Hiệu lực của tính đa chiều trong phê bình văn học

Phê bình văn học bao giờ cũng lấy

tác phẩm làm đối tượng trung tâm để khám

phá và giải mã. Từ chỗ mới là hình thức

phê điểm, những lời bạt, tựa, vịnh đến khi

đã phát triển thành một lĩnh vực hoạt động

văn học có các khuynh hướng, trường phái

và các trào lưu riêng thì các nhà phê bình

văn học vẫn lấy tác phẩm làm đối tượng

phẩm bình, đánh giá và sáng tạo.

Tác phẩm là một chỉnh thể nghệ

thuật, nhưng chẳng những không hoàn kết

sau hoạt động sáng tác của nhà văn mà còn

cả sau hoạt động tiếp nhận của người đọc.

Nhà văn hoàn tất văn bản nghệ thuật là tạo

dựng một thế giới hình tượng, mặc dù còn

ngủ yên trên trang sách, nhưng đã ẩn chứa

trong đó những thông điệp về con người,

cuộc đời và về chính anh ta nhằm gửi đến

người đọc. Nghĩa chủ định trên văn bản đã

là một chân trời nghệ thuật đang tiềm ẩn

trong thế giới hình tượng được mã hóa

bằng chất liệu phản ánh của văn học.

Hiệu lực của tính đa chiều trong phê bình văn học trang 1

Trang 1

Hiệu lực của tính đa chiều trong phê bình văn học trang 2

Trang 2

Hiệu lực của tính đa chiều trong phê bình văn học trang 3

Trang 3

Hiệu lực của tính đa chiều trong phê bình văn học trang 4

Trang 4

Hiệu lực của tính đa chiều trong phê bình văn học trang 5

Trang 5

Hiệu lực của tính đa chiều trong phê bình văn học trang 6

Trang 6

pdf 6 trang baonam 03/01/2022 9380
Bạn đang xem tài liệu "Hiệu lực của tính đa chiều trong phê bình văn học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiệu lực của tính đa chiều trong phê bình văn học

