Hành vi mua sắm trực tuyến của người tiêu dùng trên các website doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh dịch COVID-19

ng tác động to lớn đến cuộc sống hàng ngày

và thói quen mua sắm của người dân Việt Nam.

Dịch Covid-19 do virus Corona chủng mới

(SARS-CoV-2) gây ra đã tác động lên 202/204

quốc gia, vùng lãnh thổ và được Tổ chức Y tế

Thế giới (WHO) chính thức công bố là đại dịch

toàn cầu [1]. Tính đến ngày 30/3/2020, thế giới

đã ghi nhận hơn 721.000 ca nhiễm bệnh với

34.000 người tử vong; tỷ lệ tử vong được xác

định là 4,71% [2]. Bên cạnh đó, nhờ các chính

sách phòng dịch chặt chẽ từ Chính phủ, đến

ngày 30/3/2020, Việt Nam ghi nhận 194 ca

dương tính, chủ yếu đến từ các thành phố lớn

với mật độ dân số cao và đông khách du lịch

như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng

[3]. Trong suốt 4 tháng xảy ra dịch bệnh, xã hội

và kinh tế Việt Nam đã có những thay đổi nhất

định - người dân từ sợ hãi chuyển sang hành

động, từ gặp gỡ trực tiếp chuyển sang kết nối

từ xa.

Khi dịch bệnh bùng nổ và đạt đến đỉnh cao

vào thời điểm tháng 3/2020, Chính phủ đã đưa

ra các quyết định tạm đóng cửa các cơ sở kinh

doanh dịch vụ tại Hà Nội, ngoại trừ cơ sở kinh

doanh thực phẩm, dịch vụ ngân hàng hay khám

chữa bệnh [4]. Điều này càng ảnh hưởng mạnh

mẽ đến lối sống kết nối thường ngày của người

dân, nhưng đó chính là điều kiện để đảm bảo an

toàn cho cả gia đình và toàn xã hội [5].

Hành vi mua sắm trực tuyến của người tiêu dùng trên các website doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh dịch COVID-19 trang 1

Trang 1

Hành vi mua sắm trực tuyến của người tiêu dùng trên các website doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh dịch COVID-19 trang 2

Trang 2

Hành vi mua sắm trực tuyến của người tiêu dùng trên các website doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh dịch COVID-19 trang 3

Trang 3

Hành vi mua sắm trực tuyến của người tiêu dùng trên các website doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh dịch COVID-19 trang 4

Trang 4

Hành vi mua sắm trực tuyến của người tiêu dùng trên các website doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh dịch COVID-19 trang 5

Trang 5

Hành vi mua sắm trực tuyến của người tiêu dùng trên các website doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh dịch COVID-19 trang 6

Trang 6

Hành vi mua sắm trực tuyến của người tiêu dùng trên các website doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh dịch COVID-19 trang 7

Trang 7

Hành vi mua sắm trực tuyến của người tiêu dùng trên các website doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh dịch COVID-19 trang 8

Trang 8

Hành vi mua sắm trực tuyến của người tiêu dùng trên các website doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh dịch COVID-19 trang 9

Trang 9

Hành vi mua sắm trực tuyến của người tiêu dùng trên các website doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh dịch COVID-19 trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang baonam 9780
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Hành vi mua sắm trực tuyến của người tiêu dùng trên các website doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh dịch COVID-19", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hành vi mua sắm trực tuyến của người tiêu dùng trên các website doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh dịch COVID-19

