Học giả Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố

Nguyễn Văn Tố là một nhân sĩ có tiếng trước Cách mạng tháng Tám. Ông làm

việc tại Học viện Viễn Đông Bác cổ (École française d'Extrême-Orient, EFEO - một cơ

quan của Pháp được thành lập tại Đông Dương từ năm 1898), phụ trách Trị sự Tạp chí

của Học viện. Ông là nhà báo có nhiều bài viết bằng tiếng Pháp, tiếng Việt trong nhiều

lĩnh vực KHXH&NV trên nhiều báo, tạp chí đương thời như: Pháp viện báo, Nam

Phong tạp chí, Tuần báo Đông Dương, Đông Thanh tạp chí, Thanh Nghị, Tri Tân

Ông cũng tham gia các tổ chức nhằm nâng cao dân trí như Hội Trí Tri và nhất là Hội

truyền bá Quốc ngữ mà ông là một trong những người sáng lập và là Hội trưởng. Bài

viết này chủ yếu đề cập đến gia cảnh và các hoạt động xã hội của Ứng Hòe Nguyễn Văn

Tố trước năm 1945 và những tư liệu quý mà ông đã để lại cho Thư viện KHXH.

Học giả Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố trang 1

Trang 1

Học giả Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố trang 2

Trang 2

Học giả Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố trang 3

Trang 3

Học giả Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố trang 4

Trang 4

Học giả Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố trang 5

Trang 5

Học giả Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố trang 6

Trang 6

Học giả Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố trang 7

Trang 7

Học giả Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố trang 8

Trang 8

Học giả Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố trang 9

Trang 9

Học giả Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang baonam 30540
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Học giả Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Học giả Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố

Học giả Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố
 Học giả Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố 
Ngô Thế Long(*) 
Tóm tắt: Nguyễn Văn Tố là một nhân sĩ có tiếng trước Cách mạng tháng Tám. Ông làm 
việc tại Học viện Viễn Đông Bác cổ (École française d'Extrême-Orient, EFEO - một cơ 
quan của Pháp được thành lập tại Đông Dương từ năm 1898), phụ trách Trị sự Tạp chí 
của Học viện. Ông là nhà báo có nhiều bài viết bằng tiếng Pháp, tiếng Việt trong nhiều 
lĩnh vực KHXH&NV trên nhiều báo, tạp chí đương thời như: Pháp viện báo, Nam 
Phong tạp chí, Tuần báo Đông Dương, Đông Thanh tạp chí, Thanh Nghị, Tri Tân 
Ông cũng tham gia các tổ chức nhằm nâng cao dân trí như Hội Trí Tri và nhất là Hội 
truyền bá Quốc ngữ mà ông là một trong những người sáng lập và là Hội trưởng. Bài 
viết này chủ yếu đề cập đến gia cảnh và các hoạt động xã hội của Ứng Hòe Nguyễn Văn 
Tố trước năm 1945 và những tư liệu quý mà ông đã để lại cho Thư viện KHXH. 
Từ khóa: Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố, Học viện Viễn Đông Bác cổ 
Ngay sau khi từ Tân Trào về Hà Nội, 
ngày 27/8/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh 
tiếp các vị Bộ trưởng trong Chính phủ 
Lâm thời và Chính phủ Lâm thời đã ra lời 
Tuyên cáo gửi quốc dân đồng bào, trong 
đó nêu rõ:(*)“tuân theo chỉ thị của Chủ 
tịch Hồ Chí Minh, Ủy ban Dân tộc giải 
phóng đã quyết định tự cải tổ, mời thêm 
một số nhân sĩ tham gia Chính phủ đặng 
cùng nhau gánh vác nhiệm vụ nặng nề mà 
quốc dân giao phó cho” (Văn kiện Quốc 
hội toàn tập, 2006, Tập 1 (1945-1960): 
1511-1512). Một trong số nhân sĩ được 
Chủ tịch Hồ Chí Minh mời tham gia 
Chính phủ Lâm thời là học giả Nguyễn 
Văn Tố, bút hiệu Ứng Hòe. Ông được mời 
làm Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội trong 
(*)
 Nguyên cán bộ Viện Thông tin KHXH; Email: 
longngothe08@yahoo.com 
Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ 
Cộng hòa. Sau đó, ông là đại biểu Quốc 
hội khóa 1 nước Việt Nam Dân chủ Cộng 
hòa, Trưởng ban Ban Thường trực Quốc 
hội, Quốc vụ khanh của Chính phủ. 
* 
Nguyễn Văn Tố (1889-1947) sinh tại 
Đông Thành, thuộc tổng Tiền Túc, huyện 
Thọ Xương cũ (nay là phường Cửa Đông, 
quận Hoàn Kiếm), Hà Nội, trong một gia 
đình thị dân Hà Nội lâu đời(*), cha mẹ là 
(*)
 Trong nhiều tư liệu có ghi: “Nguyễn Văn Tố, 
sinh tại Hà Nội, có ông nội và cha là nhà Nho” 
(Souverains et Notabilités, 1943: 92); “xuất thân 
trong một gia đình Nho học” (Xem: Phan Huy Lê, 
2009; Trần Đức Cường, 2009). Tuy nhiên, theo 
Paul Mus, trong hồ sơ tuyển dụng Nguyễn Văn Tố 
vào năm 1905, không có một thông tin nào về việc 
học chữ Hán của Nguyễn Văn Tố. Việc thông thạo 
chữ Hán và sự hiểu biết về văn hóa truyền thống là 
18 Th“ng tin Khoa học xžÝ hội, số 11.2016 
ông Nguyễn Văn Thịnh và bà Lê Thị Kim. 
Ông có hai người anh em trai, một người 
là viên chức và người kia là thày giáo. Vợ 