Hiệu lực của tính đa chiều trong phê bình văn học
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 7 * 2014 67 
HIỆU LỰC CỦA TÍNH ĐA CHIỀU TRONG PHÊ BÌNH VĂN HỌC 
Trần Thái Học* 
Tóm tắt 
 Mỗi tác phẩm văn học là mỗi chân trời nghệ thuật. Việc khám phá các giá trị của nó 
không chỉ được tiếp cận theo một chiều hướng mà bằng nhiều chiều hướng khác nhau bởi nhiều 
phương pháp phê bình khác nhau. Tính đa chiều, đa phương pháp phê bình văn học sẽ giúp ta 
mở rộng tầm nhìn và nhận thức sâu hơn về chân trời nghệ thuật bao la của văn học. 
 Từ khóa: Phê bình văn học 
Phê bình văn học bao giờ cũng lấy 
tác phẩm làm đối tượng trung tâm để khám 
phá và giải mã. Từ chỗ mới là hình thức 
phê điểm, những lời bạt, tựa, vịnh đến khi 
đã phát triển thành một lĩnh vực hoạt động 
văn học có các khuynh hướng, trường phái 
và các trào lưu riêng thì các nhà phê bình 
văn học vẫn lấy tác phẩm làm đối tượng 
phẩm bình, đánh giá và sáng tạo. 
 Tác phẩm là một chỉnh thể nghệ 
thuật, nhưng chẳng những không hoàn kết 
sau hoạt động sáng tác của nhà văn mà còn 
cả sau hoạt động tiếp nhận của người đọc. 
Nhà văn hoàn tất văn bản nghệ thuật là tạo 
dựng một thế giới hình tượng, mặc dù còn 
ngủ yên trên trang sách, nhưng đã ẩn chứa 
trong đó những thông điệp về con người, 
cuộc đời và về chính anh ta nhằm gửi đến 
người đọc. Nghĩa chủ định trên văn bản đã 
là một chân trời nghệ thuật đang tiềm ẩn 
trong thế giới hình tượng được mã hóa 
bằng chất liệu phản ánh của văn học. 
 Tác phẩm văn học là văn bản nghệ 
thuật đã được người đọc tiếp nhận. Nói 
cách khác, đó là thế giới hình tượng của 
nhà văn đã được người đọc đánh thức, để từ 
trạng thái đứng yên, ổn định trên văn bản 
trở thành trạng thái vận động và phát triển 
trong đời sống văn học. Việc phân biệt tác 
phẩm với văn bản là một bước tiến trong 
_______________________ 
*
 PGS.TS, Trường Đại học Sư phạm Huế 
quá trình nhận thức về văn học kể từ nửa 
sau của thế kỷ XX trở lại đây. Vì vậy, nói 
đến tác phẩm văn học, không thể không kể 
đến vai trò của người đọc với tư cách là chủ 
thể “đồng sáng tạo”. Nhưng sở dĩ người 
đọc có thể tham gia vào hoạt động sáng tạo 
này vì văn bản tự nó đã ẩn chứa nhiều 
khoảng trống, khoảng trắng, sự lấp lững do 
hình tượng tạo nên. Tính hình tượng là đặc 
trưng của tư duy nghệ thuật, “bản chất của 
hình tượng là đa nghĩa” (Kant) nên văn bản 
và cả khi đã là tác phẩm rồi thì mãi mãi vẫn 
là địa hạt đón đợi sự đối thoại của người 
đọc để từ đó nẩy sinh thêm những nghĩa 
mới. Nghĩa mới được kiến tạo qua những 
lần tiếp nhận, chẳng những không giống 
với nghĩa chủ định của nhà văn mà còn 
giữa chúng cũng khác nhau. Vì thế, tác 
phẩm là một quá trình vận động và chân 
trời nghệ thuật của nó càng ngày càng được 
mở rộng thêm. Tôi cho rằng, những khái 
niệm như “kết cấu vẫy gọi” của W. Ser hay 
“tác phẩm mới” của Eco. W dùng để chỉ 
văn bản nghệ thuật và tác phẩm văn học, 
phần nào cũng xuất phát từ một cách nhìn 
như vậy. 
 Từ đây để thấy, lịch sử tác phẩm 
gắn liền với lịch sử tiếp nhận. Qua tiếp 
nhận mà chân trời nghệ thuật không ngừng 
được mở rộng nhờ hoạt động sáng tạo của 
người đọc. Nhưng loại người đọc nào mới 
có hoạt động sáng tạo trong tiếp nhận? Có 
