Hành vi mua sắm trực tuyến của người tiêu dùng trên các website doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh dịch COVID-19
ng tác động to lớn đến cuộc sống hàng ngày
và thói quen mua sắm của người dân Việt Nam.
Dịch Covid-19 do virus Corona chủng mới
(SARS-CoV-2) gây ra đã tác động lên 202/204
quốc gia, vùng lãnh thổ và được Tổ chức Y tế
Thế giới (WHO) chính thức công bố là đại dịch
toàn cầu [1]. Tính đến ngày 30/3/2020, thế giới
đã ghi nhận hơn 721.000 ca nhiễm bệnh với
34.000 người tử vong; tỷ lệ tử vong được xác
định là 4,71% [2]. Bên cạnh đó, nhờ các chính
sách phòng dịch chặt chẽ từ Chính phủ, đến
ngày 30/3/2020, Việt Nam ghi nhận 194 ca
dương tính, chủ yếu đến từ các thành phố lớn
với mật độ dân số cao và đông khách du lịch
như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng
[3]. Trong suốt 4 tháng xảy ra dịch bệnh, xã hội
và kinh tế Việt Nam đã có những thay đổi nhất
định - người dân từ sợ hãi chuyển sang hành
động, từ gặp gỡ trực tiếp chuyển sang kết nối
từ xa.
Khi dịch bệnh bùng nổ và đạt đến đỉnh cao
vào thời điểm tháng 3/2020, Chính phủ đã đưa
ra các quyết định tạm đóng cửa các cơ sở kinh
doanh dịch vụ tại Hà Nội, ngoại trừ cơ sở kinh
doanh thực phẩm, dịch vụ ngân hàng hay khám
chữa bệnh [4]. Điều này càng ảnh hưởng mạnh
mẽ đến lối sống kết nối thường ngày của người
dân, nhưng đó chính là điều kiện để đảm bảo an
toàn cho cả gia đình và toàn xã hội [5].
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hành vi mua sắm trực tuyến của người tiêu dùng trên các website doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh dịch COVID-19
VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 3 (2020) 11-21 11 Original Article Consumer Behaviour Towards Vietnamese Online Shopping Websites in the Covid-19 Pandemic Nguyen Thu Ha*, Hoang Dam Luong Thuy VNU University of Economics and Business, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam Received 10 April 2020 Revised 18 August 2020; Accepted 18 August 2020 Abstract: The theory of planned behaviour (TPB) was applied in this research in order to evaluate the influences of three factors including attitude, subjective norm and perceived behavioural control on online shopping purchase intention and behaviour towards websites in Vietnam. Data were collected from 170 online buyer in Vietnam, who responded willingly and fully to a questionnaire-based survey through Google Drive. The analysis results show that all three factors have positive impact on customer’s online purchase intention and behaviour in the Covid-19 pandemic. Especially, attitude is considered to have the greatest effects, followed by subjective norm and then perceived behavioural control that impacted on consumer shopping intention. In addition, the research also proposed some implications to diversify Covid-19 propagandas, encourage people using online shopping as well as support them in daily life during Covid-19 pandemic. Keywords: Theory of Planned Behaviour (TPB), online purchase intention, online shopping behaviour, online shopping website, COVID-19 pandemic. D* _______ * Corresponding author. E-mail address: hant@vnu.edu.vn https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4342 H.D.L. Thuy, N.T. Ha / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 3 (2020) 11-21 12 Hành vi mua sắm trực tuyến của người tiêu dùng trên các website doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh dịch COVID-19 Nguyễn Thu Hà*, Hoàng Đàm Lương