Hoàn thiện phương pháp xác định giá đất nhằm chống thất thoát ngân sách nhà nước

Để định giá đất trước hết cần xác định rõ nội hàm

khái niệm “đất” và các đặc điểm của đất. Theo Từ

điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học thì đất được

hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau tùy theo bối cảnh

cụ thể. Cụ thể: Đất là chất rắn ở trên đó người và các

loài động vật đi lại, sinh sống, cây cỏ mọc; đối lập với

trời hoặc với biển, nước; Đất là chất rắn làm thành

lớp trên cùng của bề mặt trái đất, gồm những hạt vụn

khoáng vật không gắn chặt với nhau và nhiều chất

hữu cơ gọi là mùn, trên đó có thể trồng trọt được

Theo David G. Rossiter, đất – “land” được hiểu

là phần diện tích bề mặt của trái đất mà các đặc tính

chủ yếu của nó là tương đối ổn định hoặc thay đổi

có tính chu kỳ có thể tiên đoán được, là toàn bộ các

thuộc tính về hệ sinh quyển thẳng trên hoặc dưới khu

vực đó, bao gồm khí quyển, thổ nhưỡng và lớp địa

chất, thủy văn, sự cư trú của động thực vật, là kết quả

của các hoạt động trong quá khứ và hiện tại của con

người xét trên phương diện các hoạt động này có tác

dụng đáng kể đến tính hữu dụng của việc sử dụng

đất của con người trong hiện tại và tương lai. Đây là

khái niệm toàn diện và phản ánh đúng các nội hàm

của đất theo nghĩa đen của từ này. Với cách hiểu đó,

đất có các đặc điểm sau:

Cố định về vị trí: Đất bị cố định về vị trí không gian

(không hoàn toàn tuyệt đối) nên đất bị chi phối bởi

các yếu tố môi trường nơi có đất, do đó, đất đai là bộ

phận quan trọng nhất của bất động sản.

Hữu hạn: Trừ một số trường hợp rất đặc biệt, đất

đai không thể được làm sản sinh ra trong quá trình

sản xuất. Quy mô dân số ngày một gia tăng, nhu cầu

về đất ở, đất sản xuất, kinh doanh tăng mà đất lại

hữu hạn nên giá đất luôn có xu hướng tăng. Mặc dù

vậy, ngoài những yếu tố tự nhiên của đất, giá đất còn

phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như: Vị trí địa lý,

kết cấu hạ tầng, vị trí cụ thể của đất

Không hao mòn: Khác với các tài sản khác thường

bị hao mòn theo thời gian sử dụng, đất không bị

hao mòn theo thời gian sử dụng. Do không bị hao

mòn theo thời gian sử dụng và có tính hữu hạn về

quy mô nên xét một cách tổng quát giá đất luôn có

xu hướng tăng.

Hoàn thiện phương pháp xác định giá đất nhằm chống thất thoát ngân sách nhà nước trang 1

Trang 1

Hoàn thiện phương pháp xác định giá đất nhằm chống thất thoát ngân sách nhà nước trang 2

Trang 2

Hoàn thiện phương pháp xác định giá đất nhằm chống thất thoát ngân sách nhà nước trang 3

Trang 3

Hoàn thiện phương pháp xác định giá đất nhằm chống thất thoát ngân sách nhà nước trang 4

Trang 4

Hoàn thiện phương pháp xác định giá đất nhằm chống thất thoát ngân sách nhà nước trang 5

Trang 5

pdf 5 trang baonam 9960
Bạn đang xem tài liệu "Hoàn thiện phương pháp xác định giá đất nhằm chống thất thoát ngân sách nhà nước", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hoàn thiện phương pháp xác định giá đất nhằm chống thất thoát ngân sách nhà nước

