Giới thiệu về nền kinh tế chia sẻ và định hướng cho Việt Nam

Mô hình kinh tế chia sẻ hay còn gọi là mô hình kinh tế cộng tác là một mô hình ở

giữa sở hữu và tặng quà, trong đó đề cập đến mạng ngang hàng phối hợp với các dịch vụ trực

tuyến dựa vào cộng đồng. Trên thực tế, mô hình kinh tế chia sẻ đã có từ rất lâu, nó khởi điểm

tại Mỹ, ban đầu có tính chất “chia sẻ ngang hàng” nhưng không rõ rệt. Tới năm 1995, khi

Internet lan rộng, mô hình kinh doanh này mới thực sự phát triển. Trong bài viết của mình,

tác giả giới thiệu sơ lược về lý thuyết của kinh tế chia sẻ như các cách hiểu về kinh tế chia

sẻ, đặc điểm, các nguyên tắc cơ bản, phân loại, chu kỳ phát triển, lợi ích, khó khăn và mô

hình thu phí của nền kinh tế chia sẻ. Sau đó tác giả tìm hiểu thực trạng và đánh giá thực

trạng phát triển nền kinh tế chia sẻ tại Việt Nam. Hiệu quả của mô hình này là đẩy mạnh ứng

dụng khoa học công nghệ tiên tiến, hướng tới xây dựng đất nước theo hướng công nghiệp

hóa, hiện đại hóa, hòa nhập với xu hướng phát triển cuộc cách mạnh công nghiệp 4.0 của thế

giới.

Từ khóa: Kinh tế chia sẻ, Tiêu dùng cộng tác, Kinh tế cho thuê, Kinh tế truy cập,

Mạng ngang hàng P2P, Cộng đồng mở

Giới thiệu về nền kinh tế chia sẻ và định hướng cho Việt Nam trang 1

Trang 1

Giới thiệu về nền kinh tế chia sẻ và định hướng cho Việt Nam trang 2

Trang 2

Giới thiệu về nền kinh tế chia sẻ và định hướng cho Việt Nam trang 3

Trang 3

Giới thiệu về nền kinh tế chia sẻ và định hướng cho Việt Nam trang 4

Trang 4

Giới thiệu về nền kinh tế chia sẻ và định hướng cho Việt Nam trang 5

Trang 5

Giới thiệu về nền kinh tế chia sẻ và định hướng cho Việt Nam trang 6

Trang 6

Giới thiệu về nền kinh tế chia sẻ và định hướng cho Việt Nam trang 7

Trang 7

Giới thiệu về nền kinh tế chia sẻ và định hướng cho Việt Nam trang 8

Trang 8

pdf 8 trang baonam 14920
Bạn đang xem tài liệu "Giới thiệu về nền kinh tế chia sẻ và định hướng cho Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giới thiệu về nền kinh tế chia sẻ và định hướng cho Việt Nam