Thuý Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 10 tháng 4 năm 2020 Chỉnh sửa ngày 18 tháng 8 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 18 tháng 8 năm 2020 Tóm tắt: Nghiên cứu ứng dụng lý thuyết hành vi hoạch định (Theory of Planned Behaviour - TPB) nhằm đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố gồm thái độ, chuẩn mực chủ quan và nhận thức kiểm soát hành vi đến ý định và hành vi mua hàng trực tuyến trên các website doanh nghiệp Việt Nam. Khảo sát được thực hiện với 170 khách hàng tại Việt Nam bằng bảng câu hỏi được gửi qua Google Drive trong tháng 2-3/2020. Kết quả nghiên cứu cho thấy cả ba yếu tố thái độ, chuẩn mực chủ quan và nhận thức kiểm soát hành vi đều có sức ảnh hưởng đáng kể đến ý định và hành vi tiêu dùng trực tuyến của người tiêu dùng trong bối cảnh dịch COVID-19. Từ đó, nghiên cứu đề xuất một số kiến nghị nhằm tích cực chuyển đổi sang hình thức mua sắm trực tuyến, hỗ trợ người tiêu dùng yên tâm mua sắm trong bối cảnh dịch bệnh. Từ khóa: Thuyết hành vi hoạch định, ý định mua sắm trực tuyến, hành vi mua sắm trực tuyến, website doanh nghiệp, COVID-19. 1. Mở đầu * Sự bùng nổ của dịch COVID-19 đã dẫn đến những tác động to lớn đến cuộc sống hàng ngày và thói quen mua sắm của người dân Việt Nam. Dịch Covid-19 do virus Corona chủng mới (SARS-CoV-2) gây ra đã tác động lên 202/204 quốc gia, vùng lãnh thổ và được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) chính thức công bố là đại dịch toàn cầu [1]. Tính đến ngày 30/3/2020, thế giới đã ghi nhận hơn 721.000 ca nhiễm bệnh với 34.000 người tử vong; tỷ lệ tử vong được xác định là 4,71% [2]. Bên cạnh đó, nhờ các chính sách phòng dịch chặt chẽ từ Chính phủ, đến ngày 30/3/2020, Việt Nam ghi nhận 194 ca dương tính, chủ yếu đến từ các thành phố lớn với mật độ dân số cao và đông khách du lịch như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng [3]. Trong suốt 4 tháng xảy ra dịch bệnh, xã hội _______ * Tác giả liên hệ. Địa chỉ email: hant@vnu.edu.vn https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4342 và kinh tế Việt Nam đã có những thay đổi nhất định - người dân từ sợ hãi chuyển sang hành động, từ gặp gỡ trực tiếp chuyển sang kết nối từ xa. Khi dịch bệnh bùng nổ và đạt đến đỉnh cao vào thời điểm tháng 3/2020, Chính phủ đã đưa ra các quyết định tạm đóng cửa các cơ sở kinh doanh dịch vụ tại Hà Nội, ngoại trừ cơ sở kinh doanh thực phẩm, dịch vụ ngân hàng hay khám chữa bệnh [4]. Điều này càng ảnh hưởng mạnh mẽ đến lối sống kết nối thường ngày của người dân, nhưng đó chính là điều kiện để đảm bảo an toàn cho cả gia đình và toàn xã hội [5]. Một trong những phản ứng dễ nhìn thấy trong cách con người tiếp nhận sự cách ly là thay đổi thói quen mua sắm của họ. Từ mua sắm trực tiếp đến trực tuyến, người dân đang có sự thay đổi lớn về cách thức, địa điểm và đối tượng mua sắm trong mùa dịch COVID-19. Mua sắm trực tuyến nhu yếu phẩm qua các website doanh nghiệp trở nên cần thiết và hữu ích. Tuy nhiên, do đặc thù nghiên cứu và bối H.D.L. Thuy, N.T. Ha / VNU Journ ... ID-19 nên tôi chủ động sử dụng hình thức mua sắm trực tuyến 3,60 0,614 CM2 - Do mức độ nghiêm trọng của dịch bệnh COVID-19 nên tôi bắt buộc phải mua sắm trực tuyến 2.,96 0,634 CM3 - Do ảnh hưởng từ mọi người xung quanh (bạn bè, gia đình, họ hàng, đồng nghiệp) nên tôi chuyển sang mua sắm trực tuyến 2,51 0,430 CM4 - Do lời tuyên truyền, kêu gọi hạn chế đi lại của Chính phủ nên tôi lựa chọn hình thức mua sắm trực tuyến 3,35 0,760 CM5 - Do những thông