Học giả Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố
Nguyễn Văn Tố là một nhân sĩ có tiếng trước Cách mạng tháng Tám. Ông làm
việc tại Học viện Viễn Đông Bác cổ (École française d'Extrême-Orient, EFEO - một cơ
quan của Pháp được thành lập tại Đông Dương từ năm 1898), phụ trách Trị sự Tạp chí
của Học viện. Ông là nhà báo có nhiều bài viết bằng tiếng Pháp, tiếng Việt trong nhiều
lĩnh vực KHXH&NV trên nhiều báo, tạp chí đương thời như: Pháp viện báo, Nam
Phong tạp chí, Tuần báo Đông Dương, Đông Thanh tạp chí, Thanh Nghị, Tri Tân
Ông cũng tham gia các tổ chức nhằm nâng cao dân trí như Hội Trí Tri và nhất là Hội
truyền bá Quốc ngữ mà ông là một trong những người sáng lập và là Hội trưởng. Bài
viết này chủ yếu đề cập đến gia cảnh và các hoạt động xã hội của Ứng Hòe Nguyễn Văn
Tố trước năm 1945 và những tư liệu quý mà ông đã để lại cho Thư viện KHXH.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Học giả Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố
Học giả Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố Ngô Thế Long(*) Tóm tắt: Nguyễn Văn Tố là một nhân sĩ có tiếng trước Cách mạng tháng Tám. Ông làm việc tại Học viện Viễn Đông Bác cổ (École française d'Extrême-Orient, EFEO - một cơ quan của Pháp được thành lập tại Đông Dương từ năm 1898), phụ trách Trị sự Tạp chí của Học viện. Ông là nhà báo có nhiều bài viết bằng tiếng Pháp, tiếng Việt trong nhiều lĩnh vực KHXH&NV trên nhiều báo, tạp chí đương thời như: Pháp viện báo, Nam Phong tạp chí, Tuần báo Đông Dương, Đông Thanh tạp chí, Thanh Nghị, Tri Tân Ông cũng tham gia các tổ chức nhằm nâng cao dân trí như Hội Trí Tri và nhất là Hội truyền bá Quốc ngữ mà ông là một trong những người sáng lập và là Hội trưởng. Bài viết này chủ yếu đề cập đến gia cảnh và các hoạt động xã hội của Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố trước năm 1945 và những tư liệu quý mà ông đã để lại cho Thư viện KHXH. Từ khóa: Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố, Học viện Viễn Đông Bác cổ Ngay sau khi từ Tân Trào về Hà Nội, ngày 27/8/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp các vị Bộ trưởng trong Chính phủ Lâm thời và Chính phủ Lâm thời đã ra lời Tuyên cáo gửi quốc dân đồng bào, trong đó nêu rõ:(*)“tuân theo chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ủy ban Dân tộc giải phóng đã quyết định tự cải tổ, mời thêm một số nhân sĩ tham gia Chính phủ đặng cùng nhau gánh vác nhiệm vụ nặng nề mà quốc dân giao phó cho” (Văn kiện Quốc hội toàn tập, 2006, Tập 1 (1945-1960): 1511-1512). Một trong số nhân sĩ được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời tham gia Chính phủ Lâm thời là học giả Nguyễn Văn Tố, bút hiệu Ứng Hòe. Ông được mời làm Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội trong (*) Nguyên cán bộ Viện Thông tin KHXH; Email: longngothe08@yahoo.com Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau đó, ông là đại biểu Quốc hội khóa 1 nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Trưởng