ông là bà Vũ Thị Chắt, quê làng Mọc (nay 
thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh 
Xuân, Hà Nội), làm nghề buôn bán đồ 
đồng tại nhà ở phố Bát Sứ. Vợ chồng ông 
có ba người con. Con gái lớn làm nghề buôn 
bán. Con trai đầu tên là Nguyễn Văn Bảo, 
học ở trường Bảo hộ (trường Bưởi), đến 
năm 1935 sang Toulouse (Pháp) học nha 
sĩ, nhưng không thấy trở về. Con trai thứ 
hai là Nguyễn Văn Tá, giáo viên dạy môn 
Vạn vật (Sinh học, Sciences Naturelles) 
tại trường Chu Văn An, Hà Nội và khi về 
hưu đã theo người con trai cả là kỹ sư 
sang Canada vào những năm 1990(*). 
I. Công việc tại EFEO 
Sau khi theo học ở Trường Thông ngôn 
và nhận bằng Thành Chung(**) vào ngày 
do Nguyễn Văn Tố tự học và tìm hiểu (Paul Mus, 
1977: 18-19). Và thời đó, nếu xuất thân trong một 
gia đình Nho học, thì thường học để thi theo các 
khoa bảng (thi Hương, thi Hội, thi Đình) chứ 
không theo học Trường Thông ngôn. 
(*)
 Nội dung phần về gia đình của Nguyễn Văn Tố 
ghi theo lời kể lại của bà Nguyễn Thị Thành Yên, 
sinh năm 1933, cháu nội Nguyễn Văn Tố, con gái 
của Nguyễn Văn Bảo và Nguyễn Thị Thành (1915-
1991) (Xem: Nguyễn Phương Ngọc, 2012: 137). 
(**)
 Xin nói thêm về Trường Thông ngôn (Collège 
des interprètes de Hanoi): có trường sở tại Yên 
Phụ, được thành lập ngày 28/12/1886 theo Quyết 
định của tướng Charles-Auguste-Louis Warnet, 
Quyền Tổng sứ Trung Bắc kỳ. Để có thể thi vào 
Trường Thông ngôn Yên Phụ, các thí sinh đã phải 
học xong chương trình tiểu học và: 
- Đọc viết và dịch được chữ Hán thông dụng 
- Viết một bài luận bằng chữ Quốc ngữ 
- Biết làm bốn phép tính 
- Viết và đọc được một bài đơn giản bằng tiếng Pháp. 
Trường Thông ngôn có mục tiêu chính là đào tạo 
nhân viên vừa có thể phiên dịch tiếng Pháp, vừa biết 
chữ Hán. Ngoài tiếng Pháp và chữ Hán, học sinh 
còn “học tính, địa dư, sử ký, sử ký của nước nhà”. 
Sau khi theo học 3 năm, học sinh được cấp bằng 
trung học (Diplôme de fin d’études complémentaires 
8/6/1905, ở tuổi 16, ông đã được Alfred 
Foucher, quyền Giám đốc EFEO lúc đó, 
tuyển chọn làm phán sự tạm tuyển 
(secrétaire temporaire) từ ngày 1/8/1905 
(Nguyễn Phương Ngọc, 2012: 138). Đến 
khi đỗ đầu trong kỳ thi ngạch Phán sự - 
Thông dịch (secrétaire interprète) do Tòa 
Thống sứ Bắc kỳ tổ chức ... à tôi cùng mấy nhân sĩ là 
Bùi Kỷ, Nguyễn Văn Tố, Trần Trọng 
Kim Hội nghị đi tới việc xin phép 
(*)
 Bulletin de la Société d’Enseignement Mutuel 
du Tonkin, Tome 3, No1 (1-3/1922), p.1. 
(**)
 Bulletin de la Société d’Enseignement Mutuel 
du Tonkin, Tome 14, No3 (7-9/1934), tr.495. 
(***)
 “Giảng dạy đạo đức” (1931), “Nghiên cứu 
khoa học các tôn giáo” (1933), “Các bài thơ chưa 
xuất bản thời Nhà Lê” (1934), “Sự nghiệp của 
Nguyễn Văn Vĩnh” (1936), “Pétrus Ký” (1837-
1838) (1937) 
Học giả Ứng H’e Nguyễn Văn Tố 23 
thành lập một hội, trước định là Hội 
Chống nạn thất học” (Hồi ký Trần Huy 
Liệu, 1991: 214). Hội nghị cử học giả 
