Hoạt động đổi mới, cải tiến trong các doanh nghiệp công nghiệp điện tử thành phố Hồ Chí Minh
Bài viết này phân tích hoạt động đổi mới, cải tiến trong các doanh nghiệp ngành công nghiệp điện
tử thành phố Hồ Chí Minh. Bài viết sử dụng kỹ thuật thống kê mô tả để phân tích bộ dữ liệu khảo
sát 185 doanh nghiệp ngành công điện tử thành phố trong năm 2016. Kết quả nghiên cứu cho
thấy phần lớn các doanh nghiệp điện tử mặc dù nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động
đổi mới, cải tiến trong quá trình sản xuất kinh doanh nhưng đến nay chỉ tập trung vào giới thiệu sản
phẩm mới hoặc cải biên sản phẩm hiện có, các hoạt động cải tiến khác như cải tiến qui trình sản
xuất hoặc quản lý chưa có dấu ấn rõ nét. Đặc biệt, năm 2007 có 35,80% số doanh nghiệp điện tử
tổ chức bộ phận R&D, 23,50% doanh nghiệp tiếp nhận thông tin hướng dẫn khoa học công nghệ
thì năm 2010 chỉ tương ứng là 34,90% và 16,30% số doanh nghiệp, đến năm 2014 tăng lên 37,80%
và 20,50% số doanh nghiệp thực hiện. Ngoài ra, hoạt động đổi mới công nghệ trong các doanh
nghiệp năm 2007, 2010, 2014 chỉ đạt 16%, 15,50% và 18,90%; hoạt động đào tạo cán bộ khoa học
công nghệ là 17,30%, 15,50% và 17,80%. Điều này là do chi phí R&D cao, thiếu nguồn lực tài chính,
thiếu chuyên gia R&D và quy mô doanh nghiệp nhỏ. Chính vì thế, trong thời gian tới các doanh
nghiệp trong ngành này cần thiết phải củng cố, tăng cường và đa dạng hoạt động đổi mới, cải tiến
nhằm phát triển ổn định, bền vững.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hoạt động đổi mới, cải tiến trong các doanh nghiệp công nghiệp điện tử thành phố Hồ Chí Minh
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế -Luật và Quản lý, 3(3):299-310 Open Access Full Text Article Bài nghiên cứu Trường Đại học Tài chính – Marketing Liên hệ Huỳnh Thế Nguyễn, Trường Đại học Tài chính – Marketing Email: fomis.nguyen@gmail.com Lịch sử Ngày nhận: 25/11/2017 Ngày chấp nhận: 25/4/2019 Ngày đăng: 30/9/2019 DOI : 10.32508/stdjelm.v3i3.571 Bản quyền © ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố mở được phát hành theo các điều khoản của the Creative Commons Attribution 4.0 International license. Hoạt động đổi mới, cải tiến trong các doanh nghiệp công nghiệp điện tử Thành phố Hồ Chí Minh Huỳnh Thế Nguyễn* Use your smartphone to scan this QR code and download this article TÓM TẮT Bài viết này phân tích hoạt động đổi mới, cải tiến trong các doanh nghiệp ngành công nghiệp điện tử thành phố Hồ Chí Minh. Bài viết sử dụng kỹ thuật thống kê mô tả để phân tích bộ dữ liệu khảo sát 185 doanh nghiệp ngành công điện tử thành phố trong năm 2016. Kết quả nghiên cứu cho thấy phần lớn các doanh nghiệp điện tử mặc dù nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động đổimới, cải tiến trong quá trình sản xuất kinh doanh nhưng đến nay chỉ tập trung vào giới thiệu sản phẩm mới hoặc cải biên sản phẩm hiện có, các hoạt động cải tiến khác như cải tiến qui trình sản xuất hoặc quản lý chưa có dấu ấn rõ nét. Đặc biệt, năm 2007 có 35,80% số doanh nghiệp điện tử tổ chức bộ phận R&D, 23,50% doanh nghiệp tiếp nhận thông tin hướng