Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hàn Quốc tại Việt Nam - Nhìn từ khía cạnh an ninh kinh tế

Hàn Quốc hiện nay là nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn nhất vào Việt Nam với

những dự án đầu tư lên tới hàng tỷ USD và đang là một “hiện tượng” trong thu hút FDI ở nước ta.

Bên cạnh những tác động tích cực không thể phủ nhận mà dòng vốn FDI của Hàn Quốc mang lại,

hoạt động FDI của Hàn Quốc tại Việt Nam còn mang những đặc điểm riêng biệt, đã và đang đặt ra

những vấn đề phức tạp về an ninh kinh tế. Trên thực tế, có khá nhiều nghiên cứu khoa học về hoạt

động FDI của Hàn Quốc tại Việt Nam. Tuy nhiên, có rất ít nghiên cứu tiếp cận dưới góc độ an

ninh kinh tế, chỉ ra những nét đặc thù của hoạt động FDI của Hàn Quốc nói riêng sẽ ảnh hưởng tới

sự an toàn, ổn định và phát triển bền vững của nền kinh tế, để từ đó có cái nhìn toàn diện hơn về

những tác động của hoạt động FDI của Hàn Quốc đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở nước ta.

Trên cơ sở nhìn lại hoạt động đầu tư của Hàn Quốc tại Việt Nam trong thời gian qua, bài viết này

chỉ ra những đặc điểm của hoạt động này từ góc độ an ninh kinh tế và đưa ra một số giải pháp –

hàm ý chính sách góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả theo hướng phát triển bền vững trong

hoạt động đầu tư của Hàn Quốc những năm tiếp theo.

Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hàn Quốc tại Việt Nam - Nhìn từ khía cạnh an ninh kinh tế trang 1

Trang 1

Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hàn Quốc tại Việt Nam - Nhìn từ khía cạnh an ninh kinh tế trang 2

Trang 2

Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hàn Quốc tại Việt Nam - Nhìn từ khía cạnh an ninh kinh tế trang 3

Trang 3

Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hàn Quốc tại Việt Nam - Nhìn từ khía cạnh an ninh kinh tế trang 4

Trang 4

Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hàn Quốc tại Việt Nam - Nhìn từ khía cạnh an ninh kinh tế trang 5

Trang 5

Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hàn Quốc tại Việt Nam - Nhìn từ khía cạnh an ninh kinh tế trang 6

Trang 6

Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hàn Quốc tại Việt Nam - Nhìn từ khía cạnh an ninh kinh tế trang 7

Trang 7

Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hàn Quốc tại Việt Nam - Nhìn từ khía cạnh an ninh kinh tế trang 8

Trang 8

pdf 8 trang baonam 7200
Bạn đang xem tài liệu "Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hàn Quốc tại Việt Nam - Nhìn từ khía cạnh an ninh kinh tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hàn Quốc tại Việt Nam - Nhìn từ khía cạnh an ninh kinh tế

Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hàn Quốc tại Việt Nam - Nhìn từ khía cạnh an ninh kinh tế
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 34, Số 3 (2018) 1-14 
 1 
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hàn Quốc 
tại Việt Nam - Nhìn từ khía cạnh an ninh kinh tế 
Vũ Thị Nhung* 
Học viện An ninh Nhân dân, 125 Trần Phú, Phường Văn Quán, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 11 tháng 5 năm 2018 
Chỉnh sửa ngày 17 tháng 9 năm 2018; Chấp nhận đăng ngày 21 tháng 9 năm 2018 
Tóm tắt: Hàn Quốc hiện nay là nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn nhất vào Việt Nam với 
những dự án đầu tư lên tới hàng tỷ USD và đang là một “hiện tượng” trong thu hút FDI ở nước ta. 
Bên cạnh những tác động tích cực không thể phủ nhận mà dòng vốn FDI của Hàn Quốc mang lại, 
hoạt động FDI của Hàn Quốc tại Việt Nam còn mang những đặc điểm riêng biệt, đã và đang đặt ra 
những vấn đề phức tạp về an ninh kinh tế. Trên thực tế, có khá nhiều nghiên cứu khoa học về hoạt 
động FDI của Hàn Quốc tại Việt Nam. Tuy nhiên, có rất ít nghiên cứu tiếp cận dưới góc độ an 
ninh kinh tế, chỉ ra những nét đặc thù của hoạt động FDI của Hàn Quốc nói riêng sẽ ảnh hưởng tới 
sự an toàn, ổn định và phát triển bền vững của nền kinh tế, để từ đó có cái nhìn toàn diện hơn về 
những tác động của hoạt động FDI của Hàn Quốc đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở nước ta. 
Trên cơ sở nhìn lại hoạt động đầu tư của Hàn Quốc tại Việt Nam trong thời gian qua, bài viết này 
chỉ ra những đặc điểm của hoạt động này từ góc độ an ninh kinh tế và đưa ra một số giải pháp – 
hàm ý chính sách góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả theo hướng phát triển bền vững trong 
hoạt động đầu tư của Hàn Quốc những năm tiếp theo. 
Từ khóa: Đầu tư trực tiếp nước ngoài, Việt Nam, Hàn Quốc, an ninh kinh tế. 
1. Thực trạng FDI của Hàn Quốc tại Việt Nam 
Hàn Quốc chính thức đầu tư vào Việt Nam 
sau khi nước ta tiến hành đổi mới từ cuối thập 
niên Trong những năm đầu, Hàn Quốc thường 
xuyên giữ vị trí thứ 3, thứ 4 trong số các nhà 
đầu tư vào Việt Nam với những dự án lớn và 
chất lượng. Từ năm 2014đến nay, Hàn Quốc đã 
trở thành nhà đầu tư lớn nhất tại Việt Nam 
trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư 
vào Việt Nam xét cả về số lượng dự án và tổng 
vốn đầu tư. Theo số liệu của Cục Đầu tư Nước 
_______ 
 Tác giả liên hệ. ĐT.: 84-973888165. 
 Email: vunhung.neu@gmail.com 
 https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4151 
ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2018), tính đến 
tháng 3/2018 có 126 quốc gia và vùng lãnh thổ có 
dự án đầu tư còn hiệu lực tại Việt Nam, trong đó 
đứng đầu là Hàn Quốc với tổng vốn đăng ký 59 tỷ 
USD (chiếm 18% tổng vốn đầu tư) [1]. 
Chất lượng nguồn vốn đầu tư của Hàn Quốc 
vào Việt Nam cũng được đánh giá khá cao dựa 
trên những tiến bộ khoa học công nghệ do Hàn 
Quốc chuyển giao và ứng dụng tại Việt Nam. 
Hiện nay, tập đoàn Samsung đã thành lập hai 
trung tâm nghiên cứu vàphát triển (R&D) tại Hà 
Nội (2012) và Thành phố Hồ Chí Minh 
(2016).Trong những năm gần đây, này đã trở 
thành một trong những nhà sản xuất màn hình 
Plasma và điện thoại di động dẫn đầu thế giới. 
V.T. Nhung T p ch hoa học ĐHQ HN: inh t và inh doanh, Tập 34, Số 3 (2018) 1-14 
2 
o 
j 
7%
10%
13%
18%
15%
37%
Island:7% Đài Loan :10% Singapore: 13%
Hàn Quốc: 18% Nhật Bản: 15% Các nước khác: 37%