Nguyễn Văn Tố, Hội trưởng Hội Trí Tri 
đứng ra đảm nhiệm việc làm thủ tục, 
thành lập và trực tiếp làm Hội trưởng Hội 
Truyền bá Quốc ngữ. 
Trong bài viết “Truyền bá Quốc ngữ 
với nạn chống thất học”, Nguyễn Văn Tố 
đã giải thích “Hội Truyền bá Quốc ngữ 
nghĩa là truyền bá các môn học bằng chữ 
Quốc ngữ, tôn chỉ là nâng cao dân trí, mục 
đích là muốn cho đồng bào ai ai cũng biết 
đọc biết viết chữ nước nhà, để xây dựng 
cuộc tương lai cho mau chóng” (Nguyễn 
Văn Tố, 1945: 3-4). Với tinh thần đó, 
Nguyễn Văn Tố yêu cầu “những người đã 
được Hội dạy chữ phải cố gắng dạy lại 
cho một số người thất học khác xung 
quanh mình”. 
Hội Truyền bá Quốc ngữ còn chủ 
trương tổ chức các cuộc diễn thuyết, xuất 
bản sách, lập thư viện bình dân để phổ 
biến kiến thức cho nhân dân. Cuộc diễn 
thuyết lớn nhất của Hội được tổ chức vào 
ngày 25/8/1938 tại Hội quán thể thao An 
Nam đường Charles Coulier (nay là phố 
Khúc Hạo, Hà Nội). Tại đây, Nguyễn Văn 
Tố đã giới thiệu về mục đích và tôn chỉ 
của Hội Truyền bá Quốc ngữ đang trong 
quá trình thành lập. Mặc dù đến ngày 
29/7/1938, Thống sứ Bắc kỳ mới ra quyết 
định số 3622-A phê duyệt đơn xin lập Hội 
ngày 8/4/1938 của học giả Nguyễn Văn 
Tố, nhưng ngày 25/5/1938 đã được coi là 
ngày chính thức đánh dấu sự ra đời của 
Hội Truyền bá Quốc ngữ (Trần Đức 
Cường, 2009: 26, 29). Trụ sở của Hội tại 
59 Hàng Quạt chính là trụ sở của Hội Trí 
Tri, do Nguyễn Văn Tố làm Hội trưởng. 
Tiếp sau ở Hà Nội, Hội Truyền bá 
Quốc ngữ ở Trung kỳ được thành lập theo 
giấy phép ngày 5/1/1939 và ở Nam kỳ 
ngày 18/8/1944. 
Tại Hội nghị Giáo khoa toàn quốc tổ 
chức vào dịp kỷ niệm 6 năm thành lập Hội 
từ 29-30/7/1944, tại Hà Nội, Hội trưởng 
Nguyễn Văn Tố đã tổng kết: Hội truyền 
bá Quốc ngữ Trung ương đã mở được 17 
chi nhánh ở Bắc kỳ với 820 lớp học, 2.903 
giáo viên dạy cho 41.118 người biết đọc, 
biết viết; ở Trung kỳ có 11 chi nhánh... 
(Dương Trung Quốc, 2000: 280, 281). 
Báo Tin tức (cơ quan của Mặt trận 
Dân chủ) đã nhận xét “Hội Truyền bá 
Quốc ngữ là trường học văn hóa rất rộng 
lớn và cũng là trường học yêu nước, yêu 
dân” (Dương Trung Quốc, 2000: 280-281). 
Ông Vũ Đình Hòe (Chủ nhiệm báo 
Thanh Nghị, sau là Bộ trưởng Bộ Quốc 
gia Giáo dục trong Chính phủ Lâm thời 
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) nói về 
Nguyễn Văn Tố và Hội Truyền bá Quốc 
ngữ như sau: “Cụ có lối nói bình dân, thái 
độ khiêm nhường, chân tình dễ thương. 
Đi thanh tra lớp học, cụ thường lân la vào 
các nhà đồng bào nghèo, giục theo lớp, 
tiện thể hỏi han về đời sống, công việc 
làm ăn, được bà con mến lắm Mặt 
khác, cụ lại khéo ngoại giao với các cụ 
lớn Tây, Ta, sách lược khi cương khi nhu, 
có lùi có tiến, nhờ vậy Hội nhiều phen 
vượt thác ghềnh suôn sẻ” (Vũ Đình Hòe, 
2009: 9). 
5. Ngoài ra, trong các tư liệu của 
EFEO và cuốn Souverains et Notabilités 
d’Indochine (Hoàng tộc và các danh nhân 
Đông Dương) có nói Nguyễn Văn Tố còn 