68 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN 
ý kiến cho rằng, đó là người đọc hiện đại. 
Tác giả của ý kiến diễn giải: người đọc hiện 
đại là người “đứng trong tác phẩm”, “đọc 
tích cực”, “đọc sáng tạo”, đọc còn “khám 
phá ra những cái ngoài chủ ý do vô thức 
của tác giả hay vô thức của văn bản tạo 
nên”. Còn như người đọc cổ điển, hiểu theo 
nghĩa người đọc cổ truyền, cũng theo tác 
giả đã nêu là người “đứng ngoài tác phẩm”, 
“đọc thụ động” nên không có hành động 
sáng tạo. Nhận xét về loại người đọc này 
trong tiếp nhận còn được cụ thể hóa bằng 
một cách ví thô thiển: “Tác phẩm văn 
chương (...) như một bình chứa đầy những 
tư tưởng, tình cảm, cảm xúc của tác giả nên 
người đọc (cổ điển) chỉ cần bắc vòi sang 
đấy là tiếp nhận được mọi thứ theo nguyên 
tắc bình thông nhau”. Tạm gác việc trao đổi 
về một số khía cạnh trong nội dung bài viết 
xung quanh vấn đề người đọc và tiếp nhận 
mà xem ra chưa được ổn thỏa, nên ở đây 
không trích dẫn thêm, chỉ nói riêng một 
quan niệm về người đọc cổ điển như vậy 
cũng khó chấp nhận. Bởi lẽ, mọi văn bản 
nghệ thuật hay tác phẩm văn học, như phần 
đầu đã nói, bao giờ cũng hàm chứa những 
tiền đề thúc đẩy sự sáng tạo của người đọc 
trong tiếp nhận. Người đọc đến với văn bản 
văn học, xưa cũng như nay, một mặt được 
tiếp xúc với những hình ảnh cụ thể, cảm 
tính sinh động, mặt khác, còn phải đối diện 
với những khoảng lặng, mạch ngầm, tính 
đa nghĩa và ám thị v.v. do thế giới hình 
tượng tạo nên. Mọi sự cắt nghĩa khác nhau 
về văn bản hay hình tượng trong văn bản 
qua thực tiễn tiếp nhận, một phần là do 
nguyên nhân từ đây. Ví như bài thơ Tùng 
của Nguyễn Trãi nhằm để thể hiện gì? Hình 
tượng người ra đi trong Tống biệt hành của 
Thâm Tâm là ai? Tuy không ít người đã 
nêu cách hiểu, nhưng đến nay vẫn chưa 
thống nhất. Cũng vậy, hình ảnh “Lá trúc 
che ngang mặt chữ điền” trong bài thơ Đây 
thôn Vỹ Dạ của Hàn Mặc Tử, vẫn còn là ẩn 
số đang chờ đợi những ai quan tâm đề xuất 
tiếp những lời giải mới. Thế giới hình 
tượng vừa khơi dậy hứng thú thẩm mỹ, vừa 
đòi hỏi sự lựa chọn, suy ngẫm và năng lực 
tưởng tượng, tái tạo của người đọc. Làm 
sao đọc mà không có sáng tạo nếu như 
muốn tiếp nhận được nghĩa của văn bản, 
nhất là văn bản của nghệ thuật ngôn từ? Có 
điều, sáng tạo như thế nào và khả năng đến 
đâu, lại còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố của 
chủ thể tiếp nhận như trình độ văn hoá, vốn 
sống, năng lực tư duy, trực cảm thẩm mỹ 
.v.v. Những yếu tố đó đã tạo nên tiền đề từ 
phía người đọc, có vai trò quyết định đến 
kết quả tiếp nhận. Vì vậy, đọc có thể chỉ 
cảm và hiểu phần nào văn bản, hoặc hiểu 
đầy đủ và sâu sắc văn bản – cái được biểu 
đạt theo chủ định nhà văn. Đọc có thể giải 
cấu trúc văn bản, để từ cái biểu đạt của nhà 
văn mà xác lập cái biểu đạt mới nhằm qua 
đó tạo nghĩa mới. Như vậy, người đọc cũng 
như nhà văn đều là chủ thể sáng tạo. Chỉ 
khác nhà văn, người đọc không lấy chất 
liệu từ cuộc sống mà từ văn bản; ngoài việc 
phát huy những yếu tố nội quan còn phóng 
chiếu cái nhìn vào lịch sử văn học mà liên 
tưởng, đối sánh, bình giá .v.v nhờ đó mà 
tạo ra một văn bản mới. Văn bản mới do 
người đọc sáng tạo, tuy không thoát ly 
