chưa được chú trọng. Chúng tôi đồng tình với kết luận này, nhưng cho rằng có một nguyên nhân nền tảng hơn, đó là sự thiếu sót hoặc thiếu nhất quán về một triết lý cho mục đích thu học phí. Triết lý về m ... nh phần để cho ra cấp độ năng lực TEF (vàng, bạc, đồng) sơ khởi. Xin nhắc lại, tất cả các chỉ số sẽ được tính sẵn bởi Office for Students. Điểm quan trọng nhất của phân tích định lượng trong TEF đó là chỉ số chính và chỉ số thành phần phải được so sánh với benchmark, chứ tự thân giá trị của chúng không có ý nghĩa. Benchmark là mức kì vọng chất lượng của từng trường, tính bằng cách lấy sinh viên của trường đó áp vào toàn bộ hệ thống đại học và xem các trường khác trung bình đạt giá trị bao nhiêu cho từng chỉ số (phương pháp benchmark được công bố trên website của HESA). Tương tự các chỉ số, benchmark cũng được tính sẵn cho giám khảo. Vì đánh giá TEF là sự so sánh giữa giá trị thật với benchmark, nên TEF chỉ nói lên được một trường có vượt qua kì vọng và vượt qua đến cỡ nào, chứ nó không thể dùng để so sánh trường này với trường kia. Trong loại đánh giá thứ hai, mức năng lực sơ khởi sẽ được điều chỉnh dựa trên giải trình của trường và các chỉ số phụ. Giám khảo sẽ xem xét các yếu tố đặc biệt có thể ảnh hưởng đến chỉ số chính và chỉ số thành phần, và đồng thời để xác định những yếu tố thể hiện năng lực đào tạo nằm ngoài tẩt cả các chỉ số. Việc sử dụng các chỉ số phụ trong bước này cũng dựa trên benchmark. Để chuẩn bị cho TEF, các giám khảo sẽ được tập huấn về bộ tiêu chuẩn và cấp độ năng lực TEF, sử dụng dữ liệu từng chỉ số, và về bối cảnh đại học của các vùng trong Anh Quốc. Tập huấn cũng bao gồm đánh giá thử. Kết quả TEF sẽ được công bố trên website Office for Students, UCAS và Unistats4. Công bố cho từng trường gồm cấp độ năng lực TEF, báo cáo quá trình đánh giá, thông tin tiêu chuẩn, chỉ số, benchmark và dữ liệu đánh giá cho trường đó. Các trường chỉ được khiếu nại với lí do quy trình chấm đã không được tuân thủ hay có thông tin sai sự thật trong báo cáo quá trình đánh giá. 4 Universities and Colleges Admissions Service (UCAS) là tổ chức vận hành việc nộp và xử lí đơn nhập học cử nhân tại Anh. Unistats, nay đổi tên thành Discover Uni, là một trang web chính phủ công bố thông tin thống kê về từng chương trình của từng trường, để giúp người dân chọn địa điểm học phù hợp. 548 Có thể thấy TEF đặt ra nhiều vấn đề tiềm năng cho tự chủ học phí và tự chủ nói chung của đại học Việt Nam. Về ưu thế, một quy trình như TEF sẽ tạo cơ sở cho người học đối chiếu giữa chất lượng đào tạo và học phí, và giúp các nhà quản lí đại học, người làm chính sách theo dõi tình trạng chất lượng và học phí để ra quyết định phù hợp. Hơn nữa, vì TEF quan tâm chất lượng đào tạo của từng nhóm sinh viên, nên kết quả TEF có thể gián tiếp cải thiện công bằng xã hội thông qua việc định hướng giảm học phí và phát triển chất lượng cho các nhóm cụ thể. Nhược điểm của TEF là kết quả của nó không mang tính so sánh giữa các trường, nên sẽ khó để xác định tính