dẫn khoa học công nghệ thì năm 2010 chỉ tương ứng là 34,90% và 16,30% số doanh nghiệp, đến năm 2014 tăng lên 37,80% và 20,50% số doanh nghiệp thực hiện. Ngoài ra, hoạt động đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp năm 2007, 2010, 2014 chỉ đạt 16%, 15,50% và 18,90%; hoạt động đào tạo cán bộ khoa học công nghệ là 17,30%, 15,50% và 17,80%. Điều này là do chi phí R&D cao, thiếu nguồn lực tài chính, thiếu chuyên gia R&D và quy mô doanh nghiệp nhỏ. Chính vì thế, trong thời gian tới các doanh nghiệp trong ngành này cần thiết phải củng cố, tăng cường và đa dạng hoạt động đổi mới, cải tiến nhằm phát triển ổn định, bền vững. Từ khoá: Công nghiệp điện tử, doanh nghiệp điện tử thành phố Hồ Chí Minh, đổi mới, cải tiến. GIỚI THIỆU Ngành công nghiệp điện tử được đánh giá là ngành công nghiệp mũi nhọn, trọng điểm của thành phốHồ Chí Minh và cả nước. Với đặc trưng là ngành công nghệ cao, hàm lượng chất xám lớn, có lợi thế so sánh động và đi vào kinh tế tri thức nên côngnghiệp điện tử luôn được ưu tiên đầu tư phát triển. Hơn nữa, Quyết định số 1290/QĐ-TTg ngày 01/8/2014 củaThủ tướng Chínhphủ về việc phê duyệtKế hoạchhànhđộngphát triển ngành công nghiệp điện tử thực hiện Chiến lược công nghiệp hóa của Việt Nam đã xác định: “Công nghiệp điện tử là ngành sản xuất vật chất mang tính cơ bản của nền kinh tế quốc dân, có vị trí then chốt trong nền kinh tế hiện đại và có tác động mạnh mẽ đến các ngành công nghiệp khác. Sự phát triển của công nghiệp điện tử thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, kéo theo sự phát triển của các ngành công nghiệp và dịch vụ khác, tạo cơ sở thu hút lao động, giải quyết việc làm. Một mặt công nghiệp điện tử là một ngành mang lại lợi nhuận rất lớn, trở thành nguồn tích lũy tư bản của quốc gia. Mặt khác ngành công nghiệp điện tử tạo ra khả năng hiện đại hóa các ngành công nghiệp khác và thay đổi tư duy cũng như cách làm việc của cả xã hội. Vì vậy công nghiệp điện tử còn được coi là công nghệ cơ sở của xã hội hiện đại, làm chuyển đổi mạnh mẽ công nghệ sản xuất, cơ cấu kinh tế và hiện đại hóa các quan hệ kinh tế, văn hóa xã hội”. Chính vì thế, báo cáo Chính trị trình Đại hội X (2015 – 2020) của thành phố khẳng định phát triển ngành công nghiệp điện tử và 03 ngành công nghiệp trọng yếu cơ khí, hoá chất – dược phẩm, chế biến tinh lương thực – thực phẩm là động lực cốt lõi thúc đẩy sự phát triển của thành phố thời kỳ hội nhập. Trong đó, ngành công nghiệp điện tử phải duy trì tốc độ tăng trưởng, năng suất lao động cao và phát triển bền vững. Đến năm 2020 công nghiệp điện tử phải là ngành công nghiệp chủ lực, đóng góp lớn cho thành phố và có khả năng cạnh tranh trong khu vực Đông NamÁ. Tuy nhiên, Romer (1990) cho rằngmột ngành công nghiệp hoặc nền kinh tế muốn phát triển bền vững trong dài hạn phải thiết lập các động lực để thúc đẩy quá trình phát triển đó một cách ổn định và hiệu quả1,2. Do đó, ngành công nghiệp điện tử thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới phải hình thành và xây dựng các động lực phát triển nhằm đảm bảo mục tiêu phát triển đúng hướng và có chất lượng. Theo lý thuyết tăng trưởng nội sinh thì đổi mới, cải tiến là động lực chính của tăng trưởng kinh tế. Đổi mới, cải tiến có thể được tạo ra từ hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) sau đó lan truyền qua nhiều kênh khác nhau đến năng suất. Năng suất tăng sẽ kích Trích dẫn bài báo này: Nguyễn H T. Hoạt động đổi mới, cải tiến trong các doanh nghiệp công nghiệp điện tử Thành phố Hồ Chí Minh. Sci. Tech. Dev. J. - Eco. Law Manag.; 3(3):299-310. 