Hành vi mua sắm trực tuyến của người tiêu dùng trên các website doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh dịch COVID-19
VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 3 (2020) 11-21 
11 
Original Article 
Consumer Behaviour Towards Vietnamese 
Online Shopping Websites in the Covid-19 Pandemic 
Nguyen Thu Ha*, Hoang Dam Luong Thuy 
VNU University of Economics and Business, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam 
Received 10 April 2020 
Revised 18 August 2020; Accepted 18 August 2020 
Abstract: The theory of planned behaviour (TPB) was applied in this research in order to evaluate 
the influences of three factors including attitude, subjective norm and perceived behavioural 
control on online shopping purchase intention and behaviour towards websites in Vietnam. Data 
were collected from 170 online buyer in Vietnam, who responded willingly and fully to a 
questionnaire-based survey through Google Drive. The analysis results show that all three factors 
have positive impact on customer’s online purchase intention and behaviour in the Covid-19 
pandemic. Especially, attitude is considered to have the greatest effects, followed by subjective 
norm and then perceived behavioural control that impacted on consumer shopping intention. 
In addition, the research also proposed some implications to diversify Covid-19 
propagandas, encourage people using online shopping as well as support them in daily life during 
Covid-19 pandemic. 
Keywords: Theory of Planned Behaviour (TPB), online purchase intention, online shopping 
behaviour, online shopping website, COVID-19 pandemic. 
D* 
_______ 
* Corresponding author. 
 E-mail address: hant@vnu.edu.vn 
 https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4342 
H.D.L. Thuy, N.T. Ha / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 3 (2020) 11-21 
12 
Hành vi mua sắm trực tuyến của người tiêu dùng 
trên các website doanh nghiệp Việt Nam 
trong bối cảnh dịch COVID-19 
Nguyễn Thu Hà*, Hoàng Đàm Lương Thuý 
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 10 tháng 4 năm 2020 
Chỉnh sửa ngày 18 tháng 8 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 18 tháng 8 năm 2020 
Tóm tắt: Nghiên cứu ứng dụng lý thuyết hành vi hoạch định (Theory of Planned Behaviour - 
TPB) nhằm đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố gồm thái độ, chuẩn mực chủ quan và nhận thức 
kiểm soát hành vi đến ý định và hành vi mua hàng trực tuyến trên các website doanh nghiệp Việt 
Nam. Khảo sát được thực hiện với 170 khách hàng tại Việt Nam bằng bảng câu hỏi được gửi qua 
Google Drive trong tháng 2-3/2020. Kết quả nghiên cứu cho thấy cả ba yếu tố thái độ, chuẩn mực 
chủ quan và nhận thức kiểm soát hành vi đều có sức ảnh hưởng đáng kể đến ý định và hành vi tiêu 
dùng trực tuyến của người tiêu dùng trong bối cảnh dịch COVID-19. Từ đó, nghiên cứu đề xuất 
một số kiến nghị nhằm tích cực chuyển đổi sang hình thức mua sắm trực tuyến, hỗ trợ người tiêu 
dùng yên tâm mua sắm trong bối cảnh dịch bệnh. 
Từ khóa: Thuyết hành vi hoạch định, ý định mua sắm trực tuyến, hành vi mua sắm trực tuyến, 
website doanh nghiệp, COVID-19. 
1. Mở đầu * 
Sự bùng nổ của dịch COVID-19 đã dẫn đến 
những tác động to lớn đến cuộc sống hàng ngày 
và thói quen mua sắm của người dân Việt Nam. 