cạnh tranh trong học phí. Tuy nhiên, do công bố TEF bao gồm báo cáo quá trình đánh giá của giám khảo, dữ liệu thô (trong đó quan trọng là giải trình của trường và thông tin ‘cứng’ như việc làm, thu nhập), nên người học có thể tự mình đánh giá mức độ tương xứng chất lượng và học phí giữa nhiều trường. Việc áp dụng một quy trình như TEF tại Việt Nam không dễ. Một trở ngại rất lớn là chúng ta phải xây dựng một cơ sở dữ liệu đồ sộ về sinh viên (đang theo học lẫn ra trường) và về các mặt hoạt động của trường đại học, đi kèm là khảo sát diện rộng mức độ hài lòng của sinh viên. Dù một số trường đã bắt đầu xây dựng các cơ sở dữ liệu này, họ làm theo cách riêng và chưa có liên thông với quản lí vĩ mô. Trở ngại lớn thứ hai là xây dựng và ban hành chính sách, cơ chế để áp dụng, hướng dẫn và giám sát một quy trình lớn như vậy. Cuối cùng, phải có chính sách, cơ chế để vừa giám sát việc tự chủ học phí thông qua quy trình này nhưng vừa tránh kiểm soát học phí để thực hiện tinh thần tự chủ đại học. Hiện nay ta chỉ mới quy định về việc đạt kiểm định làm điều kiện mở ngành, chứ chưa tính đến việc đánh giá đầu ra và gắn học phí với đánh giá đầu ra. 4. Cạnh tranh và công bằng xã hội Gắn học phí với chất lượng đào tạo là điều cần thiết, nhưng đây chỉ mới là nguyên tắc chủ đạo để tự chủ học phí. Theo chúng tôi, cần có thêm hai nguyên tắc khác. Nguyên tắc bổ sung đầu tiên là học phí phải có tính cạnh tranh giữa các trường. Ở đây chúng tôi hiểu cạnh tranh không chỉ đơn giản là giảm học phí, mà cạnh tranh phải nằm ở tương quan chất lượng đào tạo với học phí, để người học nhận được giá trị nhiều nhất cho số tiền họ bỏ ra. Nói một cách đơn giản, học phí cạnh tranh không phải là học phí rẻ, mà là học phí rẻ so với chất lượng. Tính cạnh tranh là cần thiết vì ba lí do. Thứ nhất, cạnh tranh giúp nhà trường năng động, chú ý đến nhu cầu của thị trường hơn, tránh tình trạng đào tạo trong tháp ngà. Thứ hai, chúng tôi dự đoán các trường sẽ có xu hướng đa ngành trong bối cảnh tự chủ, và vì thế sự trùng lắp lĩnh vực đào tạo là khó tránh khỏi (hiện nay cũng đã tồn tại). Chủ động cạnh tranh, cộng với áp lực thị trường, sẽ là sự sàng lọc để các trường vừa không đầu tư dàn trải, vừa phát hiện ra thế mạnh của mình và từ đó phát huy. Hiện nay cơ cấu hệ thống đại học của ta đã có sẵn chuyên môn hóa, nhưng sự chuyên môn hóa này là di sản lịch sử hàng thập kỉ của quy hoạch từ trên xuống, nó ít cho các trường có cơ hội khám phá, cọ sát và phát huy năng lực tiềm tàng. Cuối cùng, sự năng động thích nghi với thị trường, cùng với chuyên môn hóa, sẽ là cơ sở để các trường tuyển sinh bền vững, chưa kể đến những gói đặt hàng nghiên cứu, chuyển giao công nghệ. Tuy nhiên, cạnh tranh chắc chắn sẽ có mặt tối. Các hình thức cạnh tranh không lành mạnh như quảng cáo dối, dùng tài nguyên vào các giá trị không thực chất (có thể nghĩ đến việc mua bài gần đây), hoặc dùng truyền thông tấn công đối thủ, đều sẽ có hậu quả lớn cho xã hội và làm mất uy tín Nhà nước. Chính vì vậy, ta cần