là Phó Chủ tịch thứ nhất Hội Khuyến 
khích Mỹ thuật và Kỹ nghệ Việt Nam 
(Société annamite d'Encouragement à 
l'Art et à l'Industrie, thành lập vào năm 
1934) và Ủy viên Hội đồng thành phố 
24 Th“ng tin Khoa học xžÝ hội, số 11.2016 
Hà Nội (Conseiller municipal de Hanoi) 
(Xem: Souverains et Notabilités 
d’Indochine, 1943). 
III. Nhà báo 
Nguyễn Văn Tố tham gia viết bài trên 
nhiều báo, tạp chí, nhất là các báo, tạp chí 
truyền bá, phổ biến kiến thức bằng tiếng 
Pháp và chữ Quốc ngữ. Các bài viết của 
ông cũng đề cập đến rất nhiều lĩnh vực 
khác nhau. Có thể kể đến một số tờ báo, 
tạp chí tiêu biểu như: 
1. Pháp viện báo (Revue Judiciaire 
Franco-Annamite)(*): Nguyễn Văn Tố đã 
gần như là thành viên chính của Tạp chí 
khi ông viết loạt bài về tục lệ Việt Nam: 
“Mấy cái vấn đề về tục lệ nước Nam” 
(1931, 1932), “Luật câu thúc thân thể đối 
với người bản xứ về dân sự và thương 
sự” (1931). Ở loạt bài này, Nguyễn Văn 
Tố viết bằng tiếng Pháp và có phần tóm 
lược bằng chữ Quốc ngữ. Ngoài ra, trong 
các số báo đều có mục Thư mục phân tích 
do Nguyễn Văn Tố biên soạn. 
2. Nam Phong tạp chí(**): Trong tạp 
chí này, các bài viết của Nguyễn Văn Tố 
được viết bằng tiếng Pháp có thể kể đến 
là: “Cá nhân trong xã hội Việt Nam 
cổ” (Luận văn của Nguyễn Mạnh Tường) 
(1930), “Về vấn đề lòng yêu nước và chủ 
nghĩa dân tộc” (1930), “Đạo đức Việt và 
(*)
 Đây là tạp chí ra hàng tháng, xuất bản số đầu từ 
tháng 5/1931 và được sự bảo trợ của một số thành 
viên thuộc chính quyền bảo hộ, tòa án và triều đình 
Huế. Tạp chí đăng tải những bài viết về luật pháp 
tại Đông Dương bằng tiếng Pháp và tiếng Việt. 
(**)
 Tạp chí xuất bản hàng tháng bằng ba thứ tiếng 
Việt, Hán và Pháp. Số đầu ra ngày 1/7/1917 và đến 
số 210 - tháng 12/1934, thì đình bản. Nam Phong 
tạp chí do Phạm Quỳnh làm Chủ nhiệm và Chủ 
bút. Nam Phong tạp chí đăng tải nhiều bài về Triết 
học, Tôn giáo, Xã hội chính trị, Kinh tế, Giáo dục, 
Phong tục, Ngôn ngữ, Văn học, Khoa học, Mỹ 
thuật, Lịch sử, Địa dư 
đạo đức phương Tây” (1930), “Về vấn đề 
lịch sử và khảo cổ của Việt - Chăm, Đạo 
đức và tôn giáo” (1934). 
3. Tuần báo Đông Dương (Indochine 
hebdomadaire illustré và Indochine): 
Trong tạp chí này, Nguyễn Văn Tố đã 
viết các bài bằng tiếng Pháp như: “Cha cố 
Alexandre de Rhodes và việc phiên âm ra 
chữ Quốc ngữ” (1941), “Nước Việt cổ 
trước văn hóa Pháp” (1942), “Hội Trí Tri 
Bắc kỳ” (1942), “Giám mục d’Adran (Bá 
Đa Lộc) và Hoàng đế Gia Long” (1942), 
“Giải thưởng văn học Đông Dương - Tác 
phẩm của R. P. Cadière” (1945), “Sách 
Tàu và sách Nam” (1945). 
4. Đông Thanh tạp chí(*): Một số bài 
viết tiêu biểu nhất của Nguyễn Văn Tố 
trong tạp chí này như: “Nước Chiêm 
Thành” (1932), “Mỹ thuật nước nhà” 
(1932), “Những bài thơ tình trong Kinh 
thi và tục trai gái đối đáp với nhau” 
(1932), “Tiếng ta gốc tự tiếng nào” 
(1932), “Vua Gia Long có phải một bậc 