ban Ban Thường trực Quốc hội, Quốc vụ khanh của Chính phủ. * Nguyễn Văn Tố (1889-1947) sinh tại Đông Thành, thuộc tổng Tiền Túc, huyện Thọ Xương cũ (nay là phường Cửa Đông, quận Hoàn Kiếm), Hà Nội, trong một gia đình thị dân Hà Nội lâu đời(*), cha mẹ là (*) Trong nhiều tư liệu có ghi: “Nguyễn Văn Tố, sinh tại Hà Nội, có ông nội và cha là nhà Nho” (Souverains et Notabilités, 1943: 92); “xuất thân trong một gia đình Nho học” (Xem: Phan Huy Lê, 2009; Trần Đức Cường, 2009). Tuy nhiên, theo Paul Mus, trong hồ sơ tuyển dụng Nguyễn Văn Tố vào năm 1905, không có một thông tin nào về việc học chữ Hán của Nguyễn Văn Tố. Việc thông thạo chữ Hán và sự hiểu biết về văn hóa truyền thống là 18 Th“ng tin Khoa học xžÝ hội, số 11.2016 ông Nguyễn Văn Thịnh và bà Lê Thị Kim. Ông có hai người anh em trai, một người là viên chức và người kia là thày giáo. Vợ ông là bà Vũ Thị Chắt, quê làng Mọc (nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội), làm nghề buôn bán đồ đồng tại nhà ở phố Bát Sứ. Vợ chồng ông có ba người con. Con gái lớn làm nghề buôn bán. Con trai đầu tên là Nguyễn Văn Bảo, học ở trường Bảo hộ (trường Bưởi), đến năm 1935 sang Toulouse (Pháp) học nha sĩ, nhưng không thấy trở về. Con trai thứ hai là Nguyễn Văn Tá, giáo viên dạy môn Vạn vật (Sinh học, Sciences Naturelles) tại trường Chu Văn An, Hà Nội và khi về hưu đã theo người con trai cả là kỹ sư sang Canada vào những năm 1990(*). I. Công việc tại EFEO Sau khi theo học ở Trường Thông ngôn và nhận bằng Thành Chung(**) vào ngày do Nguyễn Văn Tố tự học và tìm hiểu (Paul Mus, 1977: 18-19). Và thời đó, nếu xuất thân trong một gia đình Nho học, thì thường học để thi theo các khoa bảng (thi Hương, thi Hội, thi Đình) chứ không theo học Trường Thông ngôn. (*) Nội dung phần về gia đình của Nguyễn Văn Tố ghi theo lời kể lại của bà Nguyễn Thị Thành Yên, sinh năm 1933, cháu nội Nguyễn Văn Tố, con gái của Nguyễn Văn Bảo và Nguyễn Thị Thành (1915- 1991) (Xem: Nguyễn Phương Ngọc, 2012: 137). (**) Xin nói thêm về Trường Thông ngôn (Collège des interprètes de Hanoi): có trường sở tại Yên Phụ, được thành lập ngày 28/12/1886 theo Quyết định của tướng Charles-Auguste-Louis Warnet, Quyền Tổng sứ Trung Bắc kỳ. Để có thể thi vào Trường Thông ngôn Yên Phụ, các thí sinh đã phải học xong chương trình tiểu học và: - Đọc viết và dịch được chữ Hán thông dụng - Viết một bài luận bằng chữ Quốc ngữ - Biết làm bốn phép tính - Viết và đọc được một bài đơn giản bằng tiếng Pháp. Trường Thông ngôn có mục tiêu chính là đào tạo nhân viên vừa có thể phiên dịch tiếng Pháp, vừa biết chữ Hán. Ngoài tiếng Pháp và chữ Hán, học sinh còn “học tính, địa dư, sử ký, sử ký của nước nhà”. Sau khi theo học 3 năm, học sinh được cấp bằng trung học (Diplôme de fin d’études complémentaires 8/6/1905, ở tuổi 16, ông đã được Alfred Foucher, quyền Giám đốc EFEO lúc đó, tuyển chọn làm phán sự tạm tuyển (secrétaire temporaire) từ ngày 1/8/1905 (Nguyễn Phương Ngọc, 2012: 138). Đến khi đỗ đầu trong kỳ thi ngạch Phán