có chính sách, cơ chế giám sát cạnh tranh. Một nhược điểm khác của cạnh tranh đó là, nếu ta chú ý vào vấn đề phân bổ ngành, thì có những ngành có chi phí đào tạo quá cao và sẽ cần học phí của các ngành khác bù qua, nếu không 549 học phí của chúng sẽ quá khả năng thị trường (đây là bài toán đau đầu của những trường đơn ngành chi phí cao như Y Dược TP.HCM5). Chúng tôi dự đoán các trường sẽ có khuynh hướng không mở hoặc đóng những ngành chi phí cao để giữ tính cạnh tranh của các ngành còn lại và của tổng thể trường. Tuy nhiên, những ngành chi phí cao lại thường là các ngành khoa học tự nhiên, kĩ thuật hoặc y khoa, nên không thế thiếu cho sự phát triển đất nước. Vì lẽ nãy, cạnh tranh có thể dẫn tới một nền giáo dục đại học khiếm khuyết, và chúng tôi tin rằng cần có sự can thiệp của Nhà nước để tránh viễn cảnh trên. Nguyên tắc bổ sung còn lại của tự chủ học phí đó là đảm bảo công bằng xã hội. Việc học phí tương xứng với chất lượng và có tính cạnh tranh không có nghĩa rằng mọi sinh viên có năng lực đều trang trải được, đặc biệt nếu họ thuộc các nhóm yếu thế trong xã hội. Chính vì vậy, học phí nên được tính toán để tạo ra các khoản hỗ trợ các nhóm yếu thế, có thể là học bổng hoặc trợ giá. Dù vậy, công bằng xã hội là một vấn đề vĩ mô, nên chúng tôi cho rằng cần có sự vào cuộc Nhà nước. Về việc này, ta có thể lấy ví dụ từ nước Úc10. Tại Úc, Nhà nước trợ giá cho tất cả mọi sinh viên, nhưng mức trợ giá sẽ dao động tùy ngành, với các ngành có chi phí đào tạo cao và/hoặc triển vọng lương thấp sẽ được trợ giá cao. Mức trợ giá cho các ngành được thể hiện trong bảng dưới. Bảng 2. Mức trợ giá học phí Úc Ngành/Nhóm ngành Mức trả Chính phủ Học phí Tổng Phần trăm của học phí Luật, Kế toán, Quản trị, Kinh tế, Thương mại $1 990 $10 085 $12 075 83.5% Nhân văn $5 530 $6 044 $11 574 52.2% Toán, Xác suất thống kê, Xây dựng, Máy tính, Y tế công $9 782 $8 613 $18 395 46.8% Khoa học hành vi, Khoa học xã hội $9 782 $6 044 $15 826 38.2% Giáo dục $10 178 $6 044 $16 222 37.3% Tâm lí y khoa, Ngoại ngữ, Nghệ thuật biểu diễn $12 031 $6 044 $18 075 33.4% Allied health $12 031 $8 613 $20 644 41.7% Điều dưỡng $13 432 $6 044 $19 476 31.0% Kĩ thuật, Khoa học, Quan trắc đo đạc $17 104 $8 613 $25 717 33.5% Nha, Y khoa, Thú y $21 707 $10 085 $31 792 31.7% Nông lâm $21 707 $8 613 $30 320 28.4% 5 Ngành Răng-Hàm-Mặt của Y Dược TP.HCM tăng học phí từ 13 lên 70 triệu/năm, một số ngành khác tăng lên 50-70 triệu. Học phí mới chắn chắn sẽ gây khó khăn cho cả nhà trường, sinh viên và có thể dẫn đến thiếu bác sĩ cho xã hội. Rõ ràng trong trường hợp này cần có sự hỗ trợ Nhà nước. 550 Ngoài trợ giá, người học Úc có thể vay để không phải trả học phí, và họ chỉ cần trả lại nếu thu nhập sau tốt nghiệp vượt quá một mức nào đó. Chúng tôi nhận thấy rằng Việt Nam có thể học hỏi nước Úc về tinh thần, nhưng về cách làm ta nên có điều chỉnh. Thay vì trợ giá và cho vay với tất cả các ngành và sinh viên, ta nên ưu tiên cho (1) những ngành chi phí cao (trợ giá học phí cũng là một cách để