299 h ... : Các hình thức hợp tác khoa học công nghệ của doanh nghiệp điện tử Thành phố Hồ Chí Minh Năm Tổng doanh nghiệp Nhà cung cấp Khách hàng Nhà khoa học, giảng Thực hiện % Thực hiện % Thực hiện % 2007 81 35 43,20 11 13,60 4 4,90 2008 102 34 33,30 15 14,70 5 4,90 2009 113 49 43,40 23 20,40 2 1,80 2010 129 59 45,70 21 16,30 2 1,60 2011 144 64 44,40 27 18,80 1 0,70 2012 164 77 47,00 23 14,00 6 3,70 2013 185 80 43,20 32 17,30 2 1,10 2014 185 103 55,70 35 18,90 2 1,10 Trung bình 68,13 45,42 25,19 16,96 2,89 2,20 Nguồn: Tính toán của tác giả từ dữ liệu khảo sát năm 2016. Ngoài ra, các thông tin hướng dẫn và các chính sách đi kèm để thúc đẩy hoạt động khoa học công nghệ của Chính phủ chưa thật sự trở thành bệ phóng để doanh nghiệp thực hiện nghiên cứu triển khai R&D từ đó có tiền đề và điều kiện thực hiện đổi mới, cải tiến. Năm 2007 có 19/81 doanh nghiệp điện tử thành phố (23,50%) tiếp nhận thông tin hướng dẫn khoa học công nghệ, đến năm 2010 giảm còn 21/129 doanh nghiệp (16,30%) tiếp nhận và năm 2014 chỉ 38/185 doanh nghiệp (20,50%) tiếp nhận thông tin hướng dẫn khoa học công nghệ. Tuy nhiên, trong các hình thức hỗ trợ khoa học công nghệ của Chính phủ thì hoạt động hướng dẫn khoa học công nghệ được các doanh nghiệp điện tử tiếp nhận cao nhất với mức trung bình 18,96%, trái ngược với hình thức hỗ trợ tài chính chỉ 3,64% và các chính sách khác có tỷ lệ rất nhỏ là 4,36%. THẢO LUẬN Từ kết quả phân tích dữ liệu cho thấy các doanh nghiệp điện tửThành phố Hồ Chí Minh tổ chức hoạt động đổi mới, cải tiến chưa đa đạng và đồng bộ trong các hình thức khác nhau. Điều này tuy phù hợp với bối cảnh ngành điện tử thành phố trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển nên cần thiết chú trọng về sự khác biệt hoá sản phẩm nhằm thiết lập thị trường, 305 nghệ viên Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế -Luật và Quản lý, 3(3):299-310 Bảng 7: Các hình thức hợp tác khoa học công nghệ của doanh nghiệp điện tử Thành phố Hồ Chí Minh Năm Tổng doanh nghiệp Viện nghiên cứu/Trường đại học Đối thủ cạnh tranh Chính phủ Thực hiện % Thực hiện % Thực hiện % 2007 81 1 1,20 1 1,20 1 1,20 2008 102 1 1,00 2 2,00 2 2,00 2009 113 2 1,80 2 1,80 1 0,90 2010 129 1 0,80 3 2,30 3 2,30 2011 144 1 0,70 3 2,10 5 3,50 2012 164 2 1,20 1 0,60 5 3,00 2013 185 1 0,50 3 1,60 5 2,70 2014 185 1 0,50 5 2,70 6 3,20 Trung bình 1,25 0,90 2,70 1,81 3,95 2,53 Nguồn: Tính toán của tác giả từ dữ liệu khảo sát năm 2016. Bảng 8: Các hình thức hợp tác khoa học công nghệ của doanh nghiệp điện tử thành phố Hồ Chí Minh Năm Tổng doanh nghiệp Nước ngoài Nội bộ ngành Thực hiện % Thực hiện % 2007 81 8 9.90 19 23,50 2008 