sự - Thông dịch (secrétaire interprète) do Tòa Thống sứ Bắc kỳ tổ chức ... à tôi cùng mấy nhân sĩ là Bùi Kỷ, Nguyễn Văn Tố, Trần Trọng Kim Hội nghị đi tới việc xin phép (*) Bulletin de la Société d’Enseignement Mutuel du Tonkin, Tome 3, No1 (1-3/1922), p.1. (**) Bulletin de la Société d’Enseignement Mutuel du Tonkin, Tome 14, No3 (7-9/1934), tr.495. (***) “Giảng dạy đạo đức” (1931), “Nghiên cứu khoa học các tôn giáo” (1933), “Các bài thơ chưa xuất bản thời Nhà Lê” (1934), “Sự nghiệp của Nguyễn Văn Vĩnh” (1936), “Pétrus Ký” (1837- 1838) (1937) Học giả Ứng H’e Nguyễn Văn Tố 23 thành lập một hội, trước định là Hội Chống nạn thất học” (Hồi ký Trần Huy Liệu, 1991: 214). Hội nghị cử học giả Nguyễn Văn Tố, Hội trưởng Hội Trí Tri đứng ra đảm nhiệm việc làm thủ tục, thành lập và trực tiếp làm Hội trưởng Hội Truyền bá Quốc ngữ. Trong bài viết “Truyền bá Quốc ngữ với nạn chống thất học”, Nguyễn Văn Tố đã giải thích “Hội Truyền bá Quốc ngữ nghĩa là truyền bá các môn học bằng chữ Quốc ngữ, tôn chỉ là nâng cao dân trí, mục đích là muốn cho đồng bào ai ai cũng biết đọc biết viết chữ nước nhà, để xây dựng cuộc tương lai cho mau chóng” (Nguyễn Văn Tố, 1945: 3-4). Với tinh thần đó, Nguyễn Văn Tố yêu cầu “những người đã được Hội dạy chữ phải cố gắng dạy lại cho một số người thất học khác xung quanh mình”. Hội Truyền bá Quốc ngữ còn chủ trương tổ chức các cuộc diễn thuyết, xuất bản sách, lập thư viện bình dân để phổ biến kiến thức cho nhân dân. Cuộc diễn thuyết lớn nhất của Hội được tổ chức vào ngày 25/8/1938 tại Hội quán thể thao An Nam đường Charles Coulier (nay là phố Khúc Hạo, Hà Nội). Tại đây, Nguyễn Văn Tố đã giới thiệu về mục đích và tôn chỉ của Hội Truyền bá Quốc ngữ đang trong quá trình thành lập. Mặc dù đến ngày 29/7/1938, Thống sứ Bắc kỳ mới ra quyết định số 3622-A phê duyệt đơn xin lập Hội ngày 8/4/1938 của học giả Nguyễn Văn Tố, nhưng ngày 25/5/1938 đã được coi là ngày chính thức đánh dấu sự ra đời của Hội Truyền bá Quốc ngữ (Trần Đức Cường, 2009: 26, 29). Trụ sở của Hội tại 59 Hàng Quạt chính là trụ sở của Hội Trí Tri, do Nguyễn Văn Tố làm Hội trưởng. Tiếp sau ở Hà Nội, Hội Truyền bá Quốc ngữ ở Trung kỳ được thành lập theo giấy phép ngày 5/1/1939 và ở Nam kỳ ngày 18/8/1944. Tại Hội nghị Giáo khoa toàn quốc tổ chức vào dịp kỷ niệm 6 năm thành lập Hội từ 29-30/7/1944, tại Hà Nội, Hội trưởng Nguyễn Văn Tố đã tổng kết: Hội truyền bá Quốc ngữ Trung ương đã mở được 17 chi nhánh ở Bắc kỳ với 820 lớp học, 2.903 giáo viên dạy cho 41.118 người biết đọc, biết viết; ở Trung kỳ có 11 chi nhánh... (Dương Trung Quốc, 2000: 280, 281). Báo Tin tức (cơ quan của Mặt trận Dân chủ) đã nhận xét “Hội Truyền bá Quốc ngữ là trường học văn hóa rất rộng lớn và cũng là trường học yêu nước, yêu dân” (Dương Trung Quốc, 2000: 280-281). Ông Vũ Đình Hòe (Chủ nhiệm báo Thanh Nghị, sau là Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục trong Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) nói về Nguyễn Văn Tố và Hội Truyền bá Quốc ngữ như sau: “Cụ có lối nói bình dân, thái độ khiêm nhường, chân tình dễ thương. Đi thanh tra lớp học, cụ thường lân la vào các nhà đồng bào nghèo, giục theo lớp, tiện thể hỏi han về đời sống, công việc làm ăn, được bà con mến lắm Mặt khác, cụ lại khéo ngoại giao với các cụ lớn Tây, Ta, sách lược khi cương khi nhu, có lùi có tiến, nhờ vậy Hội nhiều phen vượt thác ghềnh suôn sẻ” (Vũ Đình Hòe, 2009: 9). 