Biểu đồ 1. Tỷ lệ thu hút vốn đầu tư các quốc gia, vùng lãnh thổ vào Việt Nam giai đoạn 2014-2017. 
Nguồn: Cục Đầu tư Nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 
Đặc biệt trong những năm gần đây, từ năm 2014 đến năm 2017, mỗi năm Hàn Quốc đầu tư vào thị 
trường Việt Nam đều trên 6 tỷ USD. Cụ thể: 
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017
Biểu đồ 2. Tình hình vốn FDI của Hàn Quốc tại Việt Nam giai đoạn 2014-2017. 
Nguồn: Cục Đầu tư Nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Tổng kim ngạch xuất khẩu của Samsung 
Electronics Vietnam đạt 26 tỷ USD, chiếm 
16,8% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. 
Khoảng 45% điện thoại thông minh được sản 
xuất bởi Samsung Electronics được sản xuất tại 
Việt Nam vào năm 2014.Việc đầu tư của Hàn 
Quốc nói chungvà Tập đoàn Samsung nói riêng 
đã tạo ra sức ép cạnh tranh cho ngành công 
nghiệp phụ trợ. Trong năm 2015, số lượng 
doanh nghiệp Việt trở thành nhà cung cấp cho 
Samsung tăng mạnh lên con số 190, trong đó có 
12 nhà cung ứng ký hợp đồng trực tiếp và 178 
doanh nghiệp là nhà cung ứng cấp 2 [2]. Trong 
bối cảnh đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, 
V.T. Nhung T p ch hoa học ĐHQ HN: inh t và inh doanh, Tập 34, Số 3 (2018) 1-14 3 
hợp tác với các doanh nghiệp Hàn Quốc đã giúp 
doanh nghiệp Việt nhận thức rõ về ưu và nhược 
điểm để có thể thích ứng và điều chỉnh. 
Hiện nay, các doanh nghiệp FDI Hàn Quốc 
đã đầu tư vào 19/21 lĩnh vực phân ngành trong 
nền kinh tế quốc dân, trong đó, chủ yếu tập 
trung vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế 
tạo (35 tỷ USD/3.294 dự án), kinh doanh bất 
động sản (8,2 tỷ USD/100 dự án), xây dựng 
(2,7 tỷ USD/709 dự án). 
Theo thống kê của Cục Đầu tư Nước ngoài 
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2018), các doanh 
nghiệp FDI Hàn Quốc đã đầu tư và ...  trước khi quyết định đầu tư, với các nhà 
đầu tư mạnh, có tầm ảnh hưởng lớn tới các hoạt 
động kinh tế tại địa phương, tuy nhiên nó cũng 
đặt ra các vấn đề phức tạp về an ninh đối với 
Việt Nam. Trong thời gian tới, nếu không có 
chính sách thu hút và quản lý hoạt động FDI 
hiệu quả, sẽ khó tránh khỏi tình trạng Hàn Quốc 
thâu tóm và chiếm lĩnh các loại thị trường (sản 
xuất, kinh doanh, lao động, tiêu thụ), thậm 
chí họ sẽ gây sức ép kinh tế, chính trị vàxã hội 
nhằm tối đa hóa lợi ích từ các hoạt động FDI, 
gây thiệt hại về mặt kinh tế cho các cá nhân, tổ 
chức, doanh nghiệp trong nước và của các 
nước khác. 
V.T. Nhung T p ch hoa học ĐHQ HN: inh t và inh doanh, Tập 34, Số 3 (2018) 1-14 5 
Đồng thời, chỉ trong thời gian ngắn, việc 
các dự án FDI của Hàn Quốc vào Việt Nam một 
cách “ồ ạt”đã dẫn tới tình trạng các cơ chế, 
chính sách về đầu tư nước ngoài của Việt Nam 
chưa kịp thay đổi cho phù hợp với tình hình 
thực tế, hoặc rơi vào tình trạng bị động và bị 
các doanh nghiệp FDI Hàn Quốc đưa ra những 
“yêu sách” nhằm thay đổi cơ chế, chính sách về 
đầu tư nói riêng cũng như hệ thống chính sách 
kinh tế nói chung theo hướng thuận lợi hóa 
“quá mức” cho nhà đầu tư nước ngoài, nhất là 
các dự án đầu tư của các doanh nghiệp Hàn 
Quốc có sự hỗ trợ, quan tâm đặc biệt của Chính 
phủ Hàn Quốc. Đây là những vấn đề cần phải 
chú ý trong quá trình tiếp nhận nguồn vốn FDI 
của Hàn Quốc. 
Bốn là, quá trình triển khai đi vào hoạt động 
của các dự án đầu tư 
Cho đến khi doanh nghiệp đi vào thực hiện 