Hoàn thiện phương pháp xác định giá đất nhằm chống thất thoát ngân sách nhà nước
TÀI CHÍNH - Tháng 04/2019
51
Theo David G. Rossiter, đất – “land” được hiểu 
là phần diện tích bề mặt của trái đất mà các đặc tính 
chủ yếu của nó là tương đối ổn định hoặc thay đổi 
có tính chu kỳ có thể tiên đoán được, là toàn bộ các 
thuộc tính về hệ sinh quyển thẳng trên hoặc dưới khu 
vực đó, bao gồm khí quyển, thổ nhưỡng và lớp địa 
chất, thủy văn, sự cư trú của động thực vật, là kết quả 
của các hoạt động trong quá khứ và hiện tại của con 
người xét trên phương diện các hoạt động này có tác 
dụng đáng kể đến tính hữu dụng của việc sử dụng 
đất của con người trong hiện tại và tương lai. Đây là 
khái niệm toàn diện và phản ánh đúng các nội hàm 
của đất theo nghĩa đen của từ này. Với cách hiểu đó, 
đất có các đặc điểm sau:
Cố định về vị trí: Đất bị cố định về vị trí không gian 
(không hoàn toàn tuyệt đối) nên đất bị chi phối bởi 
các yếu tố môi trường nơi có đất, do đó, đất đai là bộ 
phận quan trọng nhất của bất động sản. 
Hữu hạn: Trừ một số trường hợp rất đặc biệt, đất 
đai không thể được làm sản sinh ra trong quá trình 
sản xuất. Quy mô dân số ngày một gia tăng, nhu cầu 
về đất ở, đất sản xuất, kinh doanh tăng mà đất lại 
hữu hạn nên giá đất luôn có xu hướng tăng. Mặc dù 
vậy, ngoài những yếu tố tự nhiên của đất, giá đất còn 
phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như: Vị trí địa lý, 
kết cấu hạ tầng, vị trí cụ thể của đất
Không hao mòn: Khác với các tài sản khác thường 
bị hao mòn theo thời gian sử dụng, đất không bị 
hao mòn theo thời gian sử dụng. Do không bị hao 
mòn theo thời gian sử dụng và có tính hữu hạn về 
quy mô nên xét một cách tổng quát giá đất luôn có 
xu hướng tăng.
Đa dạng: Đất rất đa dạng và phong phú trên nhiều 
phương diện: Tính chất lý hóa, đặc điểm thổ nhưỡng, 
Những đặc điểm của đất có ảnh hưởng 
đến phương pháp xác định giá đất
Để định giá đất trước hết cần xác định rõ nội hàm 
khái niệm “đất” và các đặc điểm của đất. Theo Từ 
điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học thì đất được 
hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau tùy theo bối cảnh 
cụ thể. Cụ thể: Đất là chất rắn ở trên đó người và các 
loài động vật đi lại, sinh sống, cây cỏ mọc; đối lập với 
trời hoặc với biển, nước; Đất là chất rắn làm thành 
lớp trên cùng của bề mặt trái đất, gồm những hạt vụn 
khoáng vật không gắn chặt với nhau và nhiều chất 
hữu cơ gọi là mùn, trên đó có thể trồng trọt được
HOÀN THIỆN PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH GIÁ ĐẤT 
NHẰM CHỐNG THẤT THOÁT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 
LÊ XUÂN TRƯỜNG, NGUYỄN ĐÌNH CHIẾN 
Định giá đất có ý nghĩa rất quan trọng trong xác định nghĩa vụ tài chính của các chủ thể kinh tế 
đối với Nhà nước và có tác động lớn đến việc triển khai thực hiện các dự án kinh tế - xã hội của Nhà 
nước. Trên cơ sở phân tích các đặc điểm của đất đai, nghiên cứu các thông lệ quốc tế về định giá đất 
và đánh giá thực trạng các phương pháp xác định giá đất của Việt Nam, bài viết đề xuất một số 
khuyến nghị nhằm hoàn thiện các phương pháp xác định giá đất của Việt Nam để góp phần chống 
thất thu ngân sách nhà nước.
Từ khóa: Định giá, đất, phương pháp, thất thu, ngân sách nhà nước
IMPROVING LAND VALUATION METHODS AGAINST 
STATE BUDGET LOSSES
Le Xuan Truong, Nguyen Dinh Chien
Land valuation is important in determining 