5. Ngoài ra, trong các tư liệu của EFEO và cuốn Souverains et Notabilités d’Indochine (Hoàng tộc và các danh nhân Đông Dương) có nói Nguyễn Văn Tố còn là Phó Chủ tịch thứ nhất Hội Khuyến khích Mỹ thuật và Kỹ nghệ Việt Nam (Société annamite d'Encouragement à l'Art et à l'Industrie, thành lập vào năm 1934) và Ủy viên Hội đồng thành phố 24 Th“ng tin Khoa học xžÝ hội, số 11.2016 Hà Nội (Conseiller municipal de Hanoi) (Xem: Souverains et Notabilités d’Indochine, 1943). III. Nhà báo Nguyễn Văn Tố tham gia viết bài trên nhiều báo, tạp chí, nhất là các báo, tạp chí truyền bá, phổ biến kiến thức bằng tiếng Pháp và chữ Quốc ngữ. Các bài viết của ông cũng đề cập đến rất nhiều lĩnh vực khác nhau. Có thể kể đến một số tờ báo, tạp chí tiêu biểu như: 1. Pháp viện báo (Revue Judiciaire Franco-Annamite)(*): Nguyễn Văn Tố đã gần như là thành viên chính của Tạp chí khi ông viết loạt bài về tục lệ Việt Nam: “Mấy cái vấn đề về tục lệ nước Nam” (1931, 1932), “Luật câu thúc thân thể đối với người bản xứ về dân sự và thương sự” (1931). Ở loạt bài này, Nguyễn Văn Tố viết bằng tiếng Pháp và có phần tóm lược bằng chữ Quốc ngữ. Ngoài ra, trong các số báo đều có mục Thư mục phân tích do Nguyễn Văn Tố biên soạn. 2. Nam Phong tạp chí(**): Trong tạp chí này, các bài viết của Nguyễn Văn Tố được viết bằng tiếng Pháp có thể kể đến là: “Cá nhân trong xã hội Việt Nam cổ” (Luận văn của Nguyễn Mạnh Tường) (1930), “Về vấn đề lòng yêu nước và chủ nghĩa dân tộc” (1930), “Đạo đức Việt và (*) Đây là tạp chí ra hàng tháng, xuất bản số đầu từ tháng 5/1931 và được sự bảo trợ của một số thành viên thuộc chính quyền bảo hộ, tòa án và triều đình Huế. Tạp chí đăng tải những bài viết về luật pháp tại Đông Dương bằng tiếng Pháp và tiếng Việt. (**) Tạp chí xuất bản hàng tháng bằng ba thứ tiếng Việt, Hán và Pháp. Số đầu ra ngày 1/7/1917 và đến số 210 - tháng 12/1934, thì đình bản. Nam Phong tạp chí do Phạm Quỳnh làm Chủ nhiệm và Chủ bút. Nam Phong tạp chí đăng tải nhiều bài về Triết học, Tôn giáo, Xã hội chính trị, Kinh tế, Giáo dục, Phong tục, Ngôn ngữ, Văn học, Khoa học, Mỹ thuật, Lịch sử, Địa dư đạo đức phương Tây” (1930), “Về vấn đề lịch sử và khảo cổ của Việt - Chăm, Đạo đức và tôn giáo” (1934). 3. Tuần báo Đông Dương (Indochine hebdomadaire illustré và Indochine): Trong tạp chí này, Nguyễn Văn Tố đã viết các bài bằng tiếng Pháp như: “Cha cố Alexandre de Rhodes và việc phiên âm ra chữ Quốc ngữ” (1941), “Nước Việt cổ trước văn hóa Pháp” (1942), “Hội Trí Tri Bắc kỳ” (1942), “Giám mục d’Adran (Bá Đa Lộc) và Hoàng đế Gia Long” (1942), “Giải thưởng văn học Đông Dương - Tác phẩm của R. P. Cadière” (1945), “Sách Tàu và sách Nam” (1945). 