đại anh hùng hay không” (1932), “Di tích 
thành Đại La” (1932), “Nước ta đúc tiền 
tự đời nào” (1932), “Một đoạn Nam sử rất 
vẻ vang” (1932, 1933), “Khảo về tiền cổ” 
(1933), “Một bộ sách giáo khoa mới khảo 
(*)
 Do ông chủ nhà in Ngô Tử Hạ sáng lập, xuất 
bản mỗi tháng 2 kỳ vào ngày 1 và 15 hàng tháng. 
Số 1 ra ngày 1/7/1932. Mục đích của Đông Thanh 
tạp chí là nhằm bảo tồn, duy trì ngôn ngữ, phong 
tục, lễ nghi của người Việt, chủ trương “Tân-cựu 
hòa hợp” và khuyến khích theo lối Tây học nhưng 
vẫn giữ được bản sắc của dân tộc. 
Đông Thanh tạp chí quy tụ được nhiều cây bút 
xuất sắc như Sở Cuồng Lê Dư, Ứng Hòe Nguyễn 
Văn Tố, Đồ Nam Tử Nguyễn Trọng Thuật, Ưu 
Thiên Bùi Kỷ với nhiều bài viết, biên khảo có giá 
trị. Tuy nhiên, tạp chí này chỉ tồn tại được 35 số 
thì đình bản (năm 1934). Đến năm 1935 tục bản từ 
số 36 nhưng chỉ đến số 38 lại đình bản. Sau đó rải 
rác ra được vài số rồi chính thức đình bản ở số 43 
(số ra ngày 1/11/1935). 
Học giả Ứng H’e Nguyễn Văn Tố 25 
về Nho giáo” (1933), “Những điều luật 
nên sửa lại” (1933) 
5. Báo Thanh Nghị(*): Các bài viết của 
Nguyễn Văn Tố như: “Thanh niên đối với 
sự học” (1942), “Thanh niên đối với lễ 
giáo” (1942), “Thanh niên đối với cần 
lao” (1943), “Thanh niên đối với việc 
làng” (1943), “Thanh niên với âm nhạc” 
(1943), “Sử liệu: Sử ta so với sử Tàu” 
(1944), “Nền giáo dục bình dân” (1945). 
6. Tạp chí Tri Tân(**): Nguyễn Văn 
Tố đã góp bài thường xuyên trên hầu hết 
các số của Tri Tân với rất nhiều thể loại 
bài viết như nghiên cứu về lịch sử, khảo 
cứu văn hóa Các bài viết của ông lấy 
tên là Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố, trong đó 
có nhiều bài viết đăng tải ở nhiều số như: 
“Tài liệu để đính chính những bài văn 
cổ” (1941, 1942, 1943, 1944, 1945); “Bia 
Văn Miếu: Những ông nghè triều Lê” 
(1941, 1942, 1943, 1944, 1945); “Đại 
Nam dật sử” (1943, 1944, 1945); “Việt 
Nam văn học sử” (1944, 1945); và những 
bài khác như: “Những truyện vẻ vang 
trong sử Đại Việt” (1945), “Ngày xưa, 
khi mới độc lập, nước ta sắp đặt công 
việc ra thế nào?” (1945), “Truyền bá 
(*)
 Báo ra hàng tuần vào ngày thứ Bảy, do Vũ Đình 
Hòe làm Chủ nhiệm. Tiêu chí của Báo là nghị luận, 
văn chương và khảo cứu các lĩnh vực: lịch sử, văn 
học, mỹ thuật và văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh 
tế và xã hội, nông nghiệp, chăn nuôi và nông thôn, 
luật pháp, hoạt động xã hội và đời sống thường 
ngày, tình hình quốc tế, nghiên cứu về các hệ 
thống chính trị, xã luận và các bài bình luận. Báo 
đã quy tụ được hầu hết các nhà trí thức đương thời 
trong nhiều ngành khoa học khác nhau. 
(**)
 Tạp chí do Nguyễn Tường Phượng làm chủ 
bút. Số đầu ra từ tháng 3/6/1941, số cuối là ngày 
22/11/1945, tổng cộng 212 số báo. Cái đích của 
Tạp chí nhằm “Ôn cũ, biết mới” (theo chữ Hán Ôn 
cố tri tân) trong nhiều lĩnh vực khác nhau như sử 
học, dân tộc học, triết học, ngôn ngữ học, nghiên 