nhưng cũng không tòng thuộc văn bản của 
nhà văn. Ví như vở Mái Tây của Kim 
Thánh Thán với vở Mái Tây của Vương 
Thục Phủ vậy. Chẳng phải Kim Thánh 
Thán đã từng viết: “Tôi thực không rõ sơ 
tâm người viết vở Mái Tây quả có đúng 
như thế không? Nếu quả cũng như thế thì ta 
có thể nói rằng nay mới bắt đầu thấy vở 
Mái Tây ... Bằng không như vậy thì ta có 
thể nói là trước đây vẫn thấy vở Mái Tây 
nhưng nay lại thấy có riêng vở Mái Tây của 
Thánh Thán”. Thế mới biết văn bản, theo 
đó là chân trời nghệ thuật đã bung phá như 
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 7 * 2014 69 
thế nào qua sự đọc. 
 Văn bản (tác phẩm) tiềm ẩn cả một 
chân trời nghệ thuật – cái chân trời tưởng 
đã tiếp cận được của ai đó qua sự tiếp nhận, 
nhưng hóa ra chỉ là một khoảng, một giới 
hạn nào đó trong cái bao la vô hạn của nó. 
Phê bình văn học, như đã nói, lấy văn bản 
(tác phẩm) làm đối tượng khám phá thì nhà 
phê bình dù được coi là siêu người đọc cũng 
không vượt thoát khỏi những thách thức của 
sự đọc đặt ra. 
 Hiển nhiên, đọc phê bình khác với 
đọc bình thường. Phê bình là một khoa học 
và từ lâu được coi là một trong ba phân 
môn chính thuộc khoa nghiên cứu văn học. 
Tính khoa học của nó không chỉ được xác 
định bởi đối tượng nghiên cứu mà còn ở 
chủ thể đọc và phương pháp đọc. Nhà phê 
bình là người đọc chuyên nghiệp có trình 
độ văn hóa và học vấn sâu rộng, có năng 
lực tư duy khoa học và khả năng cảm thụ 
sâu sắc. Đọc phê bình không chỉ để thưởng 
thức mà còn để đối thoại và tích cực phản 
biện. Chính mặt thứ hai của mục đích đọc 
mà phê bình đã xác lập được vai trò của nó 
không thể thay thế trong hoạt động văn 
học. Hẳn ai cũng biết, quá trình hiện đại 
hóa văn học dân tộc nói riêng và nhân loại 
nói chung, ngoài sự đóng góp của đội ngũ 
sáng tác còn là công lao của các nhà phê 
bình văn học. Phê bình chân chính không 
những là người bạn đường của sáng tác mà 
hơn thế, xét về mặt nào đó, còn là “bà đỡ” 
của sáng tác, giúp cho hoạt động sáng tác 
ngày càng nảy nở nhiều nhân tố mới, góp 
phần thúc đẩy văn học phát triển. Hiệu lực 
của phê bình gắn liền với phương pháp đọc, 
hay con đường tiếp cận văn học. Tùy theo 
phương pháp mà phê bình phát kiến được 
gì, mở ra được chiều kích nào, đồng thời 
góp phần hình thành diện mạo của văn học 
ra sao trong tiến trình lịch sử. Vì vậy H. R. 
Jauss đã phần nào có lý khi cho rằng: “Lịch 
sử văn học, thực chất là lịch sử của những 
cách đọc”. 
 Vậy cách đọc nào, nói khác đi là 
phương pháp hay con đường nào tiếp cận 
văn bản – cái chân trời nghệ thuật kia một 
cách vạn năng? Tôi cho rằng, không có 
phương pháp và con đường nào cả. Mọi 
phương pháp bên cạnh thế mạnh đều có 
giới hạn của nó. Phê bình văn học do đó, 
cũng bị giới hạn khi vận dụng bất kỳ một 
phương pháp nào đó. Sức mạnh tối ưu của 
phương pháp không phải là “đơn thương 
độc mã” trên con đường tìm kiếm chân lý 
mà là biết nương tựa, hổ trợ lẫn nhau. Bởi 
lẽ giới hạn của phương pháp này, có khi lại 
mở ra hướng đi cho phương pháp khác. 
Nhìn chung là như vậy và nói riêng phương 
pháp phê bình văn học cũng không ngoại 
lệ. Rất tiếc, cái chân lý giản đơn này không 
phải ai cũng nhận thức được. Có người khi 