điệp truyền thông “Hãy ở nhà”, “Ở nhà vẫn vui”, “#stayhome – It could save lives” trên các phương tiện truyền thông xã hội nên tôi lựa chọn hình thức mua sắm trực tuyến 3,26 0,726 CM6 - Tôi sử dụng hình thức mua sắm trực tuyến do bản thân thấy cần thiết chứ không phải từ áp lực xã hội hay dịch bệnh 3,90 0,262 H.D.L. Thuy, N.T. Ha / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 3 (2020) 11-21 17 Nhận thức kiểm soát hành vi - NT 4,04 0,940 NT1 - Hình thức hữu hiệu để giúp giảm nguy cơ lây nhiễm do tiếp xúc đám đông 4,08 0,870 NT2 - Hình thức mua phù hợp nhất để đảm bảo yêu cầu hạn chế tiếp xúc đám đông từ Chính phủ 4,11 0,862 NT3 - Hình thức mua sắm đáp ứng nhanh nhu cầu của khách hàng trong thời điểm Chính phủ đưa ra quyết định đóng cửa các cơ sở kinh doanh mà tôi hay sử dụng 3,96 0,848 NT4 - Hình thức mua sắm thuận tiện cho khách hàng trong mùa dịch COVID-19 4,05 0,853 Ý định mua sắm - YD 3,45 0,786 YD1 - Tôi chỉ có ý định mua sắm trực tuyến nếu có nhu cầu 3,98 0,334 YD2 - Tôi đang lên kế hoạch mua sắm trực tuyến trong mùa dịch COVID-19 2,93 0,490 YD3 - Tôi dự định mua hàng trực tuyến trong mùa dịch COVID-19 3,27 0,672 YD4 - Tôi sẽ tiếp tục mua hàng trực tuyến trong tương lai 3,99 0,665 YD5 - Tôi sẽ khuyên bạn bè, gia đình sử dụng hình thức mua sắm trực tuyến 3,63 0,698 Hành vi mua - HV 3,36 0,888 HV1 - Tôi luôn sử dụng hình thức mua hàng trực tuyến 3,11 0,735 HV2 - Tôi ưu tiên hình thức mua sắm trực tuyến hơn là đi ra ngoài để mua đồ 3,47 0,721 HV3 - Tôi sẽ tiếp tục mua sắm trực tuyến thường xuyên 3,44 0,823 HV4 - Tôi có kế hoạch mua hàng trực tuyến nhiều hơn trong tương lai 3,44 0,745 Nguồn: Kết quả phân tích của nhóm tác giả. Hình 2. Giá trị trung bình của các thang đo trong nghiên cứu. Nguồn: Kết quả phân tích của nhóm tác giả. H.D.L. Thuy, N.T. Ha / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 3 (2020) 11-21 18 Bảng 3 trình bày kết quả phân tích EAF và cho thấy cả 5 thang đo đều có giá trị Eigenvalues lớn hơn 1,1; KMO đạt 0,903 (KMO > 0,4). Do đó, thang đo 5 thành phần với 23 biến quan sát đạt độ tin cậy và được phân vào từng nhóm như giả thuyết. Nghiên cứu tiếp tục phân tích mối tương quan giữa 5 thành phần, kết quả cho thấy hệ số tương quan Pearson của 5 thang đo đều nằm trong dải giá trị từ 0,468 đến 0,677 - có nghĩa mức độ tương quan giữa 5 thành phần này là không lớn (Bảng 4). 4.3. Kiểm định giả thuyết nghiên cứu Trong Bảng 5, hệ số R2 hiệu chỉnh là 0,479 tức là các biến độc lập trong mô hình (Thái độ, Chuẩn mực chủ quan, Nhận thức kiểm soát hành vi) có thể giải thích được 47,9% sự biến thiên của biến phụ thuộc - Ý định mua sắm trực tuyến của khách hàng. Hệ số phóng đại phương sai VIF nhỏ hơn 1,80 cho thấy các biến độc lập này không có quan hệ chặt chẽ với nhau nên không có hiện tượng đa cộng tuyến xảy ra. Do đó, các biến độc lập này không có mối quan hệ với nhau. Tại mức ý nghĩa 5%, các biến có ảnh hưởng có ý nghĩa tới ý định mua trực tuyến của khách hàng trên các website doanh nghiệp là Thái độ, Chuẩn mực chủ quan, Nhận thức kiểm soát hành vi với hệ số lần lượt là 0,355; 0,201; và 0,178. Do đó, giả thuyết H1, H2, H3 được chấp nhận. Bảng 6 trình bày kết quả phân tích hồi quy giữa biến Ý định mua (biến độc lập) và Hành vi mua (biến phụ thuộc). Hệ số R2 hiệu chỉnh là 0,603 thể hiện Ý định mua có thể giải thích được 60,3% sự biến thiên của Hành vi mua trực tuyến của khách hàng. Hệ số phóng đại phương sai VIF nhỏ hơn 1,10 cho thấy không có hiện tượng đa cộng tuyến xảy