Dịch Covid-19 do virus Corona chủng mới 
(SARS-CoV-2) gây ra đã tác động lên 202/204 
quốc gia, vùng lãnh thổ và được Tổ chức Y tế 
Thế giới (WHO) chính thức công bố là đại dịch 
toàn cầu [1]. Tính đến ngày 30/3/2020, thế giới 
đã ghi nhận hơn 721.000 ca nhiễm bệnh với 
34.000 người tử vong; tỷ lệ tử vong được xác 
định là 4,71% [2]. Bên cạnh đó, nhờ các chính 
sách phòng dịch chặt chẽ từ Chính phủ, đến 
ngày 30/3/2020, Việt Nam ghi nhận 194 ca 
dương tính, chủ yếu đến từ các thành phố lớn 
với mật độ dân số cao và đông khách du lịch 
như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng 
[3]. Trong suốt 4 tháng xảy ra dịch bệnh, xã hội 
_______ 
* Tác giả liên hệ. 
 Địa chỉ email: hant@vnu.edu.vn 
 https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4342 
và kinh tế Việt Nam đã có những thay đổi nhất 
định - người dân từ sợ hãi chuyển sang hành 
động, từ gặp gỡ trực tiếp chuyển sang kết nối 
từ xa. 
Khi dịch bệnh bùng nổ và đạt đến đỉnh cao 
vào thời điểm tháng 3/2020, Chính phủ đã đưa 
ra các quyết định tạm đóng cửa các cơ sở kinh 
doanh dịch vụ tại Hà Nội, ngoại trừ cơ sở kinh 
doanh thực phẩm, dịch vụ ngân hàng hay khám 
chữa bệnh [4]. Điều này càng ảnh hưởng mạnh 
mẽ đến lối sống kết nối thường ngày của người 
dân, nhưng đó chính là điều kiện để đảm bảo an 
toàn cho cả gia đình và toàn xã hội [5]. 
Một trong những phản ứng dễ nhìn thấy 
trong cách con người tiếp nhận sự cách ly là 
thay đổi thói quen mua sắm của họ. Từ mua 
sắm trực tiếp đến trực tuyến, người dân đang có 
sự thay đổi lớn về cách thức, địa điểm và đối 
tượng mua sắm trong mùa dịch COVID-19. 
Mua sắm trực tuyến nhu yếu phẩm qua các 
website doanh nghiệp trở nên cần thiết và hữu 
ích. Tuy nhiên, do đặc thù nghiên cứu và bối 
H.D.L. Thuy, N.T. Ha / VNU Journ ... ID-19 nên tôi chủ động sử 
dụng hình thức mua sắm trực tuyến 
3,60 0,614 
CM2 - Do mức độ nghiêm trọng của dịch bệnh COVID-19 nên tôi bắt buộc 
phải mua sắm trực tuyến 
2.,96 0,634 
CM3 - Do ảnh hưởng từ mọi người xung quanh (bạn bè, gia đình, họ hàng, 
đồng nghiệp) nên tôi chuyển sang mua sắm trực tuyến 
2,51 0,430 
CM4 - Do lời tuyên truyền, kêu gọi hạn chế đi lại của Chính phủ nên tôi lựa 
chọn hình thức mua sắm trực tuyến 
3,35 0,760 
CM5 - Do những thông điệp truyền thông “Hãy ở nhà”, “Ở nhà vẫn vui”, 
“#stayhome – It could save lives” trên các phương tiện truyền thông xã hội 
nên tôi lựa chọn hình thức mua sắm trực tuyến 
3,26 0,726 
CM6 - Tôi sử dụng hình thức mua sắm trực tuyến do bản thân thấy cần thiết 
chứ không phải từ áp lực xã hội hay dịch bệnh 
3,90 0,262 
H.D.L. Thuy, N.T. Ha / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 3 (2020) 11-21 
17 
Nhận thức kiểm soát hành vi - NT 4,04 0,940 
NT1 - Hình thức hữu hiệu để giúp giảm nguy cơ lây nhiễm do tiếp xúc đám đông 4,08 0,870 
NT2 - Hình thức mua phù hợp nhất để đảm bảo yêu cầu hạn chế tiếp xúc đám 
đông từ Chính phủ 
4,11 0,862 
NT3 - Hình thức mua sắm đáp ứng nhanh nhu cầu của khách hàng trong thời 
điểm Chính phủ đưa ra quyết định đóng cửa các cơ sở kinh doanh mà tôi hay 
sử dụng 
3,96 0,848 
NT4 - Hình thức mua sắm thuận tiện cho khách hàng trong mùa dịch 
COVID-19 
4,05 0,853 
Ý định mua sắm - YD 3,45 0,786 
YD1 - Tôi chỉ có ý định mua sắm trực tuyến nếu có nhu cầu 3,98 0,334 