the financial obligations of economic entities 
to the State which has a great impact on 
the implementation of state projects. Based 
on analyzing the characteristics of land, 
international practices on land valuation and the 
practical land valuation methods in Vietnam, the 
author proposes a number of recommendations 
to improve land valuation methods in Vietnam 
to prevent possible state budget losses.
Keywords: Valuation, land, methods, loss, state budget
Ngày nhận bài: 15/3/2019
Ngày hoàn thiện biên tập: 8/4/2019 
Ngày duyệt đăng: 12/4/2019
52
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
vị trí địa hình Khi xác định giá đất nếu không quan 
tâm đến các đặc điểm nêu trên của đất thì không 
phản ánh đúng giá trị của đất.
Thông lệ quốc tế về phương pháp định giá đất
Mặc dù, theo thông lệ quốc tế, tồn tại phương pháp 
chung nhất về định giá đất, song mục đích xác định 
giá đất cũng chi phối việc xác định phương pháp định 
giá đất. Việc xác định giá đất sản xuất nông nghiệp 
khác với xác định giá đất để tính thuế tài sản. 
Trong quá trình nghiên cứu về phương pháp định 
giá, nhóm tác giả đã tìm hiểu các công trình nghiên 
cứu của các nhà nghiên cứu nước ngoài hoặc quy 
định pháp luật của các nước về định giá đất với mục 
đích tính tiền sử dụng đất, tính tiền thuê đất khi nhà 
nước giao đất hoặc tính tiền đền bù khi Nhà nước 
thu hồi đất. 
Qua nghiên cứu những tài liệu giới thiệu phương 
pháp chung nhất về định giá đất và định giá đất để 
tính thuế tài sản cho thấy, có 2 lý do giải thích điều này: 
(i) Sự tồn tại phổ biến của hệ thống đa sở hữu về 
đất đai, bao gồm cả sở hữu nhà nước và sở hữu tư 
nhân về đất đai dẫn đến việc xác định giá đất chủ yếu 
nhằm mục đích giá mua bán giữa các chủ sở hữu đất 
với người mua đất trong quan hệ thị trườn ... mua bán đất. Phương pháp này là cơ sở của mọi 
phương pháp định giá đất khác. Theo Wyatt (2007), 
“Nguyên tắc so sánh là cơ sở của tất cả các phương 
pháp khác nó cũng là phương pháp định giá của 
chính bản thân nó”. Phương pháp so sánh trực tiếp 
là cơ sở cho các phương pháp định giá đất khác 
bởi sự đơn giản của nó. Trong trường hợp không 
có mảnh đất đơn thuần chưa đầu tư hạ tầng và 
không có công trình kiến trúc bán ra làm cơ sở so 
sánh thì phương pháp định giá phức tạp hơn, hoặc 
là phải tách giá trị đầu tư ra khỏi đất, hoặc là trước 
hết phải tính toán phần giá trị đất được tăng thêm, 
sau đó, phần giá trị tăng thêm được trừ khỏi giá 
bán bất động sản để xác định giá đất đơn thuần. 
Phương pháp này gặp khó khăn khi không có giao 
dịch sẵn trên thị trường đối với đất ở khu vực đó 
tại thời điểm cần xác định giá đất.
- Phương pháp thu nhập (còn gọi là phương pháp 
phân bổ) xác định giá đất theo một tỷ lệ % trên tổng 
giá trị bất động sản. Tỷ lệ này được xây dựng dựa 
trên giá trị hạ tầng và công trình kiến trúc trên đất. 
Phương pháp này phân tích dòng thu nhập tương lai 
bằng cách ước tính số tiền đầu tư để thu về những lợi 
ích trong tương lai. Phương pháp này được sử dụng 
để xác định giá trị của đất dựa trên thu nhập hoặc 
khả năng mang lại thu nhập trong trường hợp mảnh 
đất đó không được sử dụng hoặc cho người sở hữu 
trực tiếp sử dụng
- Phương pháp chiết trừ, xác định giá đất bằng 
một trong hai cách: (i) Xác định tỷ trọng giá trị của 
đất trong tổng giá trị tài sản (phân bổ); (ii) Trừ giá trị 
khấu hao của bất động sản đầu tư trên đất khỏi tổng 