Giới thiệu về nền kinh tế chia sẻ và định hướng cho Việt Nam
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 
 586 
GIỚI THIỆU VỀ NỀN KINH TẾ CHIA SẺ 
VÀ ĐỊNH HƢỚNG CHO VIỆT NAM 
ThS Vũ Thị Thúy Hằng 
Đại học Thƣơng Mại 
TÓM TẮT 
Mô hình kinh tế chia sẻ hay còn gọi là mô hình kinh tế cộng tác là một mô hình ở 
giữa sở hữu và tặng quà, trong đó đề cập đến mạng ngang hàng phối hợp với các dịch vụ trực 
tuyến dựa vào cộng đồng. Trên thực tế, mô hình kinh tế chia sẻ đã có từ rất lâu, nó khởi điểm 
tại Mỹ, ban đầu có tính chất “chia sẻ ngang hàng” nhưng không rõ rệt. Tới năm 1995, khi 
Internet lan rộng, mô hình kinh doanh này mới thực sự phát triển. Trong bài viết của mình, 
tác giả giới thiệu sơ lược về lý thuyết của kinh tế chia sẻ như các cách hiểu về kinh tế chia 
sẻ, đặc điểm, các nguyên tắc cơ bản, phân loại, chu kỳ phát triển, lợi ích, khó khăn và mô 
hình thu phí của nền kinh tế chia sẻ. Sau đó tác giả tìm hiểu thực trạng và đánh giá thực 
trạng phát triển nền kinh tế chia sẻ tại Việt Nam. Hiệu quả của mô hình này là đẩy mạnh ứng 
dụng khoa học công nghệ tiên tiến, hướng tới xây dựng đất nước theo hướng công nghiệp 
hóa, hiện đại hóa, hòa nhập với xu hướng phát triển cuộc cách mạnh công nghiệp 4.0 của thế 
giới. 
Từ khóa: Kinh tế chia sẻ, Tiêu dùng cộng tác, Kinh tế cho thuê, Kinh tế truy cập, 
Mạng ngang hàng P2P, Cộng đồng mở 
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN NỀN KINH TẾ CHIA SẺ 
1.1. Một số cách hiểu về nền kinh tế chia sẻ 
Theo từ điển Oxford, kinh tế chia sẻ (sharing economy) là một nền kinh tế mà tài sản 
hoặc dịch vụ được chia sẻ miễn phí hoặc mất phí giữa các cá nhân thông qua internet. Nhờ có 
kinh tế chia sẻ, mọi người có thể dễ dàng cho thuê xe cộ, căn hộ, thậm chí cả wifi nếu không 
sử dụng thường xuyên. 
Theo Investopedia, kinh tế chia sẻ là một mô hình kinh tế trong đó các cá nhân có thể 
đi mượn hoặc đi thuê tài sản thuộc sở hữu của người khác. Mô hình kinh tế chia sẻ thường 
được sử dụng khi giá của một tài sản nào đó quá cao hoặc tài sản đó không được sử dụng 
trong một thời gian dài. 
Theo Wikipedia, kinh tế chia sẻ hay còn gọi là tiêu dùng cộng tác (collaborative 
consumption, online sharing) là một cụm từ có nghĩa rất rộng, thường sử dụng miêu tả một 
nền kinh tế có các hoạt động xã hội liên quan đến các giao dịch trực tuyến. Ban đầu, mô hình 
này phát triển theo hướng cộng đồng mở (open-source community) dựa trên mạng ngang hàng 
P2P, tập trung chủ yếu vào việc chia sẻ tài sản, sản phẩm, dịch vụ. Hiện nay, thuật ngữ này 
được sử dụng theo nghĩa rộng hơn, dùng để miêu tả bất kỳ giao dịch bán hàng nào thông qua 
thị trường trực tuyến, chứ không chỉ trong P2P. 
Theo Harvard Business Review, kinh tế chia sẻ được hiểu theo nghĩa rộng là nền kinh 
tế truy cập (access economy). Khi hoạt động chia sẻ là trung tâm của thị trường, khi doanh 
nghiệp đóng vai trò trung gian giữa những người tiêu dùng thì hoạt động này không đơn thuần 
là chia sẻ mà thay vào đó, người tiêu dùng phải trả tiền để tiếp cận hàng hóa và dịch vụ của 