YD2 - Tôi đang lên kế hoạch mua sắm trực tuyến trong mùa dịch COVID-19 2,93 0,490 
YD3 - Tôi dự định mua hàng trực tuyến trong mùa dịch COVID-19 3,27 0,672 
YD4 - Tôi sẽ tiếp tục mua hàng trực tuyến trong tương lai 3,99 0,665 
YD5 - Tôi sẽ khuyên bạn bè, gia đình sử dụng hình thức mua sắm trực tuyến 3,63 0,698 
Hành vi mua - HV 3,36 0,888 
HV1 - Tôi luôn sử dụng hình thức mua hàng trực tuyến 3,11 0,735 
HV2 - Tôi ưu tiên hình thức mua sắm trực tuyến hơn là đi ra ngoài để mua đồ 3,47 0,721 
HV3 - Tôi sẽ tiếp tục mua sắm trực tuyến thường xuyên 3,44 0,823 
HV4 - Tôi có kế hoạch mua hàng trực tuyến nhiều hơn trong tương lai 3,44 0,745 
Nguồn: Kết quả phân tích của nhóm tác giả. 
Hình 2. Giá trị trung bình của các thang đo trong nghiên cứu. 
Nguồn: Kết quả phân tích của nhóm tác giả. 
H.D.L. Thuy, N.T. Ha / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 3 (2020) 11-21 
18 
Bảng 3 trình bày kết quả phân tích EAF và 
cho thấy cả 5 thang đo đều có giá trị 
Eigenvalues lớn hơn 1,1; KMO đạt 0,903 
(KMO > 0,4). Do đó, thang đo 5 thành phần với 
23 biến quan sát đạt độ tin cậy và được phân 
vào từng nhóm như giả thuyết. 
Nghiên cứu tiếp tục phân tích mối tương 
quan giữa 5 thành phần, kết quả cho thấy hệ số 
tương quan Pearson của 5 thang đo đều nằm 
trong dải giá trị từ 0,468 đến 0,677 - có nghĩa 
mức độ tương quan giữa 5 thành phần này là 
không lớn (Bảng 4). 
4.3. Kiểm định giả thuyết nghiên cứu 
Trong Bảng 5, hệ số R2 hiệu chỉnh là 0,479 
tức là các biến độc lập trong mô hình (Thái độ, 
Chuẩn mực chủ quan, Nhận thức kiểm soát 
hành vi) có thể giải thích được 47,9% sự biến 
thiên của biến phụ thuộc - Ý định mua sắm trực 
tuyến của khách hàng. Hệ số phóng đại phương 
sai VIF nhỏ hơn 1,80 cho thấy các biến độc lập 
này không có quan hệ chặt chẽ với nhau nên 
không có hiện tượng đa cộng tuyến xảy ra. Do 
đó, các biến độc lập này không có mối quan hệ 
với nhau. Tại mức ý nghĩa 5%, các biến có ảnh 
hưởng có ý nghĩa tới ý định mua trực tuyến của 
khách hàng trên các website doanh nghiệp là 
Thái độ, Chuẩn mực chủ quan, Nhận thức kiểm 
soát hành vi với hệ số lần lượt là 0,355; 0,201; 
và 0,178. Do đó, giả thuyết H1, H2, H3 được 
chấp nhận. 
Bảng 6 trình bày kết quả phân tích hồi quy 
giữa biến Ý định mua (biến độc lập) và Hành vi 
mua (biến phụ thuộc). Hệ số R2 hiệu chỉnh là 
0,603 thể hiện Ý định mua có thể giải thích 
được 60,3% sự biến thiên của Hành vi mua trực 
tuyến của khách hàng. Hệ số phóng đại phương 
sai VIF nhỏ hơn 1,10 cho thấy không có hiện 
tượng đa cộng tuyến xảy ra. Tại mức ý nghĩa 
5%, biến Ý định thể hiện tác động tích cực tới 
Hành vi mua trực tuyến của khách hàng trên 
các website doanh nghiệp với hệ số là 0,890. 
Do đó, giả thuyết H4 được chấp nhận. 
Bảng 3. Phân tích EAF 
Hệ số KMO 0,903 
Kiểm định Bartlett 
Giá trị chi bình phương xấp xỉ 2926,194 
df 253 
Sig. 0,000 
Nguồn: Kết quả phân tích của nhóm tác giả. 
Bảng 4. Phân tích tương quan các thang đo 
 Nhận thức Chuẩn mực chủ quan Thái độ Ý định Hành vi 
Nhận thức 1 
Chuẩn mực chủ quan 0,490** 1 
Thái độ 0,630** 0,480** 1 
Ý định 0,568** 0,522** 0,623** 1 
Hành vi 0,522** 0,468** 0,566** 0,677** 1 
Ghi chú: **Tương quan có ý nghĩa ở mức 0,01 (2-tailed). 
Nguồn: Kết quả phân tích của nhóm tác giả. 
H.D.L. Thuy, N.T. Ha / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 3 (2020) 11-21 