ra. Tại mức ý nghĩa 5%, biến Ý định thể hiện tác động tích cực tới Hành vi mua trực tuyến của khách hàng trên các website doanh nghiệp với hệ số là 0,890. Do đó, giả thuyết H4 được chấp nhận. Bảng 3. Phân tích EAF Hệ số KMO 0,903 Kiểm định Bartlett Giá trị chi bình phương xấp xỉ 2926,194 df 253 Sig. 0,000 Nguồn: Kết quả phân tích của nhóm tác giả. Bảng 4. Phân tích tương quan các thang đo Nhận thức Chuẩn mực chủ quan Thái độ Ý định Hành vi Nhận thức 1 Chuẩn mực chủ quan 0,490** 1 Thái độ 0,630** 0,480** 1 Ý định 0,568** 0,522** 0,623** 1 Hành vi 0,522** 0,468** 0,566** 0,677** 1 Ghi chú: **Tương quan có ý nghĩa ở mức 0,01 (2-tailed). Nguồn: Kết quả phân tích của nhóm tác giả. H.D.L. Thuy, N.T. Ha / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 3 (2020) 11-21 19 Bảng 5. Kết quả phân tích hồi quy 1 Biến độc lập Hệ số Beta t Mức ý nghĩa VIF Thái độ 0,355 5,000 0,000 1,770 Chuẩn mực chủ quan 0,201 3,570 0,000 1,406 Nhận thức kiểm soát hành vi 0,178 2,892 0,004 1,793 R2 0,692 R2 hiệu chỉnh 0,479 F 50,893 Mức ý nghĩa 0,000 * Biến phụ thuộc: Ý định Nguồn: Kết quả phân tích của nhóm tác giả. Bảng 6. Kết quả phân tích hồi quy 2 Biến độc lập Hệ số Beta t Mức ý nghĩa VIF Ý định 0,890 15,986 0,000 1,000 R2 0,777 R2 hiệu chỉnh 0,603 F 255,558 Mức ý nghĩa 0,000 * Biến phụ thuộc: Hành vi mua Nguồn: Kết quả phân tích của nhóm tác giả. 5. Thảo luận, giải pháp đề xuất 5.1. Thảo luận Sau khi chạy các mô hình kiểm định và xác định được hệ số tác động, có thể kết luận các giả thuyết nghiên cứu (H1, H2, H3, H4) đều được chấp nhận. Trong đó, yếu tố thái độ có hệ số Beta lớn nhất (0,355) được coi là có tác động mạnh nhất đến ý định mua hàng trực tuyến qua website doanh nghiệp của người dân Việt Nam trong bối cảnh dịch COVID-19. Mặc dù hình thức mua hàng trực tuyến không phải mới và thật sự phổ cập ở Việt Nam, nhưng nó đặc biệt phát huy tác dụng khi dịch Covid-19 tiếp tục có những diễn biến phức tạp. Trong thời gian này, số lượng người dân mua hàng trực tuyến qua các website tăng đột biến do sự tiện lợi, đơn giản mà vẫn đảm bảo an toàn khi giao dịch. Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp đều cung cấp các chương trình “Đặt hàng tại nhà, tránh xa COVID-19” với nhiều chính sách giao nhận hàng hóa giá rẻ hoặc miễn phí, hoặc ưu đãi xả kho qua website giữa mùa dịch. Chẳng hạn như hệ thống Vinmart/Vinmart+ có chính sách giao hàng nhanh trong 3-5 tiếng; BigC miễn phí vận chuyển cho các đơn hàng trên 200.000 đồng; Lotte Mart ưu đãi giảm 10% cho các hóa đơn trên 500.000 đồng, tích lũy điểm vào thẻ; Saigon Co.op giảm giá tới 50% các mặt hàng thiết yếu [18]. Yếu tố Chuẩn mực chủ quan cũng thể hiện tác động tích cực đến ý định mua sắm trực tuyến của khách hàng trong bối cảnh dịch COVID-19 với hệ số tác động là 0,201. Kết quả nghiên cứu cho thấy ý định mua sắm trực tuyến của khách hàng chịu tác động lớn từ sự tuyên H.D.L. Thuy, N.T. Ha / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 3 (2020) 11-21 20 truyền, kêu gọi hạn chế đi lại của Chính phủ và thông điệp truyền thông trên các phương tiện truyền thông xã hội. Ngoài ra, yếu tố Nhận thức kiểm soát hành vi cũng có tác động tích cực đến ý định mua sắm trực tuyến của khách hàng trong bối cảnh dịch COVID-19 với hệ số tác động là 0,178, khi mà khách hàng ngày càng nhận thức rõ sự phù hợp, thuận tiện và hiệu quả của hình thức mua trực tuyến. 