tiếp xúc với một vài lý thuyết nào đó qua 
chuyển ngữ, cứ tưởng là hoàn toàn mới và 
hiện đại, nhưng kỳ thực cái “mới” ấy của lý 
thuyết đã xuất hiện và được vận dụng rộng 
rãi ở phương Tây từ những thập niên đầu, 
hoặc nửa sau của thế kỷ trước. Điều đáng 
nói không chỉ ở chỗ ngộ nhận hoặc mới hay 
cũ mà ở thái độ và khuynh hướng tiếp 
nhận. Đó là thói hễ thấy của Tây là chuộng 
mà coi thường của ta đã đành, lại còn tuyệt 
đối hóa tính ưu việt, ca ngợi chúng một 
cách hồn nhiên, rồi quay lại chỉ trích, phủ 
nhận các lý thuyết và phương pháp phê 
bình trước đó. Đây là hiện tượng không 
hiếm, nhưng mang tính cá nhân và cục bộ. 
Còn trên bình diện lịch sử - xã hội, có khi 
vì lý do ngoài văn học, phê bình chỉ coi 
trọng và vận dụng phương pháp này mà các 
phương pháp khác bị lấn lướt, thậm chí bị 
loại bỏ. Không nói đâu xa, cứ nhìn lại nền 
văn nghệ cách mạng nước ta trong thế kỷ 
qua sẽ thấy rõ điều đó. Một nền văn nghệ 
được xây dựng theo cương lĩnh: “tranh đấu 
70 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN 
về tông phái văn nghệ () làm cho xu 
hướng tả thực xã hội chủ nghĩa thắng” được 
đề ra từ Đề cương văn hóa (1943) đã xác 
lập tính nhất nguyên trong hoạt động sáng 
tác và phê bình văn học. Nếu sáng tác lấy 
Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa làm 
khuôn mẫu thì phê bình coi Phản ánh luận 
là “kim chỉ nam” trên con đường tiếp cận 
chân lý văn học. Mặc dù về lý thuyết, văn 
kiện có ghi, Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ 
nghĩa không phải là phương pháp sáng tác 
duy nhất mà là tốt nhất, nhưng trong thực 
tiễn, mọi nhà văn đều phải tuân thủ một 
nguyên tắc tư tưởng thẫm mỹ - miêu tả 
cuộc sống một cách chân thật lịch sử - cụ 
thể trong quá trình phát triển cách mạng 
của nó. Còn phê bình thì sao? Phản ánh 
luận là cơ sở triết học, là nền tảng tư tưởng 
để hình thành phương pháp phê bình xã hội 
học mác xít – một phương pháp đã giữ vai 
trò chủ đạo, thậm chí độc tôn đối với việc 
thẩm định, đánh giá nhà văn và tác phẩm. 
Mà đâu chỉ phê bình, lý luận cũng từ phản 
ánh luận đã nêu lên một nhận định có tính 
kinh điển: Tác phẩm văn học là hình ảnh 
chủ quan của hiện thực khách quan. Theo 
đó, phương pháp phê bình xã hội học mác 
xít nghiên cứu tác phẩm là đặt ra trong 
quan hệ với hiện thực khách quan và tất 
nhiên không tách khỏi chủ quan là nhà văn. 
Tuy chú trọng phương diện hiện thực đời 
sống được phản ánh, nhưng liên quan đến 
nhà văn nên nó không thể không kết hợp 
phương pháp phê bình tiểu sử học và phê 
bình văn hóa – lịch sử; có điều hai phương 
pháp này chỉ đóng vai trò thứ yếu. Việc 
đóng vai trò như thế nào của các phương 
pháp trong lịch sử phê bình văn học là tùy 
thuộc sự ảnh hưởng của học thuyết triết học 
và hoàn cảnh lịch sử quy định, vì vậy điều 
đó không có gì lạ. Và ngay cả khi nhìn lại 
quá khứ, nhiều ý kiến cho rằng phương 
pháp phê bình xã hội học mác xít có những 
hạn chế cũng là lẽ bình thường. Bởi có hạn 
chế nên hiệu lực tiếp cận chân lý văn học 
thường bị giới hạn trong phạm vi này hoặc 
kia là hiện tượng chung cho mọi phương 
pháp. Nhưng cái không bình thường là thái 
độ phủ định sạch trơn những thành quả của 
phương pháp phê bình xã hội học mác xít 