102 6 5.90 12 11,80 2009 113 15 13.30 28 24,80 2010 129 13 10.10 26 20,20 2011 144 14 9.70 32 22,20 2012 164 14 8.50 43 26,20 2013 185 15 8.10 41 22,20 2014 185 17 9.20 58 31,50 Nguồn: Tính toán của tác giả từ dữ liệu khảo sát năm 2016. nhưng về dài hạn thì sự đổimới tổ chức quản lý để tạo sự khác biệt về hình thức quản trị của doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong việc duy trì và phát triển các hình thức đổi mới. Đồng thời, các doanh nghiệp điện tử còn theo đuổi mục tiêu lợi nhuận ngắn hạn để tích luỹ và chưa đủ tiềm lực để xây dựng nền tảng khoa học công nghệ chiều sâu phục vụ quá trình phát triển dài hạn. Ngoài ra, việc tổ chức các bộ phận khoa học côngnghệ chuyên trách để thực hiện hoạt động đổi mới, cải tiến một cách ổn định, bền vững và có chiều sâu chưa có sự đầu tư, chú trọng. Kết quả này phản ánh các doanh nghiệp điện tử của thành phố còn trong giai đoạn non trẻ, bắt đầu thiết lập thị phần từ các chiến lược giới thiệu sản phẩm hoặc cải tiến các sản phẩm hiện có. Hơn nữa, các khó khăn xuất phát từ việc thiếu thông tin khoa học công nghệ, thiếu thị trường khoa học công nghệ trở thành một trong các rào cản để doanh nghiệp có thể tiến hành các hoạt động R&D để từ đó tiến hành đổi mới, cải tiến. KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH Bài viết phát hiện các doanh nghiệp điện tử Thành phố Hồ Chí Minh mặc dù nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động đổi mới, cải tiến trong quá trình sản xuất kinh doanh nhưng việc thực hiện các hình thức đổi mới, cải tiến chưa đồng đều và đầu tư có chất lượng. Trong đó, nội dung đổi mới, cải tiến chủ yếu được các doanh nghiệp điện tử triển khai là giới thiệu sản phẩm mới, cải tiến sản phẩm hiện hữu nhằm mở rộng thị trường và đáp ứng tiêu chuẩn khách hàng. Vì thế, chúng tôi khuyến nghị các doanh nghiệp điện tử Thành phố Hồ Chí Minh nên duy trì và phát triển các hoạt động đổi mới, cải tiến như sau: 306 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế -Luật và Quản lý, 3(3):299-310 Bảng 9: Các nguyên nhân hạn chế hoạt động R&D của các doanh nghiệp điện tử Thành phố Hồ Chí Minh Nội dung Mean Mode Giá trị Tần suất Thiếu thông tin về khoa học công nghệ. 3,39 3 72 (38,9%) Thiếu lao động lành nghề. 3,41 3 70 (37,8%) Không có động lực hoặc áp lực thực hiện R&D. 3,53 4 72 (38,9%) Thiếu thị trường khoa học công nghệ. 3,58 4 72 (38,9%) Thiếu nguồn lực tài chính. 3,63 4 72 (38,9%) Thiếu chuyên gia R&D và khoa học công nghệ. 3,74 4 67 (36,2%) Quy mô doanh nghiệp nhỏ. 3,75 5 62 (33,5%) Không nhận được sự hợp tác từ Viện/Trường/Tổ chức khoa học công nghệ. 3,79 4 86 (46,5%) Không có sự hỗ trợ của Chính phủ. 3,86 4 90 (48,6%) Chi phí R&D cao. 3,91 4 78 (42,2%) Nguồn: Tính toán của tác giả từ dữ liệu khảo sát năm 2016. Bảng 10: Hỗ trợ khoa học công nghệ của Chính phủ và Chính quyền địa phương cho các doanh nghiệp điện tử thành phố Hồ Chí Minh Năm Tổng doanh nghiệp Vốn hoặc các ưu đãi tài chính Chuyên gia Tiếp nhận % Tiếp nhận % 2007 81 5 6,20 4 4,90 2008 102 5 4,90 6 5,90 2009 113 4 3,50 5 4,40 2010 129 6 4,70 8 6,20 2011 144 4 2,80 5 3,50 2012 