giá trị bất động sản. 
- Phương pháp đầu tư, phân tích các chi phí đầu 
tư vào đất sau đó trừ chi phí đầu tư này khỏi giá 
bán dự kiến của đất sau khi đã đầu tư để xác định 
giá đất thuần khi chưa đầu tư. Những chi phí đầu 
tư chủ yếu cần xác định để trừ đi khi xác định giá 
đất gồm: đường xá, cấp nước, thoát nước, trường 
học, bện viện 
- Phương pháp thặng dư, xác định giá đất bằng 
cách vốn hóa giá trị đầu tư vào đất để xác định phần 
thu nhập tăng thêm do đầu tư vào đất. Theo phương 
pháp này, thu nhập được xác định bằng giá trị đầu 
tư chia cho tỷ lệ vốn hóa. Phương pháp này được sử 
dụng rộng rãi để xác định giá đất ở những khu vực 
đô thị hóa và không có sẵn các giao dịch về đất trên 
thị trường. Phương pháp này phù hợp nhất khi sử 
dụng để xác định sự khác nhau về giá trị đất giữa 
các địa phương khi mà giá trị đầu tư tăng thêm khá 
đồng đều nhau.
Phương pháp giá trị cho thuê vốn hóa, xác định 
giá đất bằng cách lấy giá cho thuê chia cho tỷ lệ vốn 
hóa. Ví dụ: Một lô đất cho thuê được với giá hàng 
năm là 500.000.000 đồng và tỷ lệ vốn hóa là 8% thì 
giá trị đất sẽ là 500.000.000/8% = 6.250.000.000 đồng.
Một số lưu ý được Vince Mangioni và Kauko 
Viltanen (2014) rút ra khi nghiên cứu vấn đề định giá 
đất đối với các khu vực đô thị hóa như sau:
- Việc xác định giá đất dù theo phương pháp nào 
cũng cần dựa trên một nền tảng giống nhau và xác 
định cho một mục đích cụ thể, được xác định cho 
mức độ sử dụng cao nhất và là lựa chọn sử dụng tốt 
nhất có thể.
- Giá đất ở các khu vực đô thị hóa phụ thuộc nhiều 
vào mức độ đầu tư kết cấu hạ tầng tại khu vực đó và 
những khu vực lân cận.
- Không nên định giá đất đánh thuế dựa trên cái 
gì ở trên đất mà cần dựa trên cái gì nên sử dụng trên 
đất đó một cách tốt nhất có thể.
Phương pháp xác định 
giá đất hiện hành của Việt Nam
Liên quan đến phương pháp xác định giá đất hiện 
hành và thực tiễn tại Việt Nam có một số vấn đề cần 
chú ý như sau:
Thứ nhất, quy định pháp luật về định giá đất hiện 
hành của Việt Nam: Điều 53, Hiến pháp nước Cộng 
hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: 
“Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, 
nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên 
nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản 
lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước 
đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”. Trên cơ 
sở đó, Luật Đất đai năm 2013 khẳng định: Đất đai 
thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở 
hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử 
dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của 
Luật này (Điều 4).
Giá đất là một trong những căn cứ quan trọng 
nhất để xác định các nghĩa vụ tài chính từ đất đai. 
Luật Đất đai năm 2013 đã nêu rõ Giá đất là giá trị của 
quyền sử dụng đất tính trên một đơn vị diện tích đất 
(Khoảng 19, Điều 3) và Nhà nước quy định nguyên 
tắc, phương pháp định giá đất. Nhà nước ban hành 
khung giá đất, bảng giá đất và quyết định giá đất cụ 
thể (Điều 18).
Luật Đất đai năm 2013 không quy định cụ thể 
phương pháp xác định giá đất mà giao cho Chính 
phủ quy định chi tiết nội dung này. Trên cơ sở đó, 
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 44/2014/NĐ-CP 
ngày 15/05/2014 về phương pháp xác định giá đất 
và khung giá các loại đất. Theo Nghị định này, giá 
54
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