5.2. Một số đề xuất Từ kết quả nghiên cứu có thể thấy ý định và hành vi mua trực tuyến của khách hàng đều đang chịu ảnh hưởng lớn bởi lời kêu gọi, tuyên truyền của Chính phủ cũng như từ các thông điệp truyền thông xã hội. Các chính sách hạn chế tập trung đông người, các chốt kiểm tra lịch trình di chuyển của cá nhân và những thông điệp khuyến khích người dân ở nhà đều có tác động mạnh mẽ đến hành vi của mọi người. Vì vậy, trong thời gian tới, Chính phủ cần tiếp tục đẩy mạnh triển khai đa dạng các hoạt động tuyên truyền, đồng thời đưa ra các chính sách nhằm hỗ trợ cuộc sống của người dân trong mùa dịch. Trong bối cạnh đa phần người dân vẫn coi tiền mặt là hình thức thanh toán quen thuộc, thậm chí nhiều người dù mua trực tuyến nhưng vẫn thanh toán bằng tiền mặt với người giao hàng, các cơ quan nhà nước cần đẩy mạnh hoạt động truyền thông về ưu điểm của xu hướng thanh toán trực tuyến nhằm khuyến khích người dân chuyển đổi thói quen tiêu dùng. Cùng với đó, ngoài nguồn hàng phong phú, các doanh nghiệp cần cung cấp nhiều chính sách khuyến mại khi sử dụng ví điện tử hoặc thanh toán qua tài khoản ngân hàng để hạn chế việc tiếp xúc trực tiếp giữa các cá nhân. Bên cạnh đó, cần phải đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền người dân hạn chế tối đa tập trung cộng đồng. Thay vì chỉ tuyên truyền trên báo, tivi, loa đài, các doanh nghiệp cần đưa ra những giải pháp thiết thực như mở các điểm lấy hàng an toàn (Collection point) tại các nhà thuốc, siêu thị và triển khai hình thức tủ khóa thông minh (iLogic Smartbox) để người dân có thể lấy hàng tự động [19]. Tủ khóa thông minh là phương thức vô cùng tiện dụng và an toàn vì phải có mã OTP hoặc QR code thì mới mở được, đồng thời khách hàng có thể chủ động thời gian lấy hàng, không phải tiếp xúc trực tiếp với nhiều người. Những hình thức mới này vừa giúp tuân thủ các chính sách của Chính phủ, vừa đáp ứng được nhu cầu duy trì hoạt động sinh hoạt của người dân. 6. Kết luận Áp dụng khuôn khổ lý thuyết TPB, nghiên cứu đã xem xét ý định và hành vi mua sắm trực tuyến trên website doanh nghiệp của người dân Việt Nam trong bối cảnh dịch COVID-19 thông qua đánh giá ảnh hưởng của ba yếu tố gồm thái độ, chuẩn mực chủ quan và nhận thức kiểm soát hành vi. Kết quả cho thấy mô hình TPB trong lĩnh vực này có ý nghĩa thống kê và kết quả xác nhận rằng cả ba yếu tố đều tác động tích cực đến ý định và hành vi của người dân, xếp theo thứ tự ảnh hưởng lần lượt là i) Thái độ, ii) Chuẩn mực chủ quan và iii) Nhận thức kiểm soát hành vi. Do yếu tố khách quan về việc cách ly xã hội trong bối cảnh dịch COVID-19, quá trình khảo sát và kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả vẫn còn một số điểm hạn chế. Trong đó, hạn chế lớn nhất là số lượng người tham gia chưa nhiều và chưa đa dạng, chủ yếu là sinh viên và nhân viên văn phòng. Những nghiên cứu tiếp theo có thể vận dụng mô hình TPB để đánh giá các nội dung về tác động kinh tế, xã hội, chính trị đến hành vi người tiêu dùng trên phạm vi rộng hơn. Ngoài ra, COVID-19 đang là vấn đề nổi bật và cần được quan tâm tìm hiểu hiện nay, các nghiên cứu trong tương lai nên tiếp nối chủ đề này và đánh giá hành vi tiêu dùng trực tuyến của người tiêu dùng qua nhiều yếu tố tác động hơn như cảm nhận rủi ro, niềm tin của khách hàng hay thương hiệu doanh nghiệp. Tài liệu tham khảo [1] WHO, “Coronavirus”, Available at: https://www.who.int/health- H.D.L. Thuy, N.T. Ha / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 3 (2020) 11-21 21 topics/coronavirus#tab=tab-1/, 2020 (accessed 30 March 2020). [2] N. Dong, “Living in responsibility in the Covid-19 pandemic”. https://tuoitre.vn/song-trach-nhiem- trong-thoi-covid-19-20200330093811098.htm/, 2020 (accessed 2 April 2020) (in Vietnamese). [3] Ministry of Health, “The Covid-19 pandemic situation statistics”. https://ncov.moh.gov.vn, 2020 (accessed 30 March 2020) (in Vietnamese). [4] The VGP News, “The Covid-19 anti-epidemic: Which businesses are allowed to open?”