Hiệp định TBT và vấn đề quan ngại thương mại

Tóm tắt

Sử dụng những biện pháp kỹ thuật nhằm đảm bảo an ninh quốc gia, bảo vệ sức khỏe,

an toàn cho con người, động thực vật, bảo vệ môi trường và tránh những hành động man

trá là cần thiết, chính nghĩa, hợp pháp. Tuy nhiên, để các biện pháp kỹ thuật không thể trở

thành rào cản trong thương mại quốc tế, các thành viên của WTO phải tuân thủ Hiệp định

TBT1 khi xây dựng và sử dụng những biện pháp kỹ thuật. Nếu một thành viên có những biện

pháp kỹ thuật không phù hợp với Hiệp định này sẽ có thể bị các thành viên khác bày tỏ quan

ngại hoặc yêu cầu tham vấn tại Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO. Là thành viên của

WTO, bên cạnh việc tuân thủ những quy định của Tổ chức này, Việt Nam cũng cần biết cách

bảo vệ lợi ích của mình trước sự vi phạm của thành viên khác hoặc biết cách đối phó với

những quan ngại về TBT. Bài viết này đề cập đến vấn đề quan ngại thương mại liên quan

đến Hiệp định TBT và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam.

Từ khóa: Hiệp định TBT, quan ngại thương mại

Hiệp định TBT và vấn đề quan ngại thương mại trang 1

Trang 1

Hiệp định TBT và vấn đề quan ngại thương mại trang 2

Trang 2

Hiệp định TBT và vấn đề quan ngại thương mại trang 3

Trang 3

Hiệp định TBT và vấn đề quan ngại thương mại trang 4

Trang 4

Hiệp định TBT và vấn đề quan ngại thương mại trang 5

Trang 5

Hiệp định TBT và vấn đề quan ngại thương mại trang 6

Trang 6

Hiệp định TBT và vấn đề quan ngại thương mại trang 7

Trang 7

pdf 7 trang baonam 7020
Bạn đang xem tài liệu "Hiệp định TBT và vấn đề quan ngại thương mại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiệp định TBT và vấn đề quan ngại thương mại