cứu và phê bình văn học,v.v... 
Quốc ngữ với nạn chống thất học” (1945), 
“Phép quân điền của nước ta” (1945), 
“Nước ta xưa có được tự do ngôn luận 
không” (1945), “Tinh thần thượng võ” 
(1945), 
Ngoài ra, Nguyễn Văn Tố còn viết 
nhiều bài khác trên các báo và tạp chí 
bằng tiếng Pháp và tiếng Việt như: 
“Tương lai xứ Bắc kỳ” (Avenir du 
Tonkin), “Nước Nam mới” (Annam 
nouveau), “Tao đàn” 
Đương thời, danh tiếng của Nguyễn 
Văn Tố được xếp vào loại tứ danh kiệt 
“Quỳnh, Vĩnh, Tố, Tốn” (Phạm Quỳnh, 
Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Văn Tố, Phạm 
Duy Tốn). 
IV. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nguyễn 
Văn Tố 
1. Cuối tháng 8/1945, Chủ tịch Hồ 
Chí Minh đã mời Nguyễn Văn Tố làm Bộ 
trưởng Bộ Cứu tế Xã hội trong Chính phủ 
Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. 
Ngày 6/1/1946, ông được bầu là đại biểu 
Quốc hội khóa 1 nước Việt Nam Dân chủ 
Cộng hòa tại thành phố Nam Định. Kỳ 
họp thứ nhất của Quốc hội khóa 1 nước 
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 
2/3/1946 tại Hà Nội, Quốc hội đã bầu 
Nguyễn Văn Tố là Trưởng ban Ban 
Thường trực Quốc hội (Chủ tịch Quốc hội 
hiện nay). Ngày 3/11/1946, ông được cử 
là Quốc vụ khanh. Tuy vậy, ông vẫn giữ 
một phòng tại Đông phương Bác cổ Học 
viện tại 26 Lý Thường Kiệt để làm việc 
(Nguyễn Thiệu Lâu, 1994). 
Vào cuối những năm 1960, khi dọn 
bàn làm việc của ông Nguyễn Văn Tố để 
Thư viện KHXH chuẩn bị đi sơ tán, mọi 
người thấy trong ngăn kéo bức thư của 
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi ông Nguyễn 
Văn Tố ngày 4/5/1946: 
26 Th“ng tin Khoa học xžÝ hội, số 11.2016 
“Thưa Cụ! 
Hôm chủ nhật đồng bào Thái Bình có 
cho tôi hai chai nước mắm làm bằng tôm. 
“Vật khinh tình trọng” từ chối không được, 
tôi phải nhận lấy cho bằng lòng anh em. 
Nay tôi xin gửi biếu Cụ một chai, và 
xin chúc Cụ mạnh khỏe. 
Lời chào thân ái! 
Hồ Chí Minh” 
Bức thư này đã gửi cho Bảo tàng 
Cách mạng Việt Nam và hiện lưu giữ tại 
Bảo tàng Hồ Chí Minh. 
2. Khi quân Pháp tấn công lên Việt 
Bắc tháng 10/1947, Nguyễn Văn Tố đã bị 
bắt và bị sát hại ở Bắc Kạn ngày 7/10/1947 
(Văn kiện Quốc hội Toàn tập, 2006, Tập 1 
(1945-1960): 1531) . 
Mặc dù “chưa hề tập viết văn tế bao 
giờ”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết lời 
điếu Cụ Nguyễn Văn Tố, trong đó có câu: 
“Nhớ Cụ xưa, 
Văn chương thuần túy, học vấn cao sâu 
Thái độ hiền từ, tính tình thanh khiết 
Mở mang văn hóa, Cụ dốc một lòng 
Phú quý công danh, Cụ nào có thiết 
Đến ngày dân tộc giải phóng thành 
công 
Thì Cụ sẵn sàng ra tay giúp việc 
Giữ chức Bộ trưởng thì Cụ ngày ngày 
gần gũi nhân dân 
Đại biểu Quốc hội thì Cụ luôn tính 
bàn kiến thiết” 
(Văn kiện Quốc hội Toàn tập, 2006, 
Tập 1 (1945-1960): 1445)(*). 
(*)
 Thư của Hồ Chủ tịch gửi cụ Bùi Bằng Đoàn và 
dự thảo lời điếu cụ Nguyễn Văn Tố. 
V. Nguyễn Văn Tố với Thư viện KHXH 
Năm 1957, EFEO tại Hà Nội, nơi 