. COVID19-Nhung-co-so-nao-duoc-mo-cua-kinh- doanh/391235.vgp/, 2020 (accessed 30 March 2020) (in Vietnamese). [5] S. Meyer, “Understanding The COVID-19 Effect On Online Shopping Behavior”. https://www.bigcommerce.com/blog/covid-19- ecommerce/, 2020 (accessed 30 March 2020). [6] I. Ajzen, “The theory of planned behavior”, Organizational Behavior and Human Decision Processes 50(2) (1991) 179-211. [7] M. Fishbein, I. Ajzen, Belief, Attitude, Intention, and Behavior, Reading, Mass.: Addison-Wesley, 1980. [8] H.F. Lin, “Predicting consumer intentions to shop online: An empirical test of competing theories”, Electronic Commerce Research and Applications 6(4) (2007) 433-442. [9] Thanh Nien, “The Covid-19 pandemic has changed consumer’s food shopping habits”, available at: https://thanhnien.vn/cong-nghe/dai-dich-covid-19- thay-doi-thoi-quen-mua-sam-thuc-pham- 1205087.html/, 2020 (accessed 2 April 2020) (in Vietnamese). [10] E. Yoh, M. Damhorst, S. Sapp, R. Laczniak, “Consumer adoption of the Internet: The case of apparel shiping” Psychology and Marking 20(12) (2003) 1095-1118. [11] A. Bhattacherjee, “Acceptance of e-commerce services: the case of electronic brokerages”, IEEE Transactions on Systems, Man, and Cybernetics - Part A: Systems and Humans 30(4) (2000) 411-420. [12] T. Kim, T. Anh, “The Covid-19 pandemic, The morning 28-3: Over 100.000 positive cases in the United State, nearly 1.000 death cases in Italia”. https://tuoitre.vn/dich-covid-19-sang-28-3-my-hon- 100-000-ca-benh-y-them-gan-1-000-ca-tu-vong- 20200328060254608.htm/, 2020 (accessed 30 March 2020) (in Vietnamese). [13] Financial Magazine, “Online shopping is becoming trendy during the Covid-19 pandemic season”. sam-online-len-ngoi-trong-mua-dich-covid19- 320097.html, 2020 (accessed 2 April 2020) (in Vietnamese). [14] L. Linh, “More promotions are launched during the Covid-19 pandemic season”. https://tuoitre.vn/nhieu- khuyen-mai-trong-mua-dich- 20200311173635609.htm/, 2020 (accessed 2 April 2020) (in Vietnamese). [15] VTV News, “Changing consumer behaviour due to the Covid-19 pandemic”. https://vtv.vn/tieu- dung/thay-doi-hanh-vi-tieu-dung-do-covid-19 2020032310215489.htm, 2020 (accessed 30 March 2020) (in Vietnamese). [16] N. Delafrooz, L.H. Paim, A. Khatibi, “A Research Modeling to Understand Online Shopping Intention”, Journal of Basic & Applied Sciences 5 (2011) 70-77. [17] J.F. Hair, W.C. Black, B.J. Babin, R.E. Anderson, Multivariate data analysis: Pearson new international edition, Pearson Higher Ed, 2013. [18] Ministry of Industry and Trade, “Some solutions for being safe in shopping journey in the Covid-19 pandemic”. https://congthuong.vn/giai-phap-mua- sam-an-toan-trong-mua-dich-covid-19-132787. html/, 2020 (accessed 7 April 2020) (in Vietnamese). [19] Ministry of Industry and Trade, “Lazada has launched the solution for “Contactless delivery””, available at: https://congthuong.vn/lazada-trien-khai- giai-phap-giao-hang-khong-tiep-xuc-135376.html/, 2020 (accessed 7 April 2020) (in Vietnamese). p
File đính kèm:
- hanh_vi_mua_sam_truc_tuyen_cua_nguoi_tieu_dung_tren_cac_webs.pdf