Hiệp định TBT và vấn đề quan ngại thương mại
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
30 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 70 (02/2015)
1. Khái niệm về quan ngại thương mại 
liên quan Hiệp định TBT
Quan ngại thương mại liên quan Hiệp định 
TBT hay quan ngại thương mại về TBT (TBT 
trade concern) là việc một hay nhiều thành 
viên của WTO bày tỏ sự lo ngại đối với biện 
pháp kỹ thuật của thành viên khác bởi họ cho 
rằng chính biện pháp kỹ thuật đó (được thể 
hiện dưới những hình thức như quy chuẩn kỹ 
thuật, tiêu chuẩn kỹ thuật, quy trình đánh giá 
sự hợp chuẩn) mà thành viên đó áp dụng tạo ra 
rào cản thương mại quá mức cần thiết, có ảnh 
hưởng xấu tới hoạt động xuất khẩu hàng hóa 
của họ. Ví dụ, ngày 15/6/2011, một số thành 
viên của WTO như EU, cộng hòa Dominica, 
Indonesia, Mexico, Uruguay, Philippines, 
New Zealand, đã bày tỏ quan ngại đối với 
dự thảo của Úc về hình ảnh được in trên bao 
HIỆP ĐỊNH TBT VÀ VẤN ĐỀ QUAN NGẠI 
THƯƠNG MẠI 
Lê Thị Việt Nga*
Tóm tắt
 Sử dụng những biện pháp kỹ thuật nhằm đảm bảo an ninh quốc gia, bảo vệ sức khỏe, 
an toàn cho con người, động thực vật, bảo vệ môi trường và tránh những hành động man 
trá là cần thiết, chính nghĩa, hợp pháp. Tuy nhiên, để các biện pháp kỹ thuật không thể trở 
thành rào cản trong thương mại quốc tế, các thành viên của WTO phải tuân thủ Hiệp định 
TBT1 khi xây dựng và sử dụng những biện pháp kỹ thuật. Nếu một thành viên có những biện 
pháp kỹ thuật không phù hợp với Hiệp định này sẽ có thể bị các thành viên khác bày tỏ quan 
ngại hoặc yêu cầu tham vấn tại Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO. Là thành viên của 
WTO, bên cạnh việc tuân thủ những quy định của Tổ chức này, Việt Nam cũng cần biết cách 
bảo vệ lợi ích của mình trước sự vi phạm của thành viên khác hoặc biết cách đối phó với 
những quan ngại về TBT. Bài viết này đề cập đến vấn đề quan ngại thương mại liên quan 
đến Hiệp định TBT và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam.
Từ khóa: Hiệp định TBT, quan ngại thương mại
Mã số: 74.110714; Ngày nhận bài: 11/07/2014; Ngày biên tập: 15/11/2014; Ngày duyệt đăng: 10/12/2014
* TS. Đại học Thương mại
1 Hiệp định TBT (Tiếng Anh là The Agreement on Technical Barriers to Trade) có nghĩa tiếng Việt là Hiệp định 
về hàng rào kỹ thuật trong thương mại.
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
31Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 70 (02/2015)
thuốc lá. Theo dự thảo này, các hãng thuốc lá 
phải in những cảnh báo về sức khỏe với những 
hình ảnh rùng rợn, không được in biểu tượng, 
logo của nhà sản xuất trên vỏ bao thuốc lá 
điếu khi bán trên thị trường Úc. Mục đích của 
quy định này là để làm giảm sự hấp dẫn của 
vỏ bao thuốc lá đối với người tiêu dùng, giảm 
việc hút thuốc lá trong cộng đồng và bảo vệ 
sức khỏe người tiêu dùng. Chính phủ Úc cho 
rằng quy định đó phù hợp với Công ước kiểm 
soát thuốc lá do Tổ chức Y tế Thế giới đưa 
ra. Tuy nhiên, các nước có các hãng thuốc lá 
nổi tiếng thì cho rằng quy định của Úc cản trở 
thương mại quá mức cần thiết, làm ảnh hưởng 
tới hoạt động kinh doanh thuốc lá của họ. Các 
nước đang phát triển đặc biệt ở Châu Phi, 
Châu Mỹ La tinh là nơi cung cấp nguyên liệu 
thuốc lá cho các nước phát triển cho rằng quy 
định này sẽ gây tổn thất nặng nề cho người 
nông dân do mất công ăn việc làm. Một ví dụ 