4. Đông Thanh tạp chí(*): Một số bài viết tiêu biểu nhất của Nguyễn Văn Tố trong tạp chí này như: “Nước Chiêm Thành” (1932), “Mỹ thuật nước nhà” (1932), “Những bài thơ tình trong Kinh thi và tục trai gái đối đáp với nhau” (1932), “Tiếng ta gốc tự tiếng nào” (1932), “Vua Gia Long có phải một bậc đại anh hùng hay không” (1932), “Di tích thành Đại La” (1932), “Nước ta đúc tiền tự đời nào” (1932), “Một đoạn Nam sử rất vẻ vang” (1932, 1933), “Khảo về tiền cổ” (1933), “Một bộ sách giáo khoa mới khảo (*) Do ông chủ nhà in Ngô Tử Hạ sáng lập, xuất bản mỗi tháng 2 kỳ vào ngày 1 và 15 hàng tháng. Số 1 ra ngày 1/7/1932. Mục đích của Đông Thanh tạp chí là nhằm bảo tồn, duy trì ngôn ngữ, phong tục, lễ nghi của người Việt, chủ trương “Tân-cựu hòa hợp” và khuyến khích theo lối Tây học nhưng vẫn giữ được bản sắc của dân tộc. Đông Thanh tạp chí quy tụ được nhiều cây bút xuất sắc như Sở Cuồng Lê Dư, Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố, Đồ Nam Tử Nguyễn Trọng Thuật, Ưu Thiên Bùi Kỷ với nhiều bài viết, biên khảo có giá trị. Tuy nhiên, tạp chí này chỉ tồn tại được 35 số thì đình bản (năm 1934). Đến năm 1935 tục bản từ số 36 nhưng chỉ đến số 38 lại đình bản. Sau đó rải rác ra được vài số rồi chính thức đình bản ở số 43 (số ra ngày 1/11/1935). Học giả Ứng H’e Nguyễn Văn Tố 25 về Nho giáo” (1933), “Những điều luật nên sửa lại” (1933) 5. Báo Thanh Nghị(*): Các bài viết của Nguyễn Văn Tố như: “Thanh niên đối với sự học” (1942), “Thanh niên đối với lễ giáo” (1942), “Thanh niên đối với cần lao” (1943), “Thanh niên đối với việc làng” (1943), “Thanh niên với âm nhạc” (1943), “Sử liệu: Sử ta so với sử Tàu” (1944), “Nền giáo dục bình dân” (1945). 6. Tạp chí Tri Tân(**): Nguyễn Văn Tố đã góp bài thường xuyên trên hầu hết các số của Tri Tân với rất nhiều thể loại bài viết như nghiên cứu về lịch sử, khảo cứu văn hóa Các bài viết của ông lấy tên là Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố, trong đó có nhiều bài viết đăng tải ở nhiều số như: “Tài liệu để đính chính những bài văn cổ” (1941, 1942, 1943, 1944, 1945); “Bia Văn Miếu: Những ông nghè triều Lê” (1941, 1942, 1943, 1944, 1945); “Đại Nam dật sử” (1943, 1944, 1945); “Việt Nam văn học sử” (1944, 1945); và những bài khác như: “Những truyện vẻ vang trong sử Đại Việt” (1945), “Ngày xưa, khi mới độc lập, nước ta sắp đặt công việc ra thế nào?” (1945), “Truyền bá (*) Báo ra hàng tuần vào ngày thứ Bảy, do Vũ Đình Hòe làm Chủ nhiệm. Tiêu chí của Báo là nghị luận, văn chương và khảo cứu các lĩnh vực: lịch sử, văn học, mỹ thuật và văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và xã hội, nông nghiệp, chăn nuôi và nông thôn, luật pháp, hoạt động xã hội và đời sống thường ngày, tình hình quốc tế, nghiên cứu về các hệ thống chính trị, xã luận và các bài bình luận. Báo đã quy tụ được hầu hết các nhà trí thức đương thời trong nhiều ngành khoa học khác nhau. (**) Tạp chí do Nguyễn Tường