164 6 3,70 6 3,70 2013 185 5 2,70 6 3,20 2014 185 5 2,70 5 2,70 Trung bình 5,03 3,64 5,69 4,08 Nguồn: Tính toán của tác giả từ dữ liệu khảo sát năm 2016. Một là, tăng cường các hoạt động đổi mới, cải tiến sản phẩm thông qua việc đầu tư khoa học công nghệ với hình thức tổ chức các bộ phận R&D độc lập hoặc tổ liên kết nhiều bộ phận theo các dự án, chương trình cụ thể của doanh nghiệp. Việc tổ chức hoạt động đổi mớ i trong nội bộ doanh nghiệp vừa bảo vệ giá trị thương mại sản phẩm đầu ra, vừa bảo vệ bí quyết kỹ thuật và kỹ năng sáng chế26. Tuy nhiên, quá trình tổ chức hoạt động đổi mới, cải tiến nội bộ được thực hiện trình tự theo khả năng và tiềm lực củamỗi doanh nghiệp. Đồng thời, các bộ phận này phải chủ động, linh hoạt và nhanh chóng tiếp cận xu thế biến động của thị trường và xu thế phát triển của sản phẩm điện tử trong nước và quốc tế. Hai là, tích cực tăng cường đầu tư công nghệ mới, không ngừng đầu tư nghiên cứu giới thiệu sản phẩm mới theo yêu cầu tiêu dùng trong nước và quốc tế. Gắn kết việc đầu tư công nghệ mới, giới thiệu sản phẩm mới với phát triển nguồn cung mới để tạo sự phát triển ổn định, bền vững. Đồng thời chú trọng việc củng cố và tăng cường năng lực sản xuất; tích cực chủ động nắm bắt và đón đầu sản phẩm công nghệ mới; chú trọng sản xuất sản phẩm có năng suất và cạnh tranh. Thường xuyên rà soát, đánh giá hiện trạng máy móc, thiết bị và công nghệ để làm định hướng đẩymạnh các chương trình đổi mới, đồng thời 307 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế -Luật và Quản lý, 3(3):299-310 Bảng 11: Hỗ trợ khoa học công nghệ của Chính phủ và Chính quyền địa phương choa các doanh nghiệp điện tử Thành phố Hồ Chí Minh Năm Tổng doanh nghiệp Thông tin/hướng dẫn Chính sách khác Tiếp nhận % Tiếp nhận % 2007 81 19 23,50 4 4,90 2008 102 20 19,60 6 5,90 2009 113 19 16,80 5 4,40 2010 129 21 16,30 5 3,90 2011 144 27 18,80 5 3,50 2012 164 28 17,10 6 3,70 2013 185 37 20,00 10 5,40 2014 185 38 20,50 7 3,80 Trung bình 27,91 18,96 6,34 4,36 Nguồn: Tính toán của tác giả từ dữ liệu khảo sát năm 2016. đẩy mạnh ứng dụng công nghệ theo hướng phát triển công nghệ vi mạch nhằm tạo ra các sản phẩm mới, trang thiết bị, máy móc hiện đại. Củng cố năng lực sản xuất, gắn kết chiến lược sản xuất kinh doanh với xu hướng phát triển thị trường sản phẩm điện tử và nền kinh tế. XUNGĐỘT LỢI ÍCH Tác giả xin cam đoan rằng không có bất kì xung đột lợi ích nào trong công bố bài báo. ĐÓNGGÓP CỦA TÁC GIẢ Tác giả chịu trách nhiệm đối với nội dung toàn bài báo. DANHMỤC TỪ VIẾT TẮT FDI: foreign direct investment (đầu tư trực tiếp nước ngoài). KHCN: khoa học công nghệ. R&D: research and development (nghiên cứu và phát triển) TÀI LIỆU THAMKHẢO 1. Romer PM. Endogenous Technological Change. Journal of Political Economy. 1990;98(50):71–102. 2. Nelson RR, Winter SG. An Evolutionary Theory of Economic Change. The Belknap Press of Harvard University Press; 1982. 3. Nelson RR. Economic Development from the Perspective of Evolutionary Economic Theory. Oxford Development Studies. 2008;36(1):9–21. 