chúng không bị bỏ quên trong sự cạnh trong giữa các trường), và (2) sinh viên từ những nhóm yếu thế. Mức trợ giá và cho vay cũng nên tính toán phù hợp điều kiện kinh tế Việt Nam. Ý tưởng trợ giá và cho vay thoạt nhìn đơn giản nhưng đi vào thực tiễn Việt Nam sẽ nảy sinh nhiều vấn đề. Thứ nhất, để tính mức trợ giá và cho vay phù hợp, chúng ta cần xây dựng cơ sở dữ liệu về chi phí đào tạo và thu nhập ra trường của các ngành chi phí cao, cũng như cơ sở dữ liệu về các nhóm yếu thế và mức sống của họ. Thứ hai, ta phải có cách theo dõi tiền vay và đảm bảo tiền vay được trả nhiều nhất có thể mà không ảnh hưởng đến an sinh xã hội của người đi vay, và điều này đòi hỏi phát triển hệ thống tín dụng cả nước. Riêng vấn đề tín dụng, báo cáo khảo sát học phí của UBVHGD cũng đã chỉ ra sự thiếu liên kết giữa chính sách học phí và các chính sách tính dụng, hỗ trợ tài chính cho đại học. Thứ ba, ta cần một quy trình đánh giá độ hiệu quả của trợ giá và vay để tránh lãng phí. Cả ba vấn đề vừa nêu hiện nay đều là những mảng trống tại Việt Nam, trừ việc chúng ta có điều tra dân số và thu nhập bình quân cho đồng bào các dân tộc thiểu số (có thể xem là một nhóm yếu thế). 5. Giải pháp ngắn hạn và dài hạn Trên cơ sở các vấn đề đã tham luận, chúng tôi đề xuất một số giải pháp ngắn hạn và dài hạn để thực hiện tự chủ học phí với đại học Việt Nam. Về ngắn hạn: • Như đã nói ở mục 2, hiện nay ta chưa có quy trình đánh giá và thông tin chất lượng đào tạo (đặc biệt là đánh giá kết quả) cho thị trường, cộng với việc ta mới áp dụng tự chủ học phí, nên sự tùy tiện trong học phí là khó tránh khỏi. Mặc dù ta chấp nhận sự tùy tiện trong một thời gian, nhưng các cơ quan quản lí nên theo dõi sát sao và yêu cầu giải trình nếu có dấu hiệu tiêu cực, và xử lí nếu cần thiết theo pháp luật hiện hành. • Lập các nhóm chuyên môn gồm các chuyên gia công nghệ thông tin, giáo dục, kinh tế, đại diện của UBVHGD, đại diện Bộ Giáo dục và đào tạo và các bộ ngành liên quan, để nghiên cứu và xây dựng các nền tảng để phát triển tự chủ học phí, gồm (1) quy trình khảo sát mức độ hài lòng của sinh viên cho toàn hệ thống đại học, (2) cơ sở dữ liệu về các trường đại học, (3) cơ sở dữ liệu về sinh viên, gồm thông tin khi đang theo học và thông tin việc làm sau khi tốt nghiệp (có thể chia mức thời gian 6 tháng, 2 năm), (4) cơ sở dữ liệu về các ngành chi phí cao, (5) cơ sở dữ liệu về các nhóm yếu thế và mức sống của họ. • Phối hợp giữa Bộ Giáo dục và đào tạo và Bộ Tài chính để phát triển hệ thống tín dụng cho sinh viên ở cấp độ quốc gia, và đây là điều nên làm và phải làm để đảm bảo tính công bằng trong tiếp cận giáo dục. Tín dụng cho người học phải là thực chất và chỉ nên hoàn lại sau khi người học ra trường có việc làm, ở một mức không ảnh hưởng an sinh của họ. Về dài hạn: • Có chính sách, luật và quy trình đánh giá chất lượng kết quả đào tạo. Điều này sẽ đưa đánh giá kết quả thành một việc phải quan tâm của cả hệ thống và thúc đẩy các trường cải thiện năng lực của mình. Việc thử nghiệm