Phượng làm chủ bút. Số đầu ra từ tháng 3/6/1941, số cuối là ngày 22/11/1945, tổng cộng 212 số báo. Cái đích của Tạp chí nhằm “Ôn cũ, biết mới” (theo chữ Hán Ôn cố tri tân) trong nhiều lĩnh vực khác nhau như sử học, dân tộc học, triết học, ngôn ngữ học, nghiên cứu và phê bình văn học,v.v... Quốc ngữ với nạn chống thất học” (1945), “Phép quân điền của nước ta” (1945), “Nước ta xưa có được tự do ngôn luận không” (1945), “Tinh thần thượng võ” (1945), Ngoài ra, Nguyễn Văn Tố còn viết nhiều bài khác trên các báo và tạp chí bằng tiếng Pháp và tiếng Việt như: “Tương lai xứ Bắc kỳ” (Avenir du Tonkin), “Nước Nam mới” (Annam nouveau), “Tao đàn” Đương thời, danh tiếng của Nguyễn Văn Tố được xếp vào loại tứ danh kiệt “Quỳnh, Vĩnh, Tố, Tốn” (Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Văn Tố, Phạm Duy Tốn). IV. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nguyễn Văn Tố 1. Cuối tháng 8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời Nguyễn Văn Tố làm Bộ trưởng Bộ Cứu tế Xã hội trong Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 6/1/1946, ông được bầu là đại biểu Quốc hội khóa 1 nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại thành phố Nam Định. Kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa 1 nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2/3/1946 tại Hà Nội, Quốc hội đã bầu Nguyễn Văn Tố là Trưởng ban Ban Thường trực Quốc hội (Chủ tịch Quốc hội hiện nay). Ngày 3/11/1946, ông được cử là Quốc vụ khanh. Tuy vậy, ông vẫn giữ một phòng tại Đông phương Bác cổ Học viện tại 26 Lý Thường Kiệt để làm việc (Nguyễn Thiệu Lâu, 1994). Vào cuối những năm 1960, khi dọn bàn làm việc của ông Nguyễn Văn Tố để Thư viện KHXH chuẩn bị đi sơ tán, mọi người thấy trong ngăn kéo bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi ông Nguyễn Văn Tố ngày 4/5/1946: 26 Th“ng tin Khoa học xžÝ hội, số 11.2016 “Thưa Cụ! Hôm chủ nhật đồng bào Thái Bình có cho tôi hai chai nước mắm làm bằng tôm. “Vật khinh tình trọng” từ chối không được, tôi phải nhận lấy cho bằng lòng anh em. Nay tôi xin gửi biếu Cụ một chai, và xin chúc Cụ mạnh khỏe. Lời chào thân ái! Hồ Chí Minh” Bức thư này đã gửi cho Bảo tàng Cách mạng Việt Nam và hiện lưu giữ tại Bảo tàng Hồ Chí Minh. 2. Khi quân Pháp tấn công lên Việt Bắc tháng 10/1947, Nguyễn Văn Tố đã bị bắt và bị sát hại ở Bắc Kạn ngày 7/10/1947 (Văn kiện Quốc hội Toàn tập, 2006, Tập 1 (1945-1960): 1531) . Mặc dù “chưa hề tập viết văn tế bao giờ”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết lời điếu Cụ Nguyễn Văn Tố, trong đó có câu: “Nhớ Cụ xưa, Văn chương thuần túy, học vấn cao sâu Thái độ hiền từ, tính tình thanh khiết Mở mang văn hóa, Cụ dốc một lòng Phú quý công danh, Cụ nào có thiết Đến ngày dân tộc giải phóng thành công Thì Cụ sẵn sàng ra tay giúp việc Giữ chức Bộ trưởng thì Cụ ngày ngày gần gũi nhân dân Đại biểu Quốc hội thì Cụ luôn tính bàn kiến thiết” (Văn kiện Quốc hội Toàn tập, 2006, Tập 1 (1945-1960): 1445)(*). (*) Thư của Hồ Chủ tịch gửi cụ Bùi