sản xuất - kinh doanh, luôn có một lượng lớn 
người Hàn Quốc và người lao động Việt Nam 
đến đây làm việc. Vì vậy, đối với các nhà đầu 
tư Hàn Quốc, khi triển khai dự án xây dựng văn 
phòng, nhà xưởng trên diện tích đã thuê thì họ 
thường bỏ ra một phần diện tích trong phần đất 
thuê đó để tiến hành xây dựng các khu nhà 
riêng phục vụ cho việc ăn nghỉ của nhân viên 
người nước ngoài (thậm chí là trong các khuôn 
viên của doanh nghiệp). Một số doanh nghiệp 
lấy danh nghĩa là xây dựng các trung tâm đào 
tạo cán bộ kỹ thuật nhưng thực chất là xây dựng 
các khu ký túc xá cho người nước ngoài cư trú 
và công nhân người Việt Nam thuê để ở. Một 
số doanh nghiệp có các văn phòng làm việc của 
người Hàn Quốc là chủ doanh nghiệp đều khép 
kín và có thể ăn nghỉ ngay tại nơi làm việc. Đặc 
biệt trong số đó, các chủ thầu lại không tuân thủ 
các quy định liên quan đến khai báo tạm trú với 
chính quyền địa phương.Điều này đã vi phạm 
khoản 2, điều 20, Nghị định số 29/NĐ-CP ngày 
20/3/2008 về lưu trú, tạm trú trong khu công 
nghiệp, khu chế xuất, doanh nghiệp chế xuất. 
Bên cạnh đó, đa phần các dự án FDI của 
Hàn Quốc được triển khai trên địa bàn với quy 
mô rộng, đất đai sử dụng cho các dự án đó chủ 
yếu là đất nông nghiệp. Vì thế, quá trình đền bù 
giải phóng mặt bằng để triển khai xây dựng các 
nhà xưởng, doanh nghiệp FDI của Hàn Quốc 
luôn tồn tại những vấn đề phức tạp như: (1) 
Tình trạng người dân bị thu hồi diện tích đất 
đang công tác để phục vụ phát triển công 
nghiệp khiến người nông dân gặp nhiều khó 
khăn trong chuyển đổi ngành nghề, thay đổi tập 
quán lao động (mặc dù được hưởng giá trị đền 
bù theo quy định của Nhà nước); (2) Quá trình 
thực hiện đền bù giải phóng mặt bằng của một 
số địa phương chưa thống nhất nên nhiều người 
dân không chịu nhận tiền đền bù, gây khó khăn 
cho quá trình triển khai các dự án đầu tư; thậm 
chí trong quá trình thi công xây dựng các nhà 
xưởng, doanh nghiệp FDI của Hàn Quốc ở một 
số khu vực đất thuộc quy hoạch phải tiến hành 
cưỡng chế để thi công nên hình thành nhiều 
điểm nóng phức tạp về an ninh trật tự. 
Thêm nữa, tốc độ triển khai của đại bộ phận 
các dự án FDI của Hàn Quốc thường được tiến 
hành khẩn trương, thời gian thi công 
ngắn.Thậm chí, có những thời điểm, nhiều dự 
án FDI tập trung cùng triển khai xây dựng trên 
cùng một địa bàn.Điều này tạo ra áp lực khá lớn 
cho các vấn đề về môi trường: số lượng rác thải 
lớn, những bất cập về nước sinh hoạt, phế liệu 
xây dựng Khi các nhà xưởng đi vào quá trình 
sản xuất - kinh doanh, một lượng rác thải công 
nghiệp sẽ được đưa ra ngoài môi trường, dẫn 
đến tình trạng ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng 
tới chất lượng cuộc sống của người lao động 
cũng như người dân tại các khu vực lân cận. 
Năm là, vấn đề sử dụng lao động 
Các doanh nghiệp FDI Hàn Quốc đã góp 
phần giải quyết việc làm cho hàng nghìn lao 
động tại các địa phương mà họ triển khai dự án 
đầu tư. Tuy nhiên, số lượng lao động trong các 
doanh nghiệp FDI Hàn Quốc là rất lớn; thành 
phần rất đa dạng, phức tạp, đa phần là lao động 
phổ thông (chiếm tới 80% tổng số lao động). 
Đồng thời, có một lượng lớn lao động ngoài địa 
phương đến làm việc nên trong quá trình làm 
việc tại đây, họ phải ở trọ tại các khu vực dân 
cư gần các doanh nghiệp, vấn đề này đã tạo ra 
sự biến động lớn về nhân khẩu, cư trú tại các 
địa bàn đó, gây phức tạp trong quản lý hành 
chính.Các vấn đề phát sinh sẽ gây khó khăn cho 
