Hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam năm 2014
Sự bất ổn về kinh tế và chính trị thế giới tiếp tục ảnh hưởng đến tốc độ phát triển kinh tế
xã hội của Việt Nam. Trước bối cảnh kinh tế thế giới phục hồi chậm sau suy thoái toàn cầu,
kinh tế xã hội Việt Nam tất yếu cũng trong tình trạng chung như vậy. Một trong những dấu
hiệu cho thấy sự phục hồi chậm của kinh tế Việt Nam năm 2014 được đánh dấu bằng việc
kim ngạch xuất khẩu vẫn tiếp tục tăng, với tốc độ tăng là 13,6%, kim ngạch nhập khẩu tăng
12,1% so với năm 2013. Nếu chỉ nhìn sơ qua về tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất nhập
khẩu, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu tăng nhanh và nhiều hơn so với tốc độ tăng trưởng nhập
khẩu thì hoạt động thương mại quốc tế đó được coi là có hiệu quả, đem lại những lợi nhuận
nhất định cho nền kinh tế. Để đạt được tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu, kim ngạch
nhập khẩu như vừa qua, không thể không kể đến tác động từ việc những hiệp định thương
mại tự do (FTA) như Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương - TPP, Hiệp định thương mại
tự do EU-Việt Nam, Cộng đồng kinh tế ASEAN được tiến hành đàm phán và dự kiến hoàn
thành vào năm 2015. Đặt trong bối cảnh nền kinh tế thế giới nói chung, kinh tế Việt Nam nói
riêng, hoạt động thương mại quốc tế Việt Nam cũng đã đạt được những thành tựu nhất định.
Từ khóa: Thương mại quốc tế, thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam năm 2014
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP 32 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 71 (03/2015) 1. Xuất nhập khẩu hàng hóa 1.1. Kim ngạch xuất nhập khẩu Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm 2014 đạt 150 tỷ USD, tăng 13,6% so với năm 2013 (đạt 132,2 tỷ USD). So với tốc độ tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cao hơn, song nếu so với tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của các năm trước, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu năm nay tiếp tục giảm so với các năm trước. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu năm 2013 tăng 15,4%, năm 2012 tăng 18% và năm 2011 tăng 34,2% HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM NĂM 2014 Vũ Huyền Phương* Tóm tắt Sự bất ổn về kinh tế và chính trị thế giới tiếp tục ảnh hưởng đến tốc độ phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam. Trước bối cảnh kinh tế thế giới phục hồi chậm sau suy thoái toàn cầu, kinh tế xã hội Việt Nam tất yếu cũng trong tình trạng chung như vậy. Một trong những dấu hiệu cho thấy sự phục hồi chậm của kinh tế Việt Nam năm 2014 được đánh dấu bằng việc kim ngạch xuất khẩu vẫn tiếp tục tăng, với tốc độ tăng là 13,6%, kim ngạch nhập khẩu tăng 12,1% so với năm 2013. Nếu chỉ nhìn sơ qua về tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu tăng nhanh và nhiều hơn so với tốc độ tăng trưởng nhập khẩu thì hoạt động thương mại quốc tế đó được coi là có hiệu quả, đem lại những lợi nhuận nhất định cho nền kinh tế. Để đạt được tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu, kim ngạch nhập khẩu như vừa qua, không thể không kể đến tác động từ việc những hiệp định thương mại tự do (FTA) như Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương - TPP, Hiệp định thương mại tự do EU-Việt Nam, Cộng đồng kinh tế ASEAN được tiến hành đàm phán và dự kiến hoàn thành vào năm 2015. Đặt trong bối cảnh nền kinh tế thế giới nói chung, kinh tế Việt Nam nói riêng, hoạt động thương mại quốc tế Việt Nam cũng đã đạt được những thành tựu nhất định. Từ khóa: Thương mại quốc tế, thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ Mã số: 132.070115. Ngày nhận bài: 07/01/2015. Ngày hoàn thành biên