khác, cuối năm 2013, Trung Quốc bày tỏ quan 
ngại đối với EU trước WTO về quy định của 
EU liên quan hóa chất trong da thuộc. Cụ thể, 
Trung Quốc cho rằng việc EU quy định Crom 
hóa trị VI sử dụng trong da thuộc không được 
vượt quá 3mg/kg là không phù hợp Điều 2.2 
và 2.5 của Hiệp định TBT, không có căn cứ 
khoa học và ảnh hưởng tới các doanh nghiệp 
ngành da. Tháng 5/ 2014, EU đã phản hồi với 
Trung Quốc rằng do Crom hóa trị VI có trong 
các sản phẩm làm bằng da có tác động gây 
dị ứng đối với người sử dụng, có khoảng 3% 
người dân EU bị dị ứng bởi chất này nên EU 
muốn khống chế hàm lượng của chất đó để 
bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng.
2. Quan ngại thương mại và tranh chấp 
thương mại về TBT
Khi một thành viên có quan ngại thương 
mại về TBT, thành viên đó sẽ bày tỏ quan ngại 
trước cuộc họp định kỳ của Ủy ban TBT của 
WTO. Vấn đề quan ngại thương mại có thể 
được giải quyết sau quá trình trao đổi thảo 
luận giữa các bên liên quan, theo đó thành 
viên có vấn đề bị quan ngại có thể chứng minh 
sự cần thiết, hợp lý của biện pháp kỹ thuật 
mình sử dụng hoặc tiếp thu ý kiến của thành 
viên khác để điều chỉnh những nội dung cần 
thiết nhằm đảm bảo rằng biện pháp kỹ thuật 
đó không vi phạm Hiệp định TBT. Tuy nhiên, 
nếu quan ngại thương mại về TBT không được 
giải quyết hiệu quả thông qua các cuộc trao 
đổi, thảo luận giữa các thành viên thì có thể 
dẫn đến tranh chấp thương mại. Tranh chấp 
thương mại về TBT được coi là bắt đầu hình 
thành khi một thành viên có yêu cầu tham vấn 
với một thành viên khác về biện pháp kỹ thuật 
được coi là không phù hợp với Hiệp định TBT 
của WTO. Yêu cầu tham vấn phải được thể 
hiện bằng văn bản và được gửi tới Cơ quan 
giải quyết tranh chấp của WTO. Toàn bộ quá 
trình giải quyết tran ... iện 
pháp kỹ thuật đó. Tuy nhiên, thực tế cho thấy 
các quan ngại thương mại về TBT không chỉ 
bao gồm những quan ngại về những biện pháp 
đã được thông báo mà còn bao gồm những 
biện pháp chưa được thông báo và những biện 
pháp chưa được thông báo lại là vấn đề khiến 
nhiều thành viên bày tỏ quan ngại tại Ủy ban 
TBT của WTO.
Trong số các thành viên nêu các trường hợp 
quan ngại thương mại, tính đến tháng 6 năm 
2014, EU và Hoa kỳ là hai thành viên tích cực 
nhất trong việc đưa quan ngại thương mại về 
TBT ra trước cuộc họp của Ủy ban TBT của 
WTO với số lượng quan ngại được đưa ra bởi 
hai thành viên này tương ứng là 177 và 150. 
EU cũng là thành viên đứng đầu trong danh 
sách những thành viên bị quan ngại, tiếp theo 
là Trung Quốc và Hoa kỳ. Việt Nam đứng thứ 
10 trong danh sách này với số lần bị quan ngại 
là 25. Số liệu thống kê của WTO cũng cho thấy 
hầu hết quan ngại thương mại về TBT được 
đưa ra là những quan ngại giữa hai bên, bao 
gồm bên quan ngại và bên bị quan ngại. Có 
khoảng 40% trường hợp quan ngại có sự tham 
gia của hai đến năm thành viên, 7% trường hợp 
quan ngại có sự tham gia của sáu đến mười 
thành viên, khoảng 3% trường hợp có sự tham 
gia của hơn 10 thành viên (Horn, 2013). 
Những sản phẩm được đề cập trong các 
quan ngại về TBT bao gồm các sản phẩm thực 
phẩm, đồ uống giải khát và rượu, sản phẩm 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
33Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 70 (02/2015)
hoá chất, dệt may, máy móc, cơ khí và thiết bị 
điện, phương tiện giao thông và trang thiết bị 
giao thông có liên quan. Nguyên nhân khiến 