công tác quản lý, nắm tình hình địa bàn, đồng 
V.T. Nhung T p ch hoa học ĐHQ HN: inh t và inh doanh, Tập 34, Số 3 (2018) 1-14 
6 
thời là nguyên nhân dẫn đến những phức tạp về 
an ninh trật tự. Bên cạnh đó, nhiều doanh 
nghiệp thuê lao động nước ngoài nhưng không 
có trách nhiệm quản lý lao động cư trú, đi lại 
ngoài giờ làm việc. Tình trạng người nước 
ngoài sinh hoạt tự do, cư trú trên nhiều địa 
phương khác nhau làm nảy sinh những vấn đề 
phức tạp như các tệ nạn xã hội, quan hệ hôn 
nhân trái pháp luật Việt Nam, gây mất trật tự 
công cộng Chính điều này khiến cho tình 
hình an ninh trật tự tại các địa bàn có doanh 
nghiệp FDI Hàn Quốc trở nên phức tạp, gâykhó 
khăn cho công tác quản lý của các cơ quan 
ban, ngành. 
Thêm vào đó, hoạt động của các doanh 
nghiệp FDI Hàn Quốc diễn ra liên tục ngày đêm 
và thường được chia làm baca. Điều này, một 
mặt tạo tính hiệu quả cao cho quá trình sản xuất 
- kinh doanh của các doanh nghiệp FDI Hàn 
Quốc, mặt khác trở thành một trong những 
nguyên nhân dẫn đến tình trạng khó kiểm soát 
hoạt động đi lại, ra vào của công nhân trong quá 
trình giao ca, tạo kẽ hở để các đối tượng lao 
độngkhông đảm bảo phẩm chất đạo đức hoặc 
các thành phần phức tạp lợi dụng sơ hở của 
doanh nghiệp về công tác bảo vệ, quản lý tài 
sản nảy sinh lòng tham,thực hiện các hành động 
trộm cắp tài sản. Điển hình như tại các nhà 
xưởng của Samsung thường xảy ra tình trạng 
trộm cắp tài sảnbởi các sản phẩm linh kiện điện 
tử của doanh nghiệp này khá nhỏ gọn, dễ 
vận chuyển. 
Việc các doanh nghiệp FDI Hàn Quốc hoạt 
động liên tục ngày đêm còn là nguyên nhân dẫn 
đến tình trạng người lao động cảm thấy bị bóc 
lột kiệt quệ. Với lực lượng lao động chiếm phần 
lớn là lao động phổ thông,tỷ lệ nữ cao, trung 
bình từ 18-35 tuổi (khoảng 65-70%), số lao 
động này thường phải đối mặt với tình trạng chỉ 
được ký kết hợp đồng lao động ngắn hạn, bấp 
bênh, nguy cơ mất việc cao và cường độ công 
việc lớn. Trường hợp công nhân làm thêm ca 
tối, ca đêm (150% ngày công), hai ngày cuối 
tuần (200% ngày công) và các ngày nghỉ lễ 
(300% ngày công), với tần suất trung bình 12 
giờ làm việc/ngàyhết sức phổ biến trong các 
doanh nghiệp FDI Hàn Quốc. Môi trường làm 
việc nhiều tiếng ồn,phải tiếp xúc với các rác 
thải công nghiệp, dịch vụ hạn chế (thậm chí 
không có tivi, Internet haykhu mua sắm) tác 
động không nhỏ tới sức khỏe và đời sống tinh 
thần của người lao động cũng như cơ hội tìm 
việc làm sau khi kết thúc hợp đồng lao động và 
chất lượng cuộc sống sau này. 
Ngoài ra, nhữngchính sách, chế độ đối với 
người lao động trong các doanh nghiệp FDI 
Hàn Quốc không đảm bảo,có sự chênh lệch lớn 
về mức lương giữa lao động phổ thông và 
chuyên gia, cán bộ quản lý cũng là nguyên nhân 
gây ra tình trạng bất ổn về an ninh, trật tự như 
đình công, lãn công, biểu tình 
3. Kết luận và hàm ý chính sách cho Việt Nam 
Trong những năm tới, để hoạt động FDI của 
Hàn Quốc tại Việt Nam đảm bảo chất lượng và 
hiệu quả, dưới góc độ an ninh kinh tế cần chú ý 
một số vấn đề sau: 
Trước h t, chúng ta cần lựa chọn dòng vốn 
đầu tư, lĩnh vực ưu tiên thu hút FDI của Hàn 
Quốc theo hướng sử dụng công nghệ cao, công 
nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường, sử 
dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên, khoáng 
sản, đất đai. Đồng thời, đẩy mạnh phát triển 
công nghiệp phụ trợ dần dần thay thế nhập khẩu 