tập: 03/02/2015. Ngày duyệt đăng: 03/02/2015. * TS, Trường Đại học Ngoại thương; Email: vuhphuong@yahoo.com KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP 33Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 71 (03/2015) (Tổng cục thống kê, Tình hình kinh tế xã hội năm 2011, 2012, 2013, 2014). Điều này có thể dễ hiểu, đặt trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang dần phục hồi, kinh tế Việt Nam cũng như cụ thể hoạt động xuất khẩu Việt Nam cũng đang nhích dần lên, kim ngạch xuất khẩu năm sau lớn hơn so với kim ngạch xuất khẩu của năm trước. Một trong những nguyên nhân giải thích cho việc tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu năm 2014 giảm nhẹ so với năm 2013 là do sự tác động của chỉ số giá xuất khẩu. Các năm trước, chỉ số giá xuất khẩu liên tục giảm. Năm 2012 chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa giảm 0,54% so với năm 2011, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu năm 2012 so với năm 2011 là 18%. Đến năm 2013, chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa tiếp tục giảm 2,41%, dẫn đến việc tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu năm này giảm 15,4%. Năm 2014, chỉ số giá xuất khẩu tăng nhẹ 0,79% so với năm 2013 song tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu năm 2014 chỉ tăng 13,6%. Bên cạnh đó, do những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam (như dầu thô, cao su), đem lại nguồn lợi nhuận lớn cho Việt Nam lại có chỉ số giá giảm. Trong khi đó, những mặt hàng Việt Nam chưa xuất khẩu nhiều lại có chỉ số giá xuất khẩu tăng. Điều này dẫn đến việc giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 2014 có tăng so với năm 2013 nhưng tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu chưa cao. Cụ thể: chỉ số giá xuất khẩu của một số mặt hàng tăng là: hạt tiêu tăng 14,45%; rau quả tăng 9,88%; thủy sản tăng 7,43%; hóa chất tăng 6,24%; sản phẩm hóa chất tăng 6%. Một số mặt hàng có chỉ số giá giảm mạnh là: cao su giảm 26,93%; sản phẩm từ cao su giảm 12,63%; dây điện và cáp điện giảm 10,69%; sắt thép giảm 9,59%; chất dẻo giảm 7,58%; xăng dầu các loại giảm 6,34%. Chỉ số giá xuất khẩu hàng hoá quý IV giảm 1,76% so với kỳ trước và giảm 1,06% so với cùng kỳ năm trước (Tổng cục thống kê, Tình hình kinh tế xã hội năm 2014). Kim ngạch nhập khẩu năm 2014 ước tính đạt 148 tỷ USD, tăng 12,2% so với năm 2013. Mặc dù kim ngạch nhập khẩu năm nay tăng so với năm 2013 song tốc độ tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu đã có dấu hiệu giảm. So với tốc độ tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu năm 2013, tốc độ tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu năm 2014 giảm từ 15,4% xuống còn 12,2% (năm 2013). Đây cũng có thể coi là dấu hiệu đáng mừng trong việc kiềm chế, điều tiết hoạt động nhập khẩu của Việt Nam. Một trong những nguyên nhân giải thích cho việc tốc độ tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu năm nay giảm so với năm 2013 là do chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa năm nay giảm. Chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá năm nay giảm 1,02% so với năm 2013, trong đó chỉ số giá nhập khẩu của một số mặt hàng giảm nhiều ... , Tình hình kinh tế xã hội năm 2014). Các thị trường nhập khẩu hàng hóa chính của Việt Nam không có nhiều thay đổi, vẫn là những thị trường truyền thống có mối quan hệ lâu năm với Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường này năm 2014 nhìn chung đều tăng so với năm 2013, chỉ riêng có thị trường EU thì giảm nhẹ (giảm 0,3 tỷ USD) (Tổng Cục thống kê, Tình hình kinh tế xã hội năm 2014) (Biểu đồ 3). Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 43,7 tỷ USD, tăng 18,2% so với năm 2013. Tiếp theo đó là thị trường ASEAN với kim ngạch đạt 23,1 tỷ USD, đứng thứ 3 và thứ 4 là hai thị trường Hàn Quốc và Nhật Bản. Ở từng thị trường, cơ cấu hàng nhập khẩu cũng có sự khác nhau, nhưng nhìn chung vẫn là những mặt hàng mà Việt Nam đang thiếu, cần bổ sung. Trung Quốc, thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang Việt Nam các mặt hàng như máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng (kim ngạch nhập khẩu 2014 tăng 19,7% so với 2013), mặt hàng điện thoại các loại và linh kiện (tăng 9,5%), vải các Biểu đồ 2: Cơ cấu thị trường xuất khẩu hàng hóa Việt Nam 2013 - 2014 Đơn vị tính: % 0 5 10 15 20 25 18.417.9 2013 13.9 9.9 10.2 5 24.7 20 18.6 19 12.6 9 14 .8 9.8 5.2 25 EU Hoa Kỳ Asean Trung Quốc Nhật Bản Hàn Quốc Khác Nguồn: Tính toán từ số liệu Tổng cục Thống kê, www.gso.gov.vn KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP 38 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 71 (03/2015) loại (tăng 20,7%). Thị trường ASEAN thì chủ yếu là mặt hàng xăng dầu (tăng 21,3%), máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng (tăng 13,7%), gỗ và sản phẩm gỗ (tăng 57,7%). Tương tự với Hàn Quốc, các mặt hàng như máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng, vải đều tăng. Nhật Bản thì mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là điện tử, máy tính và linh kiện, máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng. Với thị trường EU thì mặt hàng nhập khẩu cũng không khác nhiều so với các thị trường khác, với phương tiện vận tải và phụ tùng, sữa và các sản phẩm từ sữa là hai nhóm hàng được nhập khẩu nhiều vào thị trường Việt Nam. 2. Xuất nhập khẩu dịch vụ Kim ngạch xuất khẩu dịch vụ năm 2014 ước tính đạt 11 tỷ USD, tăng 2,8% so với năm 2013. Tuy nhiên, nếu so sánh về tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu dịch vụ, thì năm 2014 có tốc độ tăng trưởng chậm hơn so với năm 2013 (với mức tăng 9,1% so với năm 2012). Gần như là xuất khẩu dịch vụ năm 2014 tăng không đáng kể so với năm 2013 (kim ngạch xuất khẩu dịch vụ năm 2013 là 10,5 tỷ USD). Điều này có thể nhận thấy thông qua kim ngạch xuất khẩu dịch vụ du lịch, loại hình dịch vụ chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng kim ngạch xuất khẩu dịch vụ của Việt Nam. Năm 2013, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ du lịch là 7,5 tỷ USD (chiếm 71,4% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu dịch vụ của cả nước) thì đến năm 2014, kim ngạch này giảm xuống còn 7,3 tỷ USD (chiếm 66,3%) (Tổng Cục thống kê, Tình hình kinh tế xã hội năm 2013, 2014). Kim ngạch nhập khẩu dịch vụ năm 2014 ước đạt 15 tỷ USD cao hơn hẳn so với năm Biểu đồ 3: Cơ cấu thị trường nhập khẩu hàng hóa Việt Nam 2013 - 2014 Đơn vị tính: tỷ USD Nguồn: Tính toán từ số liệu Tổng cục Thống kê, www.gso.gov.vn KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP 39Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 71 (03/2015) 2013 (kim ngạch nhập khẩu dịch vụ đạt 11,9 tỷ USD). Trong các loại hình dịch vụ Việt Nam nhập khẩu, thì dịch vụ vận tải và bảo hiểm hàng nhập khẩu chiếm tỷ trọng cao nhất (54% tổng giá trị kim ngạch nhập khẩu dịch vụ) và tăng 12,6% so với năm 2013. Về cơ bản, kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu dịch vụ đều tăng qua các năm. Cán cân thương mại quốc tế đối với hoạt động xuất nhập khẩu dịch vụ trong thời gian từ năm 2007 cho đến nay chủ yếu nhập siêu. Trong giai đoạn đầu 2007-2008, mức độ nhập siêu dịch vụ không cao, dưới mức 1 tỷ USD. Tuy nhiên, từ năm 2009-2011, mức độ nhập siêu tăng đột biến đều trên mức 2 tỷ USD, đặc biệt năm 2011, mức độ nhập siêu đạt lên mức đỉnh điểm là 3,2 tỷ USD. Từ năm 2012-2013, mức độ nhập siêu giảm và tương