mà thiếu đi một cái nhìn khách quan và 
nghiêm túc. Phải nói rằng, hơn nửa thế kỷ 
trước, nền văn nghệ cách mạng nước ta đã 
có những đóng góp to lớn trong hai cuộc 
kháng chiến và kiến quốc. Ngoài sự đóng 
góp của sáng tác, còn có sự đóng góp của 
phê bình văn học. Việc vận dụng phản ánh 
luận để xác lập phương pháp phê bình tác 
phẩm (chứ không phải là văn bản – như 
cách gọi hiện nay) trong quan hệ với hiện 
thực và nhà văn, tuy chưa toàn diện và triệt 
để, nhưng là một định hướng đúng. Duy có 
điều, cần hiểu rõ về tiêu chuẩn thẩm mỹ 
của hiện thực và nhà văn theo quan niệm và 
yêu cầu đánh giá của phê bình lúc đó. 
Trước hết về hiện thực, đó chủ yếu phải là 
hiện thực cách mạng. Nó chẳng những 
được miêu tả một cách chân thật lịch sử – 
cụ thể mà còn phải diễn biến trong sự phát 
triển cách mạng như nguyên tắc tư tưởng – 
thẩm mỹ của Chủ nghĩa hiện thực xã hội 
chủ nghĩa đề ra. Việc đòi hỏi phải thể hiện 
trong tác phẩm về một hiện thực như vậy 
đã hướng sáng tác tập trung phản ánh 
những sự kiện, biến cố lớn lao gắn liền với 
vận mệnh dân tộc, với số phận của nhân 
dân, biến văn nghệ trở thành một mặt trận 
tư tưởng, góp phần giải quyết những nhu 
cầu cấp thiết của hai cuộc kháng chiến và 
xây dựng đất nước. Xét trong giới hạn lịch 
sử, thành tựu và ý nghĩa đó của văn học 
cách mạng rất đáng coi trọng. Những sáng 
tác như Việt Bắc, Gió lộng của Tố Hữu, 
Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, Vợ 
chồng A Phủ của Tô Hoài, Vỡ bờ của 
Nguyễn Đình Thi, Con trâu của Nguyễn 
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 7 * 2014 71 
Văn Bổng, Vùng mỏ của Võ Huy Tâm, Dấu 
chân người lính của Nguyễn Minh Châu, 
Đất mặn và Bảo biển của Chu Văn, Người 
mẹ cầm súng của Nguyễn Thi, Hòn Đất của 
Anh Đức, Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi của 
Nguyễn Tuân .v.v. đều là những tác phẩm 
như vậy. Nhưng, nếu có một cái nhìn tổng 
quát và lâu dài thì quan niệm về một hiện 
thực như trên, lại có phần thu hẹp nội dung 
phản ánh và do đó, chuẩn mực để phê bình 
đánh giá cũng phiến diện. Còn nhà văn thì 
sao? Đó là con người của xã hội, của cộng 
đồng mà tư tưởng và lập trường, quan điểm 
phải thuộc về giai cấp vô sản. Hoạt động 
sáng tác là bổn phận, trách nhiệm của một 
chủ thể hữu thức với sự ảnh hưởng, chi 
phối chủ yếu của những tiền đề nêu trên. 
Muốn qua nhà văn để hiểu tác phẩm thì phê 
bình chỉ tìm hiểu những gì thuộc về chủ thể 
đó, còn cái gọi là “những xung năng vô 
thức” một phần ngọn nguồn sáng tạo của 
anh ta, tuyệt nhiên không đề cập đến. Vì 
vậy, ngoài phương pháp chủ đạo là phê 
bình xã hội học mác xít thì phương pháp 
phê bình tiểu sử học nếu được vận dụng 
cũng rất hạn chế, còn các phương pháp phê 
bình khác như phê bình ấn tượng chủ nghĩa 
và nhất là phê bình phân tâm học hầu như 
bị loại bỏ khỏi hoạt động nghiên cứu của 
nền văn học cách mạng. 
 Tình hình văn học như thế ở nước 
ta đã lùi xa cách đây hơn một phần tư thế 
kỷ. Đến nay nhìn lại, văn học đã có nhiều 
đổi mới, trước hết về sáng tác, sau đó là 
phê bình nghiên cứu. Sự vận động và phát 
triển của nó là kết quả của một quá trình 
chuyển giao lịch sử, của sự đổi mới tư duy 