và về sau là tổ chức đánh giá 551 nên giao cho một cơ quan độc lập, để đánh giá chính xác hơn và ngăn chặn tiêu cực, tham nhũng. • Có chính sách và luật về cạnh tranh giữa các trường đại học. Các chính sách và luật này chỉ nên tập trung vào giám sát, ngăn chặn và xử lí hành vi cạnh tranh không lành mạnh (sẽ cần định nghĩa các hành vi này). Không nên kiểm soát việc cạnh tranh nói chung. • Có chính sách và cơ chế trợ giá những ngành chi phí cao như các ngành kĩ thuật, sức khỏe • Có chính sách và cơ chế cho vay với những nhóm yếu thế, đi kèm là hệ thống tín dụng để kiểm soát tiền vay 6. Kết luận: Các vấn đề còn bỏ ngõ Trong tham luận này, chúng tôi đã bàn về các nguyên tắc quan trọng với tự chủ học phí, bao gồm chất lượng đào tạo, tính cạnh tranh và công bằng xã hội. Một số ví dụ cụ thể, các vấn đề phát sinh và đề xuất cũng đã được nêu lên. Liên quan đến cả ba nguyên tắc, ta có thể thấy rằng vai trò của Nhà nước vẫn thực sự quan trọng, cho dù tự chủ đại học, trong đó có tự chủ học phí, là một xu hướng cần thiết. Sự vào cuộc của Nhà nước sẽ đảm bảo chất lượng trong một thị trường giáo dục chưa thực sự hoàn hảo và đồng thời đảm bảo nguyên tắc công bằng trong tiếp cận cho những đối tượng yếu thế. Tuy nhiên, trong khuôn khổ một tham luận ngắn vẫn còn nhiều vấn đề bỏ ngõ và cần bàn bạc thêm. Chúng tôi ví dụ hai vấn đề đó là, thứ nhất, do ta gắn liền học phí với hoạt động đào tạo (như đã nói ở mục 1 và 2), thì nguồn kinh phí cho hai chức năng còn lại của trường đại học – nghiên cứu và phục vụ cộng đồng, sẽ đến từ đâu. Nếu yêu cầu người học phải chi trả cho hai mảng hoạt động này, đặc biệt là nghiên cứu, thì học phí sẽ rất cao và chưa kể là bất công cho họ; có thể dễ hình dung rằng không phải dự án nghiên cứu nào cũng liên quan đến nhu cầu người học, cũng như sẽ khó lí giải tại sao người học phải đóng học phí để rồi vào thực hiện các hoạt động phục vụ cộng đồng. Có lẽ một sự đầu tư mang tính đột phá và có yếu tố cạnh tranh năng lực của Nhà nước sẽ là lời giải. Thứ hai, ta cũng nên trợ giá học phí (hoặc một dạng hỗ trợ gói) theo vùng miền để phát triển đại học vùng, và qua đó phát triển kinh tế vùng, nhưng việc này sẽ được làm thế nào để vừa công bằng giữa các vùng miền vừa có hiệu quả tổng thể cho kinh tế quốc gia? Báo cáo của UBVHGD cũng có đề cập việc rà soát, phân nhóm đại học theo vùng miền, dựa trên đó xây dựng chính sách hỗ trợ Nhà nước. Chúng tôi tin rằng sẽ cần thêm thời gian để nghiên cứu và tranh luận những vấn đề như thế này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. UK Parliament (2018). Tuition fee statistics. Available online at https://commonslibrary.parliament.uk/research-briefings/sn00917/ 2. UK Parliament (2020). Higher education funding in England. Available online at https://commonslibrary.parliament.uk/research-briefings/cbp-7973/ 3. Park, S (1996). Research, Teaching, and Service. Journal of Higher Education, 67(1), pp. 46-84.
File đính kèm:
- hoc_phi_chat_luong_canh_tranh_va_cong_bang_xa_hoi.pdf