đối ổn định ở mức 1,4 tỷ USD. Đến năm 2014, mức độ nhập siêu lại tăng lên và tăng lên ở mức cao nhất trong 8 năm vừa qua đạt 4 tỷ USD. Điều này có thể dễ nhận thấy, trong giai đoạn đầu mở cửa, tham gia và chính thức trở thành thành viên của WTO, Việt Nam nhập khẩu dịch vụ còn hạn chế. Trong giai đoạn đầu, các hoạt động còn dè dặt, khiêm tốn. Đến giai đoạn 2009- 2011, khi bắt đầu hội nhập sâu và rộng hơn, mức độ nhập siêu hoạt động dịch vụ của Việt Nam cũng được mở rộng hơn so với trước. Đến cuối 2011 sang đến giai đoạn 2012-2013, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, mức độ nhập siêu dịch vụ của Việt Nam có xu hướng giảm và chững lại. Song đến năm 2014, mức độ nhập siêu lại tăng lên, tăng cao hơn so với mức nhập siêu đỉnh điểm năm 2011. Điều này cho thấy những bất lợi khi Việt Nam thực hiện các cam kết mở cửa thị trường dịch vụ trong khuôn khổ WTO và cộng đồng ASEAN từ năm 2015 và Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Biểu đồ 4: Xuất nhập khẩu dịch vụ của Việt Nam giai đoạn 2007 – 2014 Nguồn: Tính toán từ số liệu Tổng cục Thống kê, www.gso.gov.vn KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP 40 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 71 (03/2015) Dương (TPP) trong tương lai không xa. Đây có thể được coi là dấu hiệu đánh dấu việc lĩnh vực dịch vụ đang ngày một đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển các hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam. 3. Nhận xét chung Trong những năm qua, xuất - nhập khẩu của Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần không nhỏ vào sự phát triển của đất nước. Xuất - nhập khẩu tăng trưởng với nhịp độ bình quân khá cao về kim ngạch, đa dạng và phong phú về mặt hàng. Thị trường xuất nhập khẩu ngày càng được mở rộng. Hoạt động thương mại quốc tế Việt Nam năm 2014 vẫn tiếp tục duy trì ở mức xuất siêu. Với mức xuất siêu năm nay lớn hơn so với mức xuất siêu năm 2013. Tuy nhiên, hoạt động thương mại quốc tế vẫn chưa được cho là phát triển ổn định và bền vững. Một trong những lí do dễ nhận thấy, là vai trò của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày một lớn, đóng góp hơn 50% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam trong năm 2014. Các doanh nghiệp trong nước chưa phát huy được vai trò cũng như sức mạnh của mình. Điều này diễn giải cho việc hoạt động thương mại quốc tế Việt Nam năm 2014 tiếp tục phụ thuộc nhiều hơn vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hay do các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện là chủ yếu. Chính vì vậy, trước xu thế mở cửa, hội nhập, một loạt các hiệp định thương mại tự do (FTA) sẽ được hoàn thành và ký kết trong năm 2015 sẽ mở ra nhiều cơ hội cũng như không ít các thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam. Cơ cấu hàng xuất khẩu tiếp tục chuyển dịch tích cực theo hướng từ việc xuất khẩu nguyên liệu thô sang xuất khẩu các mặt hàng có hàm lượng chế biến cao hơn. Sự chuyển dịch này hoàn toàn phù hợp với Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 2011 - 2020. Tuy nhiên, hiện nay, các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu chủ yếu dưới hình thức hàng gia công là chính. Năm 2014, tỷ trọng đóng góp của nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp tăng nhẹ, trong khi đó nhóm hàng nông lâm thủy sản thì giảm. Xét về lâu dài, khi nguồn lực lao động không còn là yếu tố quan trọng, mang tính quyết định tạo ra lợi thế so sánh cho Việt Nam trong đấu trường quốc tế, sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động gia công xuất khẩu của Việt Nam. Chính vì vậy, bên cạnh việc khai thác và sử dụng triệt để nguồn nhân lực như hiện tại, bản thân Việt Nam cần tiếp tục mở