4. Nguyễn Quốc Duy. Đổi mới sáng tạo và các nhân tố tác động – Tổng kết cơ sở lý thuyết. Tạp chí Kinh tế và Phát triển. 2015;211(II):37–46. 5. Hùng PV. Phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành xây dựng dân dụng ở Việt Nam Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân. 2015;. 6. Damanpour F, Wischnevsky JD. Research on innovation in or- ganizations: Distinguishing innovation – generating from in- novation – adopting organizations. Journal of Engineering and Technological Management. 2006;23(4):269–291. 7. Dosi G. The nature of the innovation process. In: Dosi G, Freeman C, Nelson R, Silverberg G, Soete L, editors. Technical Change and Economic Theory. London: Pinter; 1988. p. 221– 238. 8. Amara N, Landry R, Doloreux A. Patterns of innovation in knowledge – intensive business services. The Service Indus- tries Journal. 2009;29(4):407–430. 9. Halpern L. Literature survey on the links between innova- tion, competition, competitiveness, entry & exit, firm survival and growth. Working Paper No. 02/07, MICRO-DYN, EU Sixth Framework Programme; 2007. 10. Greunz L. Industrial Structure and Innovation – Evidence from European regions. Journal of Evolutionary Economics. 2004;14:563–592. 11. Malerba F. Innovation, Industrial Dynamics and Industry Evo- lution: Progress and The Research Agendas. Revue de l’OFCE. 2006;97(5):21–46. 12. Aghion P, Howitt P. Joseph Schumpeter Lecture Appropriate growthpolicy: A unifying framework. Journal of the European Economic Association. 2006;4(2-3):269–314. 13. Aghion P, Howitt P. A model of growth through Creative De- struction. Econometrica. 1992;60:323–351. 14. kê thành phố Hồ Chí Minh CT. Niên giám thống kê 2014, Nhà xuất bản thống kê; 2015;. 15. Fritsch M, Franke. Innovation, regional knowledge spillovers and R & D cooperation. Research Policy. 2004;33:245– 255. 16. Arvanitis S. Innovation and labour productivity in the Swiss manufacturing sector: An analysis based on firm panel data, KOF Working papers No. 06-149, KOF Swiss Economic Insti- tute, ETH Zurich; 2006;. 17. Chudnovsky D, López A, Pupato G. Innovation and produc- tivity in developing countries: A study of Argentine man- ufacturing firm’s behavior (1992 – 2001). Research Policy. 2006;35:266–288. 18. Reichstein T, Salter A. Investigating the sources of process in- novation among UK manufacturing firms. Industrial and Cor- porate Change. 2006;15(4):653–682. 19. LeeC, Ging LC. SME Innovation in theMalysianManufacturing Sector. Journal of Economics Bulletin. 2007;12(30):1–12. 20. Tödtling F, Lehner P, Kaufmann A. Do different types of Inno- vation rely on specific kinds of knowledge interactions? Tech- novation. 2009;29(1):59–71. 308 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế -Luật và Quản lý, 3(3):299-310 21. Ahmed H, Mahmud M. What Determines Innovation in the Manufacturing Sector? Evidence from Pakistan. The Pakistan Development Review. 2011;50(4):365–376. 22. Triguero A, Córcoles D. Understanding innovation: An analy- sis of persistence for Spanish manufacturing firms. Research Policy. 2013;42(2):340–352. 