người khác. 
Theo CleverISM, nền kinh tế chia sẻ vẫn là một khái niệm không rõ ràng. Mô hình 
kinh tế này là bước phát triển từ mô hình thông thường, không tập trung vào quyền sở hữu mà 
tiếp cận theo hướng tài sản hoặc nguồn lực. Mô hình kinh tế chia sẻ giải quyết các vấn đề về 
sản xuất, phân phối, tiêu thụ, cung và cầu của hàng hóa và dịch vụ. Mô hình nhấn mạnh vào 
khái niệm chia sẻ và ứng dụng của nó đối với các quy trình. 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 
587 
Theo Belk (2007) kinh tế chia sẻ là hành động và quá trình phân phối những gì chúng 
ta cho người khác sử dụng và tiếp nhận hoặc lấy cái gì đó từ người khác để sử dụng. Cũng 
theo Belk (2014), hành động chia sẻ có thể bao gồm việc vay mượn một cái gì đó, tặng quà, 
chuyển giao quyền sở hữu đối tượng, hoặc trao đổi lẫn nhau. Và, kinh tế chia sẻ bao gồm hoạt 
động điều phối việc mua lại và phân phối nguồn tài nguyên với mức phí hoặc những khoản 
khác không bằng tiền. 
Theo ông Yuhei Okakita, Phó Giám đốc Bộ phận chính sách thông tin kinh tế - Bộ 
Kinh tế, thương mại và công nghiệp Nhật Bản, kinh tế chia sẻ được hiểu là hoạt động tái thiết 
kinh tế, trong đó các cá nhân ẩn danh có thể sử dụng các tài sản nhàn rỗi (bao gồm cả các tài 
sản vô hình như kỹ năng cá nhân và thời gian), được sở hữu bởi các cá nhân khác thông qua 
các nền tảng kết hợp trên Internet. 
1.2. Lịch sử ra đời của nền kinh tế chia sẻ 
Khi eBay ra mắt vào năm 1995, thế giới đã chứng kiến sự thay đổi trong cách thức 
mọi người tiếp cận với hàng hoá và lưu thông trên thị trường. Sự tiến bộ không ngừng của 
công nghệ, đặc biệt những thứ liên kết và tương tác xã hội góp phần vào sự chuyển động 
nhanh chóng của hàng hóa và dịch vụ. Công nghệ tăng trưởng nhanh đến nỗi thị trường phải 
tìm cách để theo kịp nó. 
Khái nệm hoạt động kinh tế trong xã hội chia sẻ (shared social and economic activity) 
được đưa ra lần đầu tiên trong cuốn sách “What‟s Mine Is Yours: The Rise of Collaborative 
Consumption” xuất bản vào năm 2010 của Rachel Botsman và Roo Rogers. Theo họ, cuộc 
cách mạng xã hội yêu ... hành phân bổ lại nguồn lực cho những người có nhu cầu. Chính vì vậy, 
sản phẩm này mang lại lợi ích khá lớn cho quốc gia, cho nhà đầu tư và cho cả người tiêu 
dùng. Cũng chính nhờ vào sự chia sẻ của nền kinh tế, mà không còn năng lực nhàn rỗi hay 
nguồn lực bị lãng phí. Tài nguyên được tối đa hóa và lãng phí không đáng kể, tiêu dùng được 
giảm thiểu, thậm chí loại bỏ được tư hữu. 
- Phát triển một nền văn hóa tiêu dùng bằng niềm tin: nền kinh tế chia sẻ nâng tầm 
quan trọng của việc xây dựng niềm tin, ngay cả giữa các đối thủ. Khi nền kinh tế được hình 
thành trên sự tin tưởng thì người tham gia mô hình hay các bên liên quan cũng sẽ tăng cường 
mối quan hệ. 
- Tăng biến thể của các sản phẩm dịch vụ: khi sản phẩm dịch vụ ngày càng được chia 
sẻ nhiều thì để duy trì tính cạnh tranh, xã hội sẽ khuyến khích các doanh nghiệp hoặc tổ chức 