chính trị và hội nhập trên nhiều lĩnh vực, 
trong đó có văn hóa, văn học. Chân trời 
nghệ thuật lại ngày càng được mở rộng 
thêm không những qua sáng tác mà còn qua 
sự ý thức về sáng tác của nhà văn, không 
chỉ qua văn học mà còn qua sự ý thức về 
văn học của giới phê bình nghiên cứu. Sáng 
tác của nhà văn, ngoài bổn phận và trách 
nhiệm đối với xã hội, còn là khát vọng bộc 
lộ và nhu cầu giải thoát cá nhân. Vì vậy, 
vấn đề phản ánh của văn học không chỉ 
hướng ra thế giới khách quan mà còn 
hướng vào thế giới chủ quan của chủ thể 
sáng tạo, vào con người vừa mang bản chất 
xã hội vừa mang bản năng vốn có, tồn tại 
trong hữu thức và vô thức. Đó là một “hiện 
thực vô bờ bến” (từ dùng trước đây bị phê 
phán), ôm chứa mọi phương diện của tự 
nhiên, xã hội và con người, tạo nên không 
gian vô tận cho sự tìm tòi, khám phá và 
sáng tạo của nhà văn. Sự khởi đầu cho một 
thời kỳ mới của văn học đã manh nha từ 
năm 1975, nhưng phải đến năm 1986 trở về 
sau mới ngày càng hình thành rõ diện mạo 
với sự nhập cuộc mạnh mẽ của cả đội ngũ 
nhà văn như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn 
Huy Thiệp, Dư Thị Hoàn, Phùng Gia Lộc, 
Bảo Ninh, Chu Lai, Phạm Thị Hoài, Tạ 
Duy Anh, Hồ Anh Thái, Vi Thùy Linh .v.v. 
Theo đó, sự tiếp cận chân trời nghệ thuật 
đòi hỏi giới phê bình phải có bản lĩnh và 
nhiệt tâm tìm kiếm nhiều con đường, nhiều 
phương pháp khác nhau. Ngoài việc vận 
dụng phương pháp xã hội học, phương 
pháp tiểu sử học, phương pháp thi pháp 
học, mỹ học tiếp nhận và thông diễn học 
.v.v giới phê bình còn dũng cảm “chống 
thói tự mãn cộng sản” (từ dùng của 
V.I.Lênin), mạnh dạn vận dụng ánh sáng 
phương pháp luận từ thế giới quan của triết 
học phi vô sản để khám phá văn học từ góc 
nhìn hiện sinh và phân tâm học. Tính đa 
nguyên trong phê bình nghiên cứu đã tạo 
nên không khí dân chủ, phát huy hiệu lực 
giải mã văn học đa chiều, đa diện không chỉ 
đối với văn học đương đại mà còn đối với 
văn học trước đó, chẳng hạn như sáng tác 
của Hồ Xuân Hương, Nguyễn Gia Thiều, 
Bà Huyện Thanh Quan, Hoàng Cầm, Xuân 
72 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN 
Diệu, Chế Lan Viên .v.v mà công trình Bút pháp của ham muốn của Đỗ Lai Thúy có thể 
được xem là một sự nổ lực đáng ghi nhận. 
 Vận dụng phương pháp phê bình nào thì ít hay nhiều, đều đem lại những phát hiện 
mới, nhưng đồng thời qua đó cũng bộc lộ những giới hạn nhất định. Sự xuất hiện phương 
pháp phê bình này, chẳng những không loại trừ phương pháp phê bình kia mà còn góp phần 
khám phá thêm cái mới trong chân trời nghệ thuật. Càng nhiều cái mới được phát hiện thì 
càng giúp cho người đọc mở rộng tầm nhìn và nhận thức sâu hơn về chân trời nghệ thuật 
bao la và vô tận trong văn học 
Abstract 
Effect of Multi-dimension in Literary Criticism 
 Each literary work is one horizon of art. Discovering its values cannot be approached 
by one direction but through multi – ways with many different critical methods. The multi – 
dimension, and multi - method in literary criticism will help broaden our vision and perception 
beyond the vast horizon of literary art. 
 Key words: Literary criticism 

File đính kèm:

  • pdfhieu_luc_cua_tinh_da_chieu_trong_phe_binh_van_hoc.pdf