19 
Bảng 5. Kết quả phân tích hồi quy 1 
Biến độc lập Hệ số Beta t Mức ý nghĩa VIF 
Thái độ 0,355 5,000 0,000 1,770 
Chuẩn mực chủ quan 0,201 3,570 0,000 1,406 
Nhận thức kiểm soát hành vi 0,178 2,892 0,004 1,793 
R2 0,692 
R2 hiệu chỉnh 0,479 
F 50,893 
Mức ý nghĩa 0,000 
 * Biến phụ thuộc: Ý định 
Nguồn: Kết quả phân tích của nhóm tác giả. 
Bảng 6. Kết quả phân tích hồi quy 2 
Biến độc lập Hệ số Beta t 
Mức ý 
nghĩa 
VIF 
Ý định 0,890 15,986 0,000 1,000 
R2 0,777 
R2 hiệu chỉnh 0,603 
F 255,558 
Mức ý nghĩa 0,000 
 * Biến phụ thuộc: Hành vi mua 
Nguồn: Kết quả phân tích của nhóm tác giả.
5. Thảo luận, giải pháp đề xuất 
5.1. Thảo luận 
Sau khi chạy các mô hình kiểm định và xác 
định được hệ số tác động, có thể kết luận các 
giả thuyết nghiên cứu (H1, H2, H3, H4) đều 
được chấp nhận. Trong đó, yếu tố thái độ có hệ 
số Beta lớn nhất (0,355) được coi là có tác động 
mạnh nhất đến ý định mua hàng trực tuyến qua 
website doanh nghiệp của người dân Việt Nam 
trong bối cảnh dịch COVID-19. Mặc dù hình 
thức mua hàng trực tuyến không phải mới và 
thật sự phổ cập ở Việt Nam, nhưng nó đặc biệt 
phát huy tác dụng khi dịch Covid-19 tiếp tục có 
những diễn biến phức tạp. Trong thời gian này, 
số lượng người dân mua hàng trực tuyến qua 
các website tăng đột biến do sự tiện lợi, đơn 
giản mà vẫn đảm bảo an toàn khi giao dịch. 
Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp đều cung 
cấp các chương trình “Đặt hàng tại nhà, tránh 
xa COVID-19” với nhiều chính sách giao nhận 
hàng hóa giá rẻ hoặc miễn phí, hoặc ưu đãi xả 
kho qua website giữa mùa dịch. Chẳng hạn như 
hệ thống Vinmart/Vinmart+ có chính sách giao 
hàng nhanh trong 3-5 tiếng; BigC miễn phí vận 
chuyển cho các đơn hàng trên 200.000 đồng; 
Lotte Mart ưu đãi giảm 10% cho các hóa đơn 
trên 500.000 đồng, tích lũy điểm vào thẻ; 
Saigon Co.op giảm giá tới 50% các mặt hàng 
thiết yếu [18]. 
Yếu tố Chuẩn mực chủ quan cũng thể hiện 
tác động tích cực đến ý định mua sắm trực 
tuyến của khách hàng trong bối cảnh dịch 
COVID-19 với hệ số tác động là 0,201. Kết quả 
nghiên cứu cho thấy ý định mua sắm trực tuyến 
của khách hàng chịu tác động lớn từ sự tuyên 
H.D.L. Thuy, N.T. Ha / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 3 (2020) 11-21 
20 
truyền, kêu gọi hạn chế đi lại của Chính phủ và 
thông điệp truyền thông trên các phương tiện 
truyền thông xã hội. Ngoài ra, yếu tố Nhận thức 
kiểm soát hành vi cũng có tác động tích cực đến 
ý định mua sắm trực tuyến của khách hàng 
trong bối cảnh dịch COVID-19 với hệ số tác 
động là 0,178, khi mà khách hàng ngày càng 
nhận thức rõ sự phù hợp, thuận tiện và hiệu quả 
của hình thức mua trực tuyến. 
5.2. Một số đề xuất 
Từ kết quả nghiên cứu có thể thấy ý định và 
hành vi mua trực tuyến của khách hàng đều 
đang chịu ảnh hưởng lớn bởi lời kêu gọi, tuyên 
truyền của Chính phủ cũng như từ các thông 
điệp truyền thông xã hội. Các chính sách hạn 
chế tập trung đông người, các chốt kiểm tra lịch 
trình di chuyển của cá nhân và những thông 
điệp khuyến khích người dân ở nhà đều có tác 
động mạnh mẽ đến hành vi của mọi người. Vì 
vậy, trong thời gian tới, Chính phủ cần tiếp tục 
đẩy mạnh triển khai đa dạng các hoạt động 
tuyên truyền, đồng thời đưa ra các chính sách 
nhằm hỗ trợ cuộc sống của người dân trong 
mùa dịch. 