đưa ra nhiều dạng của sản phẩm dịch vụ để người dùng được lựa chọn tốt hơn. 
- Đa dạng hóa vai trò cho các tổ chức và doanh nghiệp: trước kia, một doanh nghiệp 
có thể chỉ nhận dạng là một nhà cung cấp dịch vụ hay nhà sản xuất. Với nền kinh tế này, vai 
trò của doanh nghiệp được mở rộng hơn, đôi khi trở thành những nhà cố vấn đáng tin cậy. 
Điều này giúp cho các tổ chức tiến gần hơn với thị trường mục tiêu, hiểu hơn về khách hàng 
và thị trường của doanh nghiệp. Ví dụ, AirBnB ban đầu chỉ đơn giản là một đơn vị trung gian 
cung cấp dịch vụ nhà trọ. Giờ đây, AirBnB đã đảm nhận thêm vai trò cố vấn, cung cấp các 
dịch vụ bổ sung giúp khách hàng lựa chọn tốt nhất và có giá trị nhất khi tìm nhà để thuê. 
- Giảm chi phí cho xã hội, giảm ô nhiễm môi trường: do tận dụng được nguồn tài 
nguyên có sẵn trong xã hội, các nhà kinh doanh không cần khai thác thêm nguồn tài nguyên 
mới, tiết kiệm được chi phí sản xuất. Phát triển mô hình này còn giảm bớt tình trạng xả thải ra 
môi trường, làm cho môi trường bớt ô nhiễm hơn. 
- Giảm khoảng cách giàu nghèo: sản phẩm dịch vụ theo nền kinh tế chia sẻ thường 
phù hợp với những người có thu nhập trung bình và thấp trong xã hội. Đối với những người 
chủ sở hữu các nguồn lực sẵn có khi tham gia vào việc cung ứng sản phẩm dịch vụ, thu nhập 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 
 590 
của họ sẽ tăng lên. Đối với những người sử dụng sản phẩm dịch vụ thì có cơ hội tiếp cận với 
nhiều loại sản phẩm dịch vụ với chi phí thấp. 
- Tăng cơ hội tìm kiếm lợi nhuận cho các nhà kinh doanh: dựa trên hệ thống công 
nghệ thông tin hiện đại, các nhà kinh doanh có thể cung cấp sản phẩm dịch vụ mà không cần 
bỏ ra nhiều chi phí. Với ý tưởng kinh doanh phù hợp, thông qua việc thiết lập nền tảng công 
nghệ, doanh nghiệp có thể nắm bắt được nhu cầu “cần” và “có” của thị trường. 
- Tăng lợi ích cho người tiêu dùng: dòng sản phẩm dịch vụ theo hình thức chia sẻ với 
chi phí thấp và chất lượng không kém các sản phẩm truyền thống. Do đó, người tiêu dùng có 
cơ hội thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng nhiều hơn. Không chỉ thỏa mãn nhu cầu về số lượng mà 
còn mang lại trải nghiệm độc đáo, thú vị. 
1.6. Khó khăn khi phát triển nền kinh tế chia sẻ 
Bất lợi lớn nhất của nền kinh tế chia sẻ cũng xuất phát từ chính sự chia sẻ. Do đó, nó 
gặp phải các khó khăn như sau: 
- Tạo áp lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp truyền thống cung cấp sản phẩm dịch 
vụ cùng loại: do tận dụng nguồn lực sẵn có đang lãng phí nên các nhà kinh doanh sản phẩm 
dịch vụ chia sẻ tiết kiệm khá nhiều chi phí, theo đó giá cung cấp dịch vụ cũng thấp đi. Điều 
này ít nhiều sẽ ảnh hưởng đến doanh thu, lợi nhuận của các doanh nghiệp kinh doanh truyền 
thống. 
- Vấn đề về chính quyền: các sản phẩm dịch vụ theo hình thức chia sẻ không phải lúc 
nào cũng được các nhà quản lý chấp nhận, đôi khi có thể vấp phải sự phản đối mạnh mẽ của 
chính quyền địa phương. 
- Vấn đề bảo mật: rủi ro này liên quan đến yếu tố tin cậy. Nếu một bên không giao 