Nguyễn Văn Tố làm việc trước kia, đã bàn 
giao lại cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ 
Cộng hòa trụ sở và tài sản của Bảo tàng 
Louis Finot của EFEO (nay là Bảo tàng 
Lịch sử Quốc gia) và Thư viện của EFEO 
(nay là Thư viện KHXH - do Viện Thông 
tin KHXH quản lý). 
Tháng 5/1970, gia đình ông Nguyễn 
Văn Tố đã tặng Thư viện KHXH 322 
cuốn sách trong kho sách cá nhân của ông, 
trong đó có 46 cuốn tiếng Việt và 276 
cuốn tiếng Pháp. Là vốn sách do ông Tố 
sưu tập, nên được chọn lọc rất kỹ. Với 
lòng tôn trọng ông, một học giả uyên bác 
và là thành viên của EFEO, có nhiều đóng 
góp cho nền KHXH&NV nước nhà và cho 
đất nước, nhất là số sách ông tặng Thư 
viện là những cuốn sách quý hiếm, Thư 
viện KHXH đã lập một phông sách riêng 
cho số sách này và lấy ký hiệu là NVT. Số 
sách này đang được số hóa để phục vụ 
bạn đọc  
Tài liệu tham khảo 
1. IDEO (1926), École française d’Extrême-
Orient: Documents Administratif, 
Hà Nội. 
2. IDEO (1943), Souverains et Notabilités 
d’Indochine, Édition du Gouvernement 
Général de l’Indochine. 
3. Paul Mus (1977), L’angle de l’Asie, 
Hermann, Paris. 
4. Nguyễn Phương Ngọc (2012), À 
l’origine de l’anthropologie au Vietnam 
- Recherche sur les auteurs de la 
première moitié du XXe siècle, Presses 
Universitaire de Provence. 
Học giả Ứng H’e Nguyễn Văn Tố 27 
5. Văn kiện Quốc hội Toàn tập, Tập 1 
(1945-1960), Nxb. Chính trị quốc gia, 
2006, Hà Nội. 
6. Nguyễn Thiệu Lâu (1994), “Nhân 
ngày Tết trung nguyên tưởng nhớ tới 
Cụ Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố”, trong: 
Quốc sử tạp lục, Nxb. Mũi Cà Mâu. 
7. Nguyễn Văn Tố (1945), “Truyền bá 
Quốc ngữ với nạn chống thất học”, 
Tạp chí Tri Tân, số 193. 
8. Trần Thị Phương Hoa (2012), Giáo 
dục Pháp Việt ở Bắc kỳ (1884-1945), 
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 
9. Hồi ký Trần Huy Liệu, Nxb. Khoa học 
xã hội, 1991, Hà Nội. 
10. Dương Trung Quốc (2000), Việt Nam 
những sự kiện lịch sử (1919-1945), 
Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 
11. Ngô Thế Long, Nguyễn Thái Bình 
(2009), Học viện Viễn Đông Bác cổ 
(giai đoạn 1898-1957), Nxb. Khoa 
học xã hội, Hà Nội. 
12. Phan Huy Lê (2009), “Ứng Hòe 
Nguyễn Văn Tố - Một chí sĩ yêu nước, 
một liệt sĩ anh hùng, một học giả uyên 
bác trong nhiều lĩnh vực”, Tạp chí 
Xưa & Nay, số 333, tháng 6. 
13. Vũ Đình Hòe (2009), “Nguyễn Văn 
Tố - Vị Hội trưởng của dân trí”, Tạp 
chí Xưa & Nay, số 333, tháng 6. 
14. Trần Đức Cường (2009), “Học giả 
Nguyễn Văn Tố - Người tham gia 
sáng lập, Hội trưởng Hội truyền bá 
Quốc ngữ Việt Nam”, Tạp chí Nghiên 
cứu Đông Nam Á, số tháng 6. 
15. Bùi Thiết (1993), “Nguyễn Văn Tố 
(1889-1947) - Con người và hoạt động 
khoa học”, Tạp chí Thông tin KHXH, 
số tháng 2. 
16. Các tạp chí Pháp viện báo, Nam 
Phong, Tuần báo Đông Dương, Đông 
Thanh, Thanh Nghị, Tri Tân. 

File đính kèm:

  • pdfhoc_gia_ung_hoe_nguyen_van_to.pdf