linh phụ kiện, thiết bị từ nước ngoài để lắp ráp 
nhằm tạo giá trị gia tăng cao trong sản phẩm, 
nâng cao giá trị đóng góp cho ngân sách 
nhà nước. 
Hai là, các cơ quan ban ngành hữu quan 
cần thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước đối 
với các hoạt động của các doanh nghiệp FDI 
nói chung nhằm chủ động đề xuất cho Đảng và 
Nhà nước về các vấn đề đổi mới, hoàn thiện 
chính sách, pháp luật về đầu tư, trong đó có 
quản lý hoạt động FDI Hàn Quốc theo hướng 
vừa tạo điều kiện thu hút FDI của Hàn Quốc 
vừa đảm bảo tính hiệu quả, chất lượng của dòng 
vốn này tại Việt Nam. Đồng thời, cần tham 
mưu, hướng dẫn các nhà đầu tư, doanh nghiệp 
FDI Hàn Quốc thực hiện các hoạt động đầu tư 
vừa đảm bảo tính hiệu quả vừa nâng cao khả 
năng tự bảo vệ trước những vấn đề phức tạp 
phát sinh trong chính các hoạt động đầu tư kinh 
V.T. Nhung T p ch hoa học ĐHQ HN: inh t và inh doanh, Tập 34, Số 3 (2018) 1-14 7 
doanh của doanh nghiệp như: lực lượng bảo vệ, 
đảm bảo an ninh trật tự, phòng chống cháy nổ... 
Ba là, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng các 
mặt công tác, trong đó tăng cường công tác nắm 
tình hình, thông tin có liên quan đến hoạt động 
đầu tư của các dự án FDI Hàn Quốc tại Việt 
Nam, đặc biệt là quá trình sử dụng lao động, 
công nghệ, nguồn cung ứng nguyên vật liệu, thị 
trường tiêu thụ sản phẩm... Qua đó, kịp thời 
phát hiện những vấn đề phức tạp trong các dự 
án, doanh nghiệp FDI của Hàn Quốc để từ có 
các kế hoạch, phương ánđiều tra, xử lý một 
cách chính xác và hiệu quả. Đặc biệt coi trọng 
công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát theo quy 
định của pháp luật về đầu tư; tiến hành rà soát, 
phân loại và xử lý theo quy định của pháp luật 
đối với các dự án đầu tư có dấu hiệu vi phạm. 
Bốn là,đẩy mạnh việc huấn luyện, đào tạo 
đội ngũ cán bộ chuyên trách trong các cơ quan 
ban ngành có liên quan tới hoạt động FDI của 
Hàn Quốc tại Việt Nam nhằm nâng caotrình độ 
ngoại ngữ, chuyên môn nghiệp vụ, am hiểu về 
pháp luật, chính trị, kiến thức về kinh tếcũng 
như đáp ứng năng lực phẩm chất đạo đức để xử 
lý các vấn đề phức tạp, nhạy cảm, đảm bảo hài 
hòa về lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị. 
Năm là, đẩy mạnh công tác vận động quần 
chúng, trong đó tập trung tuyên truyền, vận 
động quần chúng nhân dân làm việc tại các 
doanh nghiệp FDI, các khu vực, địa phương, 
các cơ sở thường xuyên làm việc với người Hàn 
Quốc, tích cực tham gia phong trào bảo vệ an 
ninh Tổ quốc, tích cực cung cấp thông tin liên 
quan đến an ninh trật tự có liên quan tới hoạt 
động của các doanh nghiệp FDI Hàn Quốc, đặc 
biệtlà các vấn đề phức tạp, các vụ việc vi phạm 
pháp luật ảnh hưởng tới hiệu quả phát triển kinh 
tế - xã hội tại các địa phương nói chung. 
Cuối cùng,cần làm tốt công tác phối hợp 
chặt chẽ các cơ quan ban ngành như Sở Kế 
hoạch và Đầu tư, Sở Lao động, Thương binh và 
Xã hội, ban quản lý các khu công nghiệp tại 
từng địa phương để thường xuyên trao đổi, nắm 
bắt thông tin, tình hình hoạt động của các doanh 
nghiệp FDI Hàn Quốc. Trong đó, cần làm rõ 
công tác phân công, phân cấp một cách hiệu 
quả, tránh chồng chéo, đùn đẩy trách nhiệm 
cũng như tâm lý ỷ lại. 
Có thể nói, từ quan điểm chính thức của 
Việt Nam, Chính phủ và người dânluôn coi 
trọng các nhà đầu tư Hàn Quốc và cam kết tạo 
điều kiện thuận lợi nhất cho các dự án đầu tư 
của Hàn Quốc hoạt động, kinh doanh lâu dài, 