đất được xác định theo 5 phương pháp, bao gồm: So 
sánh trực tiếp; Chiết trừ; Thu nhập; Thặng dư và Hệ 
số điều chỉnh giá đất.
Các Điều từ 113 đến 116 của Luật Đất đai năm 
2013 quy định về việc xây dựng khung giá đất, bảng 
giá đất, giá đất cụ thể và các vấn đề liên quan đến 
tư vấn xác định giá đất. Căn cứ vào các quy định 
nói trên, phương pháp định giá đất quy định tại 
Nghị định trên cùng với kết quả tổng hợp, phân tích 
thông tin về giá đất thị trường; các yếu tố tự nhiên, 
kinh tế - xã hội, quản lý và sử dụng đất đai ảnh 
hưởng đến giá đất, Chính phủ ban hành Khung giá 
đất định kỳ 05 năm một lần đối với từng loại đất, 
theo từng vùng
Trong thời gian thực hiện khung giá đất mà giá 
đất phổ biến trên thị trường tăng từ 20% trở lên so 
với giá tối đa, hoặc giảm từ 20% trở lên so với giá 
tối thiểu trong khung giá đất thì Chính phủ điều 
chỉnh khung giá đất cho phù hợp. Khung giá đất 
được sử dụng làm căn cứ để UBND cấp tỉnh quy 
định bảng giá đất tại địa phương. Hiện tại, khung 
giá đất ở Việt Nam được thực hiện theo quy định 
tại Nghị định số 104/2014/NĐ-CP ngày 14/11/2014 
của Chính phủ.
Căn cứ nguyên tắc, phương pháp định giá đất và 
khung giá đất, UBND cấp tỉnh xây dựng và trình 
HĐND cùng cấp thông qua bảng giá đất. Bảng giá 
đất được xây dựng định kỳ 05 năm một lần và công 
bố công khai vào ngày 01/01 của năm đầu kỳ. Bảng 
giá đất được quy định cụ thể đối với từng loại đất 
theo mục đích sử dụng (đất trồng cây hàng năm, cây 
lâu năm, đất làm muối, đất có mặt nước nôi trồng 
thủy sản, đất rừng trông, đất ở, đất thương mại dịch 
vụ). Bảng giá đất được xây dựng theo vị trí đất. 
Đối với địa phương đã có bản đồ địa chính và có điều 
kiện về nhân lực, kinh phí thì bảng giá đất được xây 
dựng đến từng thửa đất.
Trong thời gian thực hiện bảng giá đất, khi Chính 
phủ điều chỉnh khung giá đất hoặc giá đất phổ biến 
trên thị trường có biến động, thì UBND cấp tỉnh điều 
chỉnh bảng giá đất cho phù hợp. 
Thứ hai, bảng giá đất được sử dụng để làm căn cứ 
tính tiền sử dụng đất (trong hạn mức); tính thuế sử 
dụng đất; tính phí và lệ phí trong quản lý, sử dụng 
đất đai; tính tiền xử phạt vi phạm hành chính trong 
lĩnh vực đất đai; tính tiền bồi thường cho Nhà nước 
khi gây thiệt hại trong quản lý và sử dụng đất đai; 
tính giá trị quyền sử dụng đất để trả cho người tự 
nguyện trả lại đất cho Nhà nước.
Giá đất cụ thể do UBND cấp tỉnh quyết định dựa 
trên cơ sở điều tra, thu thập thông tin về thửa đất, 
giá đất thị trường và thông tin về giá đất trong cơ sở 
dữ liệu đất đai; áp dụng phương pháp định giá đất 
phù hợp. 
Trong quá trình xây dựng, điều chỉnh khung giá 
đất; xây dựng, điều chỉnh bảng giá đất và định giá 
đất cụ thể, nếu cơ quan nhà nước có thẩm quyền có 
yêu cầu; hoặc khi giải quyết khiếu nại về giá đất; thực 
hiện giao dịch dân sự liên quan đến giá đất cụ thể mà 
các bên có yêu cầu, có thể thực hiện việc tư vấn giá 
đất. Tổ chức có chức năng tư vấn giá đất thực hiện 
tư vấn giá đất theo yêu cầu đáp ứng các nguyên tắc 
theo quy định.
Việc xây dựng, định giá đất cụ thể được thực hiện 
theo trình tự cụ thể sau:
- Sở Tài nguyên và Môi trường điều tra, tổng hợp, 
phân tích thông tin về thửa đất, giá đất thị trường; áp 
dụng phương pháp định giá đất; xây dựng phương 
án giá đất trình UBND cấp tỉnh. Cơ quan này có thể 
thuê các tổ chức cung cấp dịch vụ định giá độc lập 
thực hiện.
- Hội đồng thẩm định giá đất cấp tỉnh thực hiện 