rộng, nghiên cứu, khai thác các nguồn lực mới nhằm nâng vị thế của mình trong hoạt động xuất khẩu nói chung, hoạt động gia công xuất khẩu nói riêng. Nhập khẩu Việt Nam năm 2014 được kiểm soát tương đối tốt. Nhóm hàng cần nhập khẩu (máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu) chiếm tỷ trọng gần 90% nhập khẩu, trong khi nhóm hàng cần kiểm soát nhập khẩu và nhóm hàng hạn chế nhập khẩu mỗi nhóm hiện chiếm tỷ trọng chưa đến 5% nhập khẩu. Tuy vậy, xét về tốc độ tăng thì hàng xa xỉ cần hạn chế nhập khẩu liên tục tăng với tốc độ khá nhanh trong nhiều tháng liên tiếp. Đáng chú ý là đất nước nông nghiệp như Việt Nam, nhập khẩu các mặt hàng rau quả cũng hơn 1 tỷ USD. Lúa mì nhập khẩu cũng tăng xấp xỉ 20%, ngô tăng 132,1%, nhập khẩu than đá tăng 36,1% (Tổng Cục thống kê, Tình hình kinh tế xã hội năm 2014). Thực hiện cam kết WTO, năm 2015 Việt Nam phải cắt giảm 13 dòng thuế (gồm 1 dòng hàng cá, 11 dòng hàng ô tô, 1 dòng hàng xe máy). Theo quy định tại Thông tư số 173/2014/TT-BTC KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP 41Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 71 (03/2015) ngày 14/11/2014 sửa đổi mức thuế nhập khẩu ưu đãi đối với một số mặt hàng, kể từ ngày 01/01/2015, thuế nhập khẩu của một số mặt hàng sẽ giảm trong đó có mặt hàng cá, đông lạnh, và một số các mặt hàng thuộc nhóm xe ô tô và các loại xe khác có động cơ được thiết kế chủ yếu để chở người Trước bối cảnh này, nhu cầu đầu tư để mở rộng sản xuất của doanh nghiệp sẽ tăng lên, cộng thêm tác động của việc giảm thuế quan nhập khẩu một số mặt hàng như trên cũng sẽ khiến nhập khẩu tăng. Ngoài ra, trong thời gian tới, Việt Nam cũng có kế hoạch nhập khẩu nhiều mặt hàng năng lượng có giá trị kim ngạch cao. Trong năm 2015, hàng loạt nhà máy nhiệt điện đi vào hoạt động nên sẽ phải tính tới việc nhập khẩu than hoặc nhập khẩu dầu thô làm nguyên liệu cho các nhà máy lọc dầu trong nước. Đây chính là những nguyên nhân dẫn đến việc kim ngạch nhập khẩu sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới. Ngoài ra, sự lệ thuộc nhập khẩu từ Trung Quốc vẫn là vấn đề lớn. Nhiều năm liên tục Trung Quốc luôn là thị trường mà Việt Nam nhập khẩu nhiều hàng hóa nhất. Dẫn đầu trong các mặt hàng nhập khẩu từ Trung Quốc phải kể đến nguyên phụ liệu dùng để sản xuất hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như dệt may, máy vi tính các loại và linh kiện, các loại vải xơ sợi dệt .Nguyên nhân chính là do các doanh nghiệp cần có nguyên phụ liệu đầu vào phục vụ hoạt động sản xuất của mình. Thay vì sản xuất ra các nguyên liệu đầu vào với chi phí cao, doanh nghiệp có thể nhập khẩu nguyên phụ liệu từ Trung Quốc và ASEAN với chất lượng tương đương và giá thành rẻ hơn nhiều (không tính đến phần nhập khẩu công nghệ). Điều này cho thấy định hướng phát triển sản xuất nguyên, nhiên, phụ liệu phục vụ các ngành hàng xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu trong nước và phát triển công nghiệp hỗ trợ chưa được thực hiện thành công. Trước bối cảnh các hiệp định mới cận kề, việc chuẩn bị các vùng nguyên liệu, phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ giúp giảm thiểu việc phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc là việc làm tất yếu và cần thiết. Để thực hiện được điều này, cần có sự phối kết hợp của nhiều cơ quan quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương, tới các doanh nghiệp, tới các hộ nông dân. Một vấn đề đáng lưu ý là giá trị gia tăng của hàng xuất khẩu Việt Nam còn thấp. Mặc dù, xuất khẩu của Việt Nam đang dần xác lập được vị thế cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Tuy nhiên, Việt Nam lại chiếm lĩnh thị trường trên thế giới chủ yếu ở nhóm hàng hóa cơ bản, như: dầu mỏ và khoáng