23. Triguero A, Córcoles D, CuervaMC. Measuring the persistence in innovation in Spanish manufacturing firms: Empirical evi- dence using discrete-time duration model. Economics of In- novation and New Technology. 2014;23(5 – 6):447–468. 24. Segarra A, Teruel M. High – growth firms and innovation: an empirical analysis for Spanish firms. Small Business Eco- nomics. 2014;43(4):805–821. 25. Phan Văn Hùng. Phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành xây dựng dân dụng ở Việt Nam. Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân; 2015. 26. Tuyên HV. Nghiên cứu chính sách phát triển các loại hình tổ chức vàhoạt động khoahọc và côngnghệở các tậpđoàn kinh tế và doanh nghiệp lớn tại Việt Nam. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Mã số 8593, Bộ Khoa học và Công nghệ; 2010. 309 Science & Technology Development Journal – Economics - Law andManagement, 3(3):299- 310 Open Access Full Text Article Research Article University of Finance and Marketing Correspondence Huynh The Nguyen, University of Finance and Marketing Email: fomis.nguyen@gmail.com History Received: 25/11/2017 Accepted: 25/4/2019 Published: 30/9/2019 DOI : 10.32508/stdjelm.v3i3.571 Copyright © VNU-HCM Press. This is an open- access article distributed under the terms of the Creative Commons Attribution 4.0 International license. Innovation activities in electronic industrial enterprises in Ho Chi Minh City Huynh The Nguyen* Use your smartphone to scan this QR code and download this article ABSTRACT This article analyzes innovation activities of electronic enterprises in Ho Chi Minh City. The de- scriptive statistical techniques were applied to test the survey data on 185 electronic enterprises in 2016. The results show that although the majority are aware of the importance of innovation and improvement to their production and business processes, they still focus on launching new products or modifying existing products. At the same time, other innovative activities such as im- proving production process or management failed to show much progress. Specifically, the rates of enterprises that organized R&D department and received information on scientific and techno- logical guidance dropped from 35.80% and 23.50% in 2017 to 34.90% and 16.30% in 2010 before increasing to 37.80% and 20.50% in 2014. In addition, technology renovation activities in enter- prises were only 16%, 15.50% and 18.90% in 2017, 2010 and 2014 respectively whereas training of science and technology personnel were 17.30%, 15.50% and 17.80%. This is due to high R&D costs, shortage of financial resources and R&D specialists, and small business scale. Therefore, these enter- prises will need to strengthen, enhance and diversify innovation activities for stable and sustainable development. Key words: Electronics industry, Ho Chi Minh City electronic enterprises, innovation Cite this article : The Nguyen H. Innovation activities in electronic industrial enterprises in Ho Chi Minh City. Sci. Tech. Dev. J. - Eco. LawManag.; 3(3):299-310. 310
File đính kèm:
- hoat_dong_doi_moi_cai_tien_trong_cac_doanh_nghiep_cong_nghie.pdf