Trong bối cạnh đa phần người dân vẫn coi 
tiền mặt là hình thức thanh toán quen thuộc, 
thậm chí nhiều người dù mua trực tuyến nhưng 
vẫn thanh toán bằng tiền mặt với người giao 
hàng, các cơ quan nhà nước cần đẩy mạnh hoạt 
động truyền thông về ưu điểm của xu hướng 
thanh toán trực tuyến nhằm khuyến khích người 
dân chuyển đổi thói quen tiêu dùng. Cùng với 
đó, ngoài nguồn hàng phong phú, các doanh 
nghiệp cần cung cấp nhiều chính sách khuyến 
mại khi sử dụng ví điện tử hoặc thanh toán qua 
tài khoản ngân hàng để hạn chế việc tiếp xúc 
trực tiếp giữa các cá nhân. 
Bên cạnh đó, cần phải đa dạng hóa các hình 
thức tuyên truyền người dân hạn chế tối đa tập 
trung cộng đồng. Thay vì chỉ tuyên truyền trên 
báo, tivi, loa đài, các doanh nghiệp cần đưa ra 
những giải pháp thiết thực như mở các điểm lấy 
hàng an toàn (Collection point) tại các nhà 
thuốc, siêu thị và triển khai hình thức tủ khóa 
thông minh (iLogic Smartbox) để người dân có 
thể lấy hàng tự động [19]. Tủ khóa thông minh 
là phương thức vô cùng tiện dụng và an toàn vì 
phải có mã OTP hoặc QR code thì mới mở 
được, đồng thời khách hàng có thể chủ động 
thời gian lấy hàng, không phải tiếp xúc trực tiếp 
với nhiều người. Những hình thức mới này vừa 
giúp tuân thủ các chính sách của Chính phủ, 
vừa đáp ứng được nhu cầu duy trì hoạt động 
sinh hoạt của người dân. 
6. Kết luận 
Áp dụng khuôn khổ lý thuyết TPB, nghiên 
cứu đã xem xét ý định và hành vi mua sắm trực 
tuyến trên website doanh nghiệp của người dân 
Việt Nam trong bối cảnh dịch COVID-19 thông 
qua đánh giá ảnh hưởng của ba yếu tố gồm thái 
độ, chuẩn mực chủ quan và nhận thức kiểm soát 
hành vi. Kết quả cho thấy mô hình TPB trong 
lĩnh vực này có ý nghĩa thống kê và kết quả xác 
nhận rằng cả ba yếu tố đều tác động tích cực 
đến ý định và hành vi của người dân, xếp theo 
thứ tự ảnh hưởng lần lượt là i) Thái độ, 
ii) Chuẩn mực chủ quan và iii) Nhận thức kiểm 
soát hành vi. 
Do yếu tố khách quan về việc cách ly xã hội 
trong bối cảnh dịch COVID-19, quá trình khảo 
sát và kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả vẫn 
còn một số điểm hạn chế. Trong đó, hạn chế lớn 
nhất là số lượng người tham gia chưa nhiều và 
chưa đa dạng, chủ yếu là sinh viên và nhân viên 
văn phòng. Những nghiên cứu tiếp theo có thể 
vận dụng mô hình TPB để đánh giá các nội 
dung về tác động kinh tế, xã hội, chính trị đến 
hành vi người tiêu dùng trên phạm vi rộng hơn. 
Ngoài ra, COVID-19 đang là vấn đề nổi bật và 
cần được quan tâm tìm hiểu hiện nay, các 
nghiên cứu trong tương lai nên tiếp nối chủ đề 
này và đánh giá hành vi tiêu dùng trực tuyến 
của người tiêu dùng qua nhiều yếu tố tác động 
hơn như cảm nhận rủi ro, niềm tin của khách 
hàng hay thương hiệu doanh nghiệp. 
Tài liệu tham khảo 
[1] WHO, “Coronavirus”, Available at: 
https://www.who.int/health-
H.D.L. Thuy, N.T. Ha / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 3 (2020) 11-21 
21 
topics/coronavirus#tab=tab-1/, 2020 (accessed 30 
March 2020). 
[2] N. Dong, “Living in responsibility in the Covid-19 
pandemic”. https://tuoitre.vn/song-trach-nhiem-
trong-thoi-covid-19-20200330093811098.htm/, 
2020 (accessed 2 April 2020) (in Vietnamese). 
[3] Ministry of Health, “The Covid-19 pandemic 
situation statistics”. https://ncov.moh.gov.vn, 2020 