ổn định và thành công tại đây. Trong thời gian 
tới, Việt nam mong muốn các doanh nghiệp 
Hàn Quốc tiếp tục đầu tư trong các lĩnh vực 
công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ, điện, điện 
tử, công nghệ thông tin, nông nghiệp chất lượng 
cao, môi trường, công nghiệp chế tạo, y tế và 
phát triển hạ tầng Tuy nhiên, nhìn dưới góc 
độ an ninh, bản chất hoạt động FDI của Hàn 
Quốc là một hoạt động phức tạp, nằm trong 
chính sách đầu tư ra nước ngoài của Hàn Quốc 
và được chính phủ nước này rất quan tâm. Do 
đó, Việt Nam cần chủ động hơn trong quá trình 
hợp tác đầu tư với Hàn Quốc; có nhiều biện 
pháp cứng rắn, quyết liệt và đồng bộ của các cơ 
quan ban ngành, các cấp chính quyền liên quan 
để có thể giải quyết hài hòa lợi ích về kinh tế và 
chính trị cũng như đảm bảo an ninh trật tự, an 
toàn xã hội. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Cục Đầu tư Nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 
“Tình hình đầu tư nước ngoài Việt Nam quý I 
năm 2018”, 
 ngày1/4/2018,
hinh-DTNN-Quy-I-nam-2018 
[2] Cục Đầu tư Nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 
“Tiếp tục gia tăng đầu tư của Hàn Quốc vào Việt 
Nam”, ngày 10/3/2018, 
tang-dau-tu-cua-Han-Quoc-vao-Viet-Nam 
[3] Nguyễn Chiến Thắng, Bùi Thị Hồng Ngọc, “Thu 
hút FDI của Hàn Quốc vào Việt Nam: Thực trạng 
và định hướng”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, 
430(3/2014), 59-67. 
[4] Bạch Dương, “Hàn Quốc và „làn sóng‟ đầu tư thứ 
ba vào Việt Nam”, VnEconomy, đăng tải ngày 
18/11/2016,
quoc-va-lan-song-dau-tu-thu-ba-vao-viet-nam-
20161116053649450.htm 
[5] Vũ Hải Thanh, Lê Văn Mỹ, “Hợp tác giữa Hàn 
Quốc với các quốc gia tiểu vùng sông Mekong”, 
Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, 2(180) 2/2016, 
34-42. 
V.T. Nhung T p ch hoa học ĐHQ HN: inh t và inh doanh, Tập 34, Số 3 (2018) 1-14 
8 
Foreign Direct Investment of Korea 
in Vietnam - in Economic Security View 
Vu Thi Nhung 
Học viện An ninh Nhân dân, 125 Trần Phú, Phường Văn Quán, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam 
Abstract: In present, Korea is the largest foreign direct investment (FDI) investor in Vietnam with 
billions USD investment projects and is a "phenomenon" in attracting FDI in our country. In addition 
to the undeniable positive effects that the capital flow of Korean FDI bring to, Korea's FDI activity in 
Vietnam has its own unique characteristics that have been posing complex economic security issues. 
In fact, there is quite a lot of scientific research on Korea's FDI activity in Vietnam. However, 
there are a few of them approaches to research and analysis in economic security, particularities of 
Korean FDI activity will affect the safety, stability and sustainable development of the economy , 
thence we will have a more specific comprehensive view on the effect of Korean FDI on 
socio-economic development in Vietnam. Based on a review of Korea's investment in Vietnam over 
the past few years, this article outlines the characteristics of this activity from the perspective of 
economic security and offers a number of key solutions andpolicies which improve quality and 
efficiency towards sustainable development in investment activities of Korea in the following years. 
Keywords: FDI, the Repubic of Korea, Vietnam, FDI, economic security. 

File đính kèm:

  • pdfhoat_dong_dau_tu_truc_tiep_nuoc_ngoai_cua_han_quoc_tai_viet.pdf