các thành viên quan ngại chủ yếu là những 
biện pháp TBT được coi là phân biệt đối xử, 
không minh bạch, không sử dụng tiêu chuẩn 
quốc tế hoặc thiếu cơ sở khoa học nên tạo ra 
rào cản thương mại không cần thiết. Chẳng 
hạn, tháng 3 năm 2010, EU và Hoa kỳ đã bày 
tỏ quan ngại đối với Hàn Quốc khi nước này 
đưa ra Dự thảo về quy chuẩn định mức sử dụng 
hiệu quả nhiên liệu đối với ô tô và giảm khí 
thải hiệu ứng nhà kính. Đại diện của EU hoan 
nghênh Dự thảo này của Hàn Quốc vì cho rằng 
nếu thực hiện được quy chuẩn này, Hàn Quốc 
cùng với EU và nhiều quốc gia khác trên thế 
giới có thể chung tay bảo vệ môi trường tốt 
hơn thông qua việc cắt giảm khí CO2 từ ô tô 
vào môi trường. Tuy nhiên, theo EU, Dự thảo 
này có thế làm ảnh hưởng đáng kể tới các nhà 
sản xuất ô tô của EU. Bởi vì các nhà sản xuất 
ô tô của EU phải đáp ứng hơn gấp đôi mức độ 
yêu cầu so với các nhà sản xuất ô tô nội địa 
của Hàn Quốc. Điều này không chỉ thể hiện sự 
phân biệt đối xử mà còn tạo ra trở ngại lớn cho 
các nhà sản xuất ô tô của EU khi xuất khẩu 
hàng hóa vào thị trường Hàn Quốc. Qua đó 
cho thấy, việc đưa ra những quy chuẩn không 
đảm bảo tuân thủ nguyên tắc không phân biệt 
đối xử của Hiệp định TBT là nguyên nhân 
hình thành quan ngại thương mại. 
Quan ngại sẽ được giải quyết hiệu quả nếu 
các bên tích cực trao đổi, thảo luận, đặc biệt 
phía thành viên có vấn đề bị quan ngại có thể 
giải trình hoặc tiếp thu điều chỉnh nhằm đảm 
bảo phù hợp những quy định của Hiệp định 
TBT. Tuy nhiên, nếu không được giải quyết 
ổn thỏa, vấn đề quan ngại rất có thể trở thành 
tranh chấp thương mại về TBT. Trường hợp 
lệnh cấm nhập khẩu thuốc lá điếu có tẩm hương 
liệu từ cây đinh hương (clove cigarrettes) của 
Hoa kỳ là ví dụ điển hình về một quan ngại 
không được giải quyết tốt và đã bị đẩy thành 
tranh chấp thương mại. Tháng 5 năm 2009, 
Indonesia đã bày tỏ quan ngại trước cuộc họp 
của Ủy ban TBT của WTO về Luật kiểm soát 
thuốc lá và ngăn chặn việc hút thuốc trong gia 
đình của Hoa kỳ. Đại diện của Indonesia cho 
rằng việc Hoa kỳ đưa ra quy định cấm sản xuất 
và marketing những sản phẩm thuốc lá điếu có 
thêm hương liệu, trong đó có sản phẩm thuốc 
lá điếu có mùi đinh hương, nhưng vẫn cho 
phép sản xuất và bán những sản phẩm thuốc 
lá điếu có hương liệu khác, chẳng hạn như 
hương bạc hà, là thể hiện sự phân biệt đối xử 
với hàng nhập khẩu và tạo ra rào cản thương 
mại không cần thiết; bởi vậy Hoa kỳ nên xem 
xét dỡ bỏ lệnh cấm này. Đại diện của Hoa kỳ 
cho rằng Hoa kỳ sẽ không dỡ bỏ lệnh cấm này, 
cơ quan y tế của Hoa kỳ cũng ủng hộ lệnh cấm 
này để bảo vệ sức khỏe của người tiêu dùng, 
đặc biệt giới trẻ. Phía Hoa kỳ cho rằng thuốc 
lá điếu có mùi đinh hương có sức hấp dẫn đặc 
biệt đối với người hút thuốc, đặc biệt làm cho 
người mới hút thuốc cảm thấy dễ hút hơn, từ 
đó có thể làm cho họ quen với việc hút thuốc, 
hút nhiều hơn và sẽ hút được những loại thuốc 
lá thông thường khác. Ngoài ra, Hoa kỳ cũng 
cho rằng thuốc lá điếu mùi đinh hương tiềm ẩn 
nhiều rủi ro đối với sức khỏe của con người. 
Đại diện của Hoa kỳ giải thích lệnh cấm này 
không phải là công cụ phân biệt đối xử với 
hàng nhập khẩu vì có những sự khác biệt đáng 
kể liên quan đến việc tiêu dùng, cách sử dụng 
và những vấn đề về dịch tễ học giữa thuốc lá 
điếu có mùi đinh hương và thuốc lá điếu có 
mùi bạc hà, đây là hai trường hợp không thể so 