(accessed 30 March 2020) (in Vietnamese). 
[4] The VGP News, “The Covid-19 anti-epidemic: 
Which businesses are allowed to open?”. 
COVID19-Nhung-co-so-nao-duoc-mo-cua-kinh-
doanh/391235.vgp/, 2020 (accessed 30 March 2020) 
(in Vietnamese). 
[5] S. Meyer, “Understanding The COVID-19 Effect On 
Online Shopping Behavior”. 
https://www.bigcommerce.com/blog/covid-19-
ecommerce/, 2020 (accessed 30 March 2020). 
[6] I. Ajzen, “The theory of planned behavior”, 
Organizational Behavior and Human Decision 
Processes 50(2) (1991) 179-211. 
[7] M. Fishbein, I. Ajzen, Belief, Attitude, Intention, and 
Behavior, Reading, Mass.: Addison-Wesley, 1980. 
[8] H.F. Lin, “Predicting consumer intentions to shop 
online: An empirical test of competing theories”, 
Electronic Commerce Research and Applications 
6(4) (2007) 433-442. 
[9] Thanh Nien, “The Covid-19 pandemic has changed 
consumer’s food shopping habits”, available at: 
https://thanhnien.vn/cong-nghe/dai-dich-covid-19-
thay-doi-thoi-quen-mua-sam-thuc-pham-
1205087.html/, 2020 (accessed 2 April 2020) 
(in Vietnamese). 
[10] E. Yoh, M. Damhorst, S. Sapp, R. Laczniak, 
“Consumer adoption of the Internet: The case of 
apparel shiping” Psychology and Marking 20(12) 
(2003) 1095-1118. 
[11] A. Bhattacherjee, “Acceptance of e-commerce 
services: the case of electronic brokerages”, IEEE 
Transactions on Systems, Man, and Cybernetics - 
Part A: Systems and Humans 30(4) (2000) 411-420. 
[12] T. Kim, T. Anh, “The Covid-19 pandemic, The 
morning 28-3: Over 100.000 positive cases in the 
United State, nearly 1.000 death cases in Italia”. 
https://tuoitre.vn/dich-covid-19-sang-28-3-my-hon-
100-000-ca-benh-y-them-gan-1-000-ca-tu-vong-
20200328060254608.htm/, 2020 (accessed 30 
March 2020) (in Vietnamese). 
[13] Financial Magazine, “Online shopping is becoming 
trendy during the Covid-19 pandemic season”. 
sam-online-len-ngoi-trong-mua-dich-covid19-
320097.html, 2020 (accessed 2 April 2020) 
(in Vietnamese). 
[14] L. Linh, “More promotions are launched during the 
Covid-19 pandemic season”. https://tuoitre.vn/nhieu-
khuyen-mai-trong-mua-dich-
20200311173635609.htm/, 2020 (accessed 2 April 
2020) (in Vietnamese). 
[15] VTV News, “Changing consumer behaviour due to 
the Covid-19 pandemic”. https://vtv.vn/tieu-
dung/thay-doi-hanh-vi-tieu-dung-do-covid-19 
2020032310215489.htm, 2020 (accessed 30 March 
2020) (in Vietnamese). 
[16] N. Delafrooz, L.H. Paim, A. Khatibi, “A Research 
Modeling to Understand Online Shopping 
Intention”, Journal of Basic & Applied Sciences 5 
(2011) 70-77. 
[17] J.F. Hair, W.C. Black, B.J. Babin, R.E. Anderson, 
Multivariate data analysis: Pearson new international 
edition, Pearson Higher Ed, 2013. 
[18] Ministry of Industry and Trade, “Some solutions for 
being safe in shopping journey in the Covid-19 
pandemic”. https://congthuong.vn/giai-phap-mua-
sam-an-toan-trong-mua-dich-covid-19-132787. 
html/, 2020 (accessed 7 April 2020) 
(in Vietnamese). 
[19] Ministry of Industry and Trade, “Lazada has 
launched the solution for “Contactless delivery””, 
available at: https://congthuong.vn/lazada-trien-khai-
giai-phap-giao-hang-khong-tiep-xuc-135376.html/, 
2020 (accessed 7 April 2020) (in Vietnamese). 
p 

File đính kèm:

  • pdfhanh_vi_mua_sam_truc_tuyen_cua_nguoi_tieu_dung_tren_cac_webs.pdf