thẩm định. Hội đồng do chủ tịch UBND cấp tỉnh 
thành lập với vai trò thường trực của Sở Tài chính 
và phải có thành viên là chuyên gia định giá độc lập.
- Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định giá đất.
Thứ ba, giá đất cụ thể được sử dụng để làm căn cứ 
tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất (vượt hạn mức); 
tính tiền sử dụng đất khi Nhà nước giao đất có thu 
tiền sử dụng đất; tính tiền thuê đất đối với trường 
hợp Nhà nước cho thuê đất; tính giá trị quyền sử 
dụng đất khi cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; 
tính tiền thuê đất đối với trường hợp doanh nghiệp 
nhà nước cổ phần hóa được Nhà nước cho thuê đất 
trả tiền thuê đất hàng năm; tính tiền bồi thường khi 
Nhà nước thu hồi đất; làm giá khởi điểm để đấu 
giá quyền sử dụng đất. Như vậy, giá đất cụ thể xác 
định giá của một thửa đất nhất định tại một thời 
điểm nhất định theo yêu cầu của Nhà nước hoặc tổ 
chức, cá nhân.
Một số khó khăn, hạn chế
Hiện tại, khung giá đất được thực hiện theo 
quy định tại Nghị định số 104/2014/NĐ-CP. Khung 
giá đất này được xác định theo 2 nhóm đất (nông 
nghiệp, phi nông nghiệp) ở 7 vùng kinh tế trong 
cả nước. Thực tế cho thấy, bất cập lớn nhất là giá 
quy định trên khung giá đất quá thấp so với thực 
tế. Cụ thể:
- Đất ở tại TP. Hà Nội (đô thị đặc biệt thuộc vùng 
Đồng bằng sông Hồng) và TP. Hồ Chí Minh (đô thị 
đặc biệt thuộc vùng Đông Nam Bộ, khung giá đất 
quy định mức tối thiểu là 1,5 triệu đồng/m2, mức tối 
đa là 162 triệu đồng/m2. Trong khi đó, trên thực tế, 
TÀI CHÍNH - Tháng 04/2019
55
giá giao dịch trên thị trường cao hơn gấp nhiều lần 
khi giá giao dịch cao nhất lên đến trên 1 tỷ đồng/m2.
- Điều 11, Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 
15/5/2014 có quy định “Đối với đất ở tại đô thị; đất 
thương mại, dịch vụ tại đô thị; đất sản xuất, kinh 
doanh phi nông nghiệp không phải là đất thương 
mại, dịch vụ tại đô thị có khả năng sinh lợi cao, có 
lợi thế trong việc sử dụng đất làm mặt bằng sản 
xuất, kinh doanh, thương mại và dịch vụ thì căn cứ 
vào thực tế tại địa phương, UBND cấp tỉnh được 
quy định mức giá đất cao hơn nhưng không quá 
30% so với mức giá tối đa của cùng loại đất trong 
khung giá đất”. Đối với các thửa đất này, khi quy 
định ở mức tối đa cao hơn 30% thì cũng còn rất thấp 
so với giá thị trường. 
Những bất cập trên đã dẫn đến hệ lụy gây thất 
thu cho ngân sách nhà nước. Khung giá đất của 
Chính phủ và bảng giá đất của UBND cấp tỉnh 
được sử dụng chủ yếu để tính thuế, phí và lệ phí 
liên quan đến đất đai, tiền sử dụng đất khi Nhà 
nước công nhận quyền sử dụng đất ở của hộ gia 
đình, cá nhân đối với phần diện tích trong hạn 
mức; cho phép chuyển mục đích sử dụng đất từ 
đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp không phải 
là đất ở sang đất ở đối với phần diện tích trong hạn 
mức giao đất ở cho hộ gia đình, cá nhân. 
Khi căn cứ này được định giá thấp hơn nhiều 
lần so với giá thực tế trên thị trường, nguồn thu 
ngân sách nhà nước từ các khoản thu này sẽ bị sụt 
giảm rất nhiều so với thực tế nhất là trong điều 
kiện tốc độ đô thị hóa ngày càng cao ở tất cả các 
vùng miền, diện tích đất nông nghiệp và phi nông 
nghiệp không phải là đất ở được chuyển đổi sang 
đất ở ngày càng lớn
Ngoài ra, hệ lụy trên còn ảnh hưởng đến quyền 
lợi của người dân trong đền bù giải phóng mặt 
bằng, gây chậm tiến độ các dự án đầu tư. Giá đất 