sánh với nhau được (not comparable). Sau thời 
gian thảo luận, phía Indonesia bày tỏ sự chia 
sẻ, thấu hiểu về những lập luận được xem là cơ 
sở của việc đưa ra lệnh cấm của Hoa kỳ. Tuy 
nhiên, vì Indonesia là một nước sản xuất thuốc 
lá điếu mùi đinh hương chủ yếu trên thế giới 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
34 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 70 (02/2015)
và khối lượng lớn sản phẩm này được tiêu thụ 
tại thị trường Hoa kỳ nên lệnh cấm của Hoa kỳ 
ảnh hưởng đáng kể tới lợi ích thương mại của 
các doanh nghiệp của Indonesia. Vì vậy, ngày 
7 tháng 4 năm 2010, Indonesia đã gửi đến Cơ 
quan giải quyết tranh chấp của WTO đơn yêu 
cầu tham vấn với Hoa kỳ về Luật kiểm soát 
thuốc lá và ngăn chặn việc hút thuốc trong gia 
đình, trong đó có điều khoản cấm sản xuất và 
bán thuốc lá điếu có mùi đinh hương nhưng vẫn 
cho phép sản xuất và bán thuốc lá điếu có mùi 
bạc hà. Indonesia cho rằng Hoa kỳ đã sử dụng 
biện pháp phân biệt đối xử hàng nhập khẩu, tạo 
ra rào cản thương mại không cần thiết, vi phạm 
các điều III.4 của GATT 1994, điều 2 của Hiệp 
định TBT. Tháng 6 năm 2010, Indonesia tiếp 
tục gửi đơn yêu cầu thành lập Ban hội thẩm. 
Tháng 9 năm 2011, báo cáo của Ban hội thẩm 
đã được gửi tới các thành viên của WTO, trong 
đó Ban hội thẩm cho rằng lệnh cấm của Hoa 
kỳ đã vi phạm nguyên tắc đối xử quốc gia được 
quy định tại điều 2.1 của Hiệp định TBT vì mặt 
hàng thuốc lá điếu có mùi đinh hương và thuốc 
lá điếu có mùi bạc hà là các sản phẩm giống 
hệt, đều là thuốc lá điếu có tẩm hương liệu và 
đều có sức hấp dẫn đối với người hút thuốc. 
Vì vậy Hoa kỳ nên điều chỉnh quy định này để 
đảm bảo phù hợp Hiệp định TBT. Tuy nhiên, 
vì Indonesia không có bằng chứng chứng minh 
lệnh cấm của Hoa kỳ là rào cản thương mại 
không cần thiết nên Ban hội thẩm không có kết 
luận về vấn đề này.Tháng 10 năm 2014, Hoa 
kỳ và Indonesia đã thống nhất được giải pháp 
chung và không phải sử dụng đến biện pháp trả 
đũa thương mại. 
Liên quan đến Việt Nam, từ khi gia nhập 
WTO đến nay, Việt Nam chưa có lần nào bày 
tỏ quan ngại thương mại với bất kỳ thành viên 
nào nhưng là quốc gia đã được các thành viên 
bày tỏ quan ngại, đó là quan ngại đối với dự 
thảo Quy chuẩn quốc gia của Bộ Y tế về đồ 
uống có cồn, một số nước trong đó có Hoa Kỳ 
và EU cho rằng một vài điểm của quy chuẩn 
chưa phù hợp với quy định của Ủy ban Quốc 
tế về Tiêu chuẩn hóa Thực phẩm Codex và Tổ 
chức Rượu Vang Quốc tế - OIV; quan ngại đối 
với quy định của Bộ Công Thương liên quan 
đến rượu, mỹ phẩm, điện thoại di động, một 
số nước cho rằng biện pháp đưa ra hạn chế 
thương mại quá mức cần thiết và chưa minh 
bạch; quan ngại đối với Nghị định số 38 của 
Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều 
của Luật An toàn Thực phẩm, một số thành 
viên WTO cho rằng thời gian từ khi ban hành 
đến khi nghị định này có hiệu lực là quá ngắn, 
không đủ để chuẩn bị thực hiện. Như vậy, rõ 
ràng để những biện pháp kỹ thuật được sử 
dụng với những mục đích hợp pháp, những 
biện pháp đó cần phải được đảm bảo phù 
hợp với những quy định của Hiệp định TBT 
sau khi Việt Nam đã trở thành thành viên của 
WTO. Việt Nam đã hợp tác cùng với các thành 
viên, tích cực trao đổi, thảo luận và tiếp thu ý 
kiến nên đã không để phát sinh tranh chấp nào 
về các biện pháp kỹ thuật.
Như vậy, với mục tiêu thúc đẩy tự do hóa 
thương mại, thúc đẩy thương mại thế giới 