sản, nông sản, hàng dệt may, da giày, thủy sản, đồ gỗ và điện tử. Đây là những ngành thâm dụng lao động lớn, nhưng về xu thế không còn tăng trưởng nhanh trên thế giới, đồng thời rất dễ bị ảnh hưởng bởi việc hạ thấp chi phí từ các đối thủ mới, có chi phí lao động thấp. Điển hình trong năm 2014 vừa qua, với việc giá dầu mỏ trên thế giới giảm, tất yếu tác động đến việc xuất khẩu cũng như giá trị kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam cũng giảm theo. Khá nhiều các mặt hàng xuất khẩu, kể cả những mặt hàng có kim ngạch lớn chưa có thương hiệu riêng, xuất khẩu thường phải thông qua đối tác khác, nên giá bán thường thấp hơn sản phẩm cùng loại của các nước khác. Giá trị gia tăng của hàng hóa xuất khẩu thấp do chủ yếu dựa vào khai thác các yếu tố về điều kiện tự nhiên và nguồn lao động rẻ. Đặc biệt, cơ cấu hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc và cho thấy Việt Nam đang nhập khẩu công nghệ lạc hậu và cũ kỹ của khu vực, trong lúc chưa tiếp cận được công nghệ nguồn từ các nước công nghiệp phát triển. Điều này dẫn đến việc càng khó tăng năng suất trong tương lai, cũng như KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP 42 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 71 (03/2015) khó có thể giúp Việt Nam bước nhanh hơn trong việc theo đuổi giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị toàn cầu, chưa nói là sa vào bẫy thu nhập trung bình. Trước bối cảnh hiệp định TPP sẽ được ký kết, thị trường Hoa Kỳ sẽ vẫn tiếp tục là thị trường xuất nhập khẩu tiềm năng của Việt Nam trong thời gian tới. Trong những năm gần đây xuất khẩu từ Việt Nam sang Hoa Kỳ có mức tăng trưởng từ 15-20%. Tuy nhiên, nếu nhìn vào tổng thể kim ngạch nhập khẩu của Hoa Kỳ thì con số xuất khẩu của Việt Nam quá nhỏ bé, năm 2013 Việt Nam mới chiếm 0,98% tổng kim ngạch nhập khẩu của Hoa Kỳ. Như vậy có thể thấy Việt Nam còn rất nhiều tiềm năng xuất khẩu ở thị trường này. Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ được kỳ vọng sẽ có tăng trưởng đột biến trong thời gian tới, đóng góp đáng kể vào thành tích xuất khẩu nói chung. Trong bối cảnh dự báo năm 2015 tình hình thế giới đang diễn biến rất khó lường, kinh tế nước ta tiếp tục hội nhập sâu rộng và phải cạnh tranh gay gắt hơn. Chính bối cảnh quốc tế và tình hình trong nước sẽ tạo ra nhiều cơ hội, thuận lợi nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn, thách thức cho việc phát triển kinh tế - xã hội nói chung và cân bằng cán cân thương mại quốc tế nói riêng. q Tài liệu tham khảo 1. Bùi Xuân Lưu, Nguyễn Hữu Khải, 2009, Giáo trình Kinh tế ngoại thương, NXB Thông tin và truyền thông. 2. Tổng cục thống kê, 2013, Tình hình kinh tế - xã hội năm 2013, default.aspx?tabid=403&idmid=2&ItemID=14769. 3. Tổng cục Thống kê, Tình hình kinh tế - xã hội năm 2014, 27/12/2014, gov.vn/default.aspx?tabid=507&ItemID=16155. 4. Bộ Công thương, 2014, Báo cáo tóm tắt tình hình sản xuất công nghiệp và hoạt động thương mại tháng 11 và 11 tháng năm 2013, aspx?Machuyende=TK&ChudeID=52. 5. Bộ Tài chính, 2014, Giảm thuế nhập khẩu nhiều mặt hàng từ ngày 1-1-2015, id=153501286&p_details=1. 6. Uyên Hương, 2014, Dự báo năm nay xuất siêu 1,5 tỷ USD, kinh-te/du-bao-nam-nay-xuat-sieu-15-ty-usd-20141210170225143.htm. 7. Phạm Huyền, 2014, Xuất siêu: Vui hôm nay, lo ngày mai, online/2014-11-04-xuat-sieu-vui-hom-nay-lo-ngay-mai. 8. Hoàng Dương, 2014, Năm nay xuất khẩu có thể đạt 150 tỷ USD, vn/kinh-te/nam-nay-xuat-khau-co-the-dat-150-ty-usd-20141212225527993.htm. 9. Nguyễn Thùy Vân, Nguyễn Châu Giang, 2014, Xuất nhập khẩu Việt Nam 2014: Điểm sáng và triển vọng, Viet-Nam-2014-Diem-sang-va-trien-vong/51541.tctc.
File đính kèm:
- hoat_dong_thuong_mai_quoc_te_cua_viet_nam_nam_2014.pdf