Bằng Đoàn và dự thảo lời điếu cụ Nguyễn Văn Tố. V. Nguyễn Văn Tố với Thư viện KHXH Năm 1957, EFEO tại Hà Nội, nơi Nguyễn Văn Tố làm việc trước kia, đã bàn giao lại cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trụ sở và tài sản của Bảo tàng Louis Finot của EFEO (nay là Bảo tàng Lịch sử Quốc gia) và Thư viện của EFEO (nay là Thư viện KHXH - do Viện Thông tin KHXH quản lý). Tháng 5/1970, gia đình ông Nguyễn Văn Tố đã tặng Thư viện KHXH 322 cuốn sách trong kho sách cá nhân của ông, trong đó có 46 cuốn tiếng Việt và 276 cuốn tiếng Pháp. Là vốn sách do ông Tố sưu tập, nên được chọn lọc rất kỹ. Với lòng tôn trọng ông, một học giả uyên bác và là thành viên của EFEO, có nhiều đóng góp cho nền KHXH&NV nước nhà và cho đất nước, nhất là số sách ông tặng Thư viện là những cuốn sách quý hiếm, Thư viện KHXH đã lập một phông sách riêng cho số sách này và lấy ký hiệu là NVT. Số sách này đang được số hóa để phục vụ bạn đọc Tài liệu tham khảo 1. IDEO (1926), École française d’Extrême- Orient: Documents Administratif, Hà Nội. 2. IDEO (1943), Souverains et Notabilités d’Indochine, Édition du Gouvernement Général de l’Indochine. 3. Paul Mus (1977), L’angle de l’Asie, Hermann, Paris. 4. Nguyễn Phương Ngọc (2012), À l’origine de l’anthropologie au Vietnam - Recherche sur les auteurs de la première moitié du XXe siècle, Presses Universitaire de Provence. Học giả Ứng H’e Nguyễn Văn Tố 27 5. Văn kiện Quốc hội Toàn tập, Tập 1 (1945-1960), Nxb. Chính trị quốc gia, 2006, Hà Nội. 6. Nguyễn Thiệu Lâu (1994), “Nhân ngày Tết trung nguyên tưởng nhớ tới Cụ Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố”, trong: Quốc sử tạp lục, Nxb. Mũi Cà Mâu. 7. Nguyễn Văn Tố (1945), “Truyền bá Quốc ngữ với nạn chống thất học”, Tạp chí Tri Tân, số 193. 8. Trần Thị Phương Hoa (2012), Giáo dục Pháp Việt ở Bắc kỳ (1884-1945), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 9. Hồi ký Trần Huy Liệu, Nxb. Khoa học xã hội, 1991, Hà Nội. 10. Dương Trung Quốc (2000), Việt Nam những sự kiện lịch sử (1919-1945), Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 11. Ngô Thế Long, Nguyễn Thái Bình (2009), Học viện Viễn Đông Bác cổ (giai đoạn 1898-1957), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 12. Phan Huy Lê (2009), “Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố - Một chí sĩ yêu nước, một liệt sĩ anh hùng, một học giả uyên bác trong nhiều lĩnh vực”, Tạp chí Xưa & Nay, số 333, tháng 6. 13. Vũ Đình Hòe (2009), “Nguyễn Văn Tố - Vị Hội trưởng của dân trí”, Tạp chí Xưa & Nay, số 333, tháng 6. 14. Trần Đức Cường (2009), “Học giả Nguyễn Văn Tố - Người tham gia sáng lập, Hội trưởng Hội truyền bá Quốc ngữ Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số tháng 6. 15. Bùi Thiết (1993), “Nguyễn Văn Tố (1889-1947) - Con người và hoạt động khoa học”, Tạp chí Thông tin KHXH, số tháng 2. 16. Các tạp chí Pháp viện báo, Nam Phong, Tuần báo Đông Dương, Đông Thanh, Thanh Nghị, Tri Tân.
File đính kèm:
- hoc_gia_ung_hoe_nguyen_van_to.pdf