phát triển bền vững, WTO đã xây dựng Hiệp 
định TBT với ý nghĩa là một khuôn khổ pháp 
lý điều chỉnh việc sử dụng các biện pháp kỹ 
thuật của các thành viên nhằm đảm bảo các 
biện pháp kỹ thuật được các quốc gia sử dụng 
với mục đích hợp pháp và không thể trở thành 
rào cản không cần thiết trong thương mại quốc 
tế. Tuy nhiên, có những thành viên chưa đảm 
bảo tuân thủ nội dung của Hiệp định TBT nên 
làm phát sinh những quan ngại thương mại và 
tranh chấp thương mại về TBT. Những quan 
ngại và tranh chấp về TBT tại WTO trong thời 
gian qua đã phần nào chứng tỏ xu hướng sử 
dụng các biện pháp kỹ thuật tại các quốc gia 
và ảnh hưởng của các biện pháp đó tới hoạt 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
35Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 70 (02/2015)
động thương mại của quốc gia khác. Trước 
những quan ngại được đưa ra, các thành viên 
đã có quá trình làm việc tích cực để thảo luận, 
giải trình, góp ý, tiếp thu và điều chỉnh nhằm 
giải quyết tốt những vấn đề được quan ngại, 
kiềm chế làm phát sinh tranh chấp thương mại 
để không làm tăng căng thẳng trong mối quan 
hệ giữa các quốc gia cũng như để không ảnh 
hưởng đến lợi ích của các thành viên.
4. Những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam 
Trải qua gần 8 năm là thành viên của WTO, 
Việt Nam chưa tham gia tranh chấp nào liên 
quan đến Hiệp định TBT, chưa lần nào bày tỏ 
quan ngại về biện pháp kỹ thuật của các thành 
viên khác nhưng đã được các thành viên bày 
tỏ quan ngại trong một số trường hợp. Việc sử 
dụng các biện pháp kỹ thuật là cần thiết vì bất 
kỳ quốc gia nào cũng đểu quan tâm tới vấn đề 
bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ con người, môi 
trường, đời sống động thực vật. Tuy nhiên, 
việc sử dụng các biện pháp kỹ thuật không 
phù hợp với Hiệp định của WTO làm cản 
trở hoạt động thương mại của các thành viên 
khác đã làm phát sinh quan ngại thương mại 
về TBT hoặc tranh chấp thương mại về TBT. 
Tham gia giải quyết những quan ngại thương 
mại về TBT đòi hỏi các thành viên phải có 
nguồn nhân lực, nguồn tài chính và thời gian. 
Ngoài ra, việc thường xuyên bị các thành viên 
khác bày tỏ quan ngại hay khởi kiện vì sự vi 
phạm Hiệp định của WTO còn làm ảnh hưởng 
đến uy tín, vị thế của tư cách thành viên. Vì 
vậy, để hạn chế làm phát sinh quan ngại, cũng 
như để giải quyết tốt những quan ngại nếu xảy 
ra, Việt Nam cần chú ý những vấn đề sau đây:
Thứ nhất, các cơ quan quản lý Nhà nước 
ngành cần hiểu đúng về Hiệp định TBT và đảm 
bảo các quy chuẩn kỹ thuật được xây dựng 
phù hợp với nội dung của Hiệp định này. Như 
đã trình bày ở trên, nguyên nhân của phần lớn 
các trường hợp quan ngại về TBT chính là các 
quy chuẩn của quốc gia thiếu minh bạch, thiếu 
cơ sở khoa học, được sử dụng theo cách phân 
biệt đối xử. Bởi vậy, nhận thức đầy đủ, toàn 
diện, đúng đắn về nội dung của Hiệp định sẽ 
giúp cho việc vận dụng trở nên hiệu quả hơn, 
Việt Nam sẽ có những biện pháp kỹ thuật hợp 
pháp, phù hợp tiêu chuẩn quốc tế nhằm bảo vệ 
người tiêu dùng, bảo vệ môi trường, đồng thời 
giúp các doanh nghiệp có cơ sở để đẩy mạnh 
ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ và 
phát triển sản phẩm sang các thị trường khác. 
Thứ hai, các cơ quan chuyên trách về TBT 
cũng cần hiểu rõ nội dung của Hiệp định TBT 
để Việt Nam có phương án giải quyết tốt những 
trường hợp quan ngại mà các thành viên khác 