để tính tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất 
được xác định trên cơ sở giá đất cụ thể do UBND 
cấp tỉnh quy định. Mặc dù vậy, quá trình xây 
dựng, định giá đất cụ thể vẫn còn phụ thuộc vào 
giá trên khung giá và bảng giá đất nên đã làm cho 
giá đất để tính đền bù còn quá thấp so với giá thị 
trường. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi 
của người dân khi họ đang sở hữu tài sản lớn là 
quyền sử dụng đất nay lại bị thu hồi vĩnh viễn với 
giá quá rẻ so với thực tế. 
Một số khuyến nghị 
Để hoàn thiện các phương pháp xác định giá đất 
của Việt Nam cần triển khai các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, nên bổ sung thêm vào hệ thống các 
phương pháp xác định giá đất do Chính phủ quy 
định hai phương pháp mà theo thông lệ quốc tế 
các nước đã áp dụng, đó là: Phương pháp đầu tư 
và Phương pháp giá trị cho thuê vốn hóa. Việc bổ 
sung này sẽ giúp tạo thêm lựa chọn khi gặp khó 
khăn khi áp dụng các phương pháp định giá khác.
Thứ hai, cần sửa đổi, bổ sung các quy định cụ thể 
trong Nghị định của Chính phủ về các căn cứ, điều 
kiện, cơ sở dữ liệu khi tổ chức thực hiện các phương 
pháp định giá đất. Trong đó, đặc biệt lưu ý đến việc 
bổ sung các yếu tố tác động đến giá đất ở các khu 
vực đô thị hóa, làm tách bạch rõ giá trị đất tăng thêm 
do đầu tư của Nhà nước ở chính khu vực đó và các 
khu vực lân cận với đầu tư của các nhà đầu tư vào 
các dự án.
Thứ ba, sửa đổi quy trình xác định giá đất để đảm 
bảo tính khách quan trong quá trình tổ chức định 
giá đất, tạo cơ chế và điều kiện để nâng cao vai trò 
của các tổ chức định giá độc lập trong quy trình xây 
dựng giá đất.
Thứ tư, hoàn thiện cơ sở dữ liệu thông tin về giá 
cả thị trường bất động sản trên cơ sở kết nối tất cả 
dữ liệu của các cơ quan nhà nước có liên quan theo 
hướng ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại và 
internet. Đồng thời, cần xây dựng cơ chế mua cơ sở 
dữ liệu của các tổ chức cung cấp dữ liệu độc lập để 
sử dụng kết hợp với cơ sở dữ liệu của cơ quan nhà 
nước trong định giá đất. 
Tài liệu tham khảo:
1. David G. Rositer (1996), A theoretical framework for land evaluation, 
Geoderma 72 (1996) 165-202;
2. De la Rosa D., Van Diepen C.A (2002), Qualitative and Quantitative Land 
Evaluation, Encyclopedia of Life Support System, Eolss Publishers, Oxford, UK;
3. De Cesare and Ruddock (1999), “The property tax system in Brazil” in Property 
tax: An international comparative Review, pp 266-282;
4. Enid Slack và Rechard Bird (2014), The Political Economy of Property tax 
Reform, OECD Working papers on fiscal federlism No.18;
5. Kauko Vitanen và Vince Mangioni (2014), Valuing Land for Tax Purpose in 
Highly Urbannized Cities, FIG Congress, Engaging the Challenges – Enhancing 
the Relevance;
6. Kelly (2000), “Designing a Property Tax Strategy for Sub - Saharan Africa: An 
Analytical Framework Applied to Kenya”, Public Budgeting Finance, 20, No 4, 
pp36-51;
7. Roy Baht (2009), Property Tax Reform in Developing and Transition 
Countries, USAID;
8. Rosengard (2013), “The Tax Everyone Loves to Hate: Principle of Property Tax 
Reform” in A Primer Property Tax: Administration and Policy, pp 173-186.
Thông tin tác giả:
PGS.,TS. Lê Xuân Trường, TS. Nguyễn Đình Chiến - Học viện Tài chính
Email: lexuantruonghvtc@gmail.com

File đính kèm:

  • pdfhoan_thien_phuong_phap_xac_dinh_gia_dat_nham_chong_that_thoa.pdf