đưa ra, hạn chế làm phát sinh căng thẳng trong 
mối quan hệ với các nước cũng như hạn chế 
phát sinh tranh chấp để không làm ảnh hưởng 
đến hoạt động thương mại giữa các quốc gia. 
Nếu các quan ngại thương mại không được 
giải quyết tốt thì các thành viên sẽ tiếp tục đưa 
vấn đề ra trước các cuộc họp tại WTO để thảo 
luận hoặc có thể bị đẩy lên thành tranh chấp 
thương mại, điều này gây tốn kém thời gian và 
chi phí cho các bên liên quan. 
Thứ ba, các doanh nghiệp, cá nhân có liên 
quan và quan tâm cần chủ động và tích cực 
hơn nữa trong việc nghiên cứu các biện pháp 
kỹ thuật của các nước thành viên WTO, góp ý 
kiến và kiến nghị đối với các biện pháp có khả 
năng cản trở thương mại của Việt Nam tại các 
thị trường của các thành viên có liên quan. Nói 
cách khác, Việt Nam cũng nên biết cách bày 
tỏ quan ngại khi cần thiết để bảo vệ lợi ích của 
mình khi tham gia thương mại quốc tế. Muốn 
vậy, bản thân các doanh nghiệp trong nước 
sau khi đã được văn phòng TBT Việt Nam gửi 
các thông báo về các biện pháp kỹ thuật của 
các thành viên thì cần nghiên cứu kỹ lưỡng nội 
dung và sự tác động đến hoạt động thương mại 
của mình, tác động đến vấn đề an ninh quốc 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
36 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 70 (02/2015)
gia, môi trường, người tiêu dùng để kịp thời 
bày tỏ quan ngại với các thành viên đó, thậm 
chí có thể yêu cầu tham vấn nếu cần thiết.
Thứ tư, văn phòng TBT Việt Nam và các 
cơ quan trong mạng lưới TBT Việt Nam tiếp 
tục tăng cường việc thực hiện các chức năng, 
nhiệm vụ của mình để đảm bảo thông tin hai 
chiều giữa WTO và các thành viên của WTO 
với các cơ quan chức năng, các tổ chức có liên 
quan ở Việt Nam một cách thông suốt, liên tục, 
kịp thời, chính xác. Đồng thời, Văn phòng có 
thể tăng cường hợp tác với các trường đại học, 
Viện nghiên cứu, các doanh nghiệp để triển 
khai các hoạt động tuyền truyền phổ biến, cập 
nhật kiến thức, thông tin liên quan đến các 
biện pháp kỹ thuật trong thương mại, vấn đề 
quan ngại và tranh chấp thương mại về TBT 
để các doanh nghiệp có nhận thức rõ hơn về 
vấn đề đó, từ đó có thể gửi ý kiến tới cơ quan 
chức năng, giúp các cơ quan chức năng bày tỏ 
quan ngại đối với các biện pháp kỹ thuật của 
các thành viên khác.
Quan ngại thương mại về TBT là cách mà 
các thành viên sử dụng nhằm bảo vệ lợi ích 
thương mại của mình trước hành động của 
thành viên khác được coi là vi phạm Hiệp định 
TBT của WTO. Để hạn chế quan ngại thương 
mại xảy ra với mình cũng như để đối phó giải 
quyết tốt những quan ngại thương mại nếu xảy 
ra hoặc để sử dụng quan ngại thương mại là 
cách để bảo vệ quyền lợi của mình, cần có sự 
phối kết hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh 
nghiệp, trường đại học nhằm nâng cao nhận 
thức về Hiệp định TBT của các doanh nghiệp, 
các cơ quan, tổ chức, các cá nhân, từ đó góp 
phần nâng cao khả năng vận dụng Hiệp định 
một cách hiệu quả.q
Tài liệu tham khảo
1. Henrik Horn (2013), In the shadow of the DSU, addressing the specific trade concerns 
in the WTO SPS and TBT committee, IFN working paper No 960
2.  
truy cập ngày 25/11/2014
3.  
truy cập ngày 25/11/2014
4.  truy 
cập ngày 25/11/2014
5.  
truy cập ngày 25/11/2014
6.  truy cập ngày 
5/11/2014
7.  truy cập 
ngày 5/11/2014.

File đính kèm:

  • pdfhiep_dinh_tbt_va_van_de_quan_ngai_thuong_mai.pdf