hàng hoặc chấm dứt hợp đồng sẽ có những hậu quả nghiêm trọng cần được giải quyết. Thực 
tế việc sử dụng và chia sẻ thông tin trên internet không chỉ là thông tin thanh toán mà còn liên 
quan thông tin cá nhân người dùng phải tiết lộ để được tham gia vào thị trường. 
- Vấn đề tranh chấp: rủi ro này cao hơn với các doanh nghiệp hoạt động như bên thứ 
ba hoặc trung gian trong các giao dịch của bên thứ hai. Các vấn đề liên quan đến hiệu lực bảo 
hiểm nếu cướp bóc hoặc các vấn đề hình sự xảy ra, khi đó vai trò của doanh nghiệp trung gian 
cần phải được làm rõ ràng. Ví dụ, AirBnB đưa ra chính sách bảo hiểm 50.000 USD nếu có 
các hành vi trộm cắp, phá hoại dẫn đến thiệt hại tài sản của các cá nhân tham gia sử dụng dịch 
vụ của doanh nghiệp. 
II. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Để phục vụ cho nghiên cứu, tác giả sử dụng kết hợp giữa phương pháp nghiên cứu tài 
liệu và phương pháp tổng luận ý tưởng (opinion paper) với cách trình bày khá rõ ràng. Để có 
được cơ sở lý luận và những số liệu thống kê trên, các tài liệu thứ cấp được sử dụng bao gồm 
các công trình nghiên cứu về kinh tế chia sẻ của tác giả nước ngoài, các bài báo đăng tải trên 
các trang web, các viết tạp chí kinh tế và các bài viết chia sẻ thông tin của một số chuyên gia 
trong nước. 
Sau khi thu được cơ sở lý luận một cách đầy đủ và có hệ thống, tác giả tiến hành đánh 
giá thực trạng phát triển kinh tế chia sẻ tại Việt Nam. Đây là một mô hình kinh tế mới, hiện 
rất hiếm các số liệu thống kê về hoạt động này tại Việt Nam, nên tác giả sử dụng nghiên cứu 
của Nielsen năm 2014. 
III. ĐỊNH HƢỚNG CHO VIỆT NAM 
3.1. Thực trạng phát triển nền kinh tế chia sẻ tại Việt Nam 
Không đứng ngoài xu thế chung của toàn cầu, một số mô hình kinh tế chia sẻ đã bước 
đầu xuất hiện ở Việt Nam. Theo một nghiên cứu của Nielsen vào năm 2014, người tiêu dùng 
khu vực Đông Nam Á đang hình thành nhiều cộng đồng kinh doanh theo hình thức chia sẻ tài 
sản cá nhân. Khu vực này đón nhận hình thức kinh doanh chia sẻ khá nhanh và hiệu quả. 
Người tiêu dùng tại Indonesia đứng thứ 2 và Philippines đứng thứ 4 trên toàn thế giới về việc 
thuê hoặc chia sẻ các sản phẩm, dịch vụ từ mô hình kinh doanh này. 87% người tiêu dùng tại 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 
591 
Indonesia cho rằng họ sẵn sàng tận dụng các sản phẩm và dịch vụ chia sẻ. Tỉ lệ này chiếm 
85% tại Philippines, 84% tại Thái Lan, 76% tại Việt Nam, 74% tại Malaysia, 67% tại 
Singapore và 66% đối với người tiêu dùng toàn cầu. Singapore là thị trường khó tính nhất với 
mô hình kinh doanh này với 32% được hỏi chưa sẵn sàng chia sẻ tài sản cá nhân, ngang bằng 
với tỉ lệ trung bình trên toàn thế giới (trong việc chưa sẵn sàng). 
Các sản phẩm điện tử là thứ được người tiêu dùng trong khu vực Đông Nam Á sẵn 
sàng chia sẻ hoặc thuê nhất. Tại Việt Nam, 42% người tiêu dùng sẽ thuê các sản phẩm điện 
tử. Tỉ lệ này ở Indonesia là 37%, Philippines là 33%, ở Thái Lan là 31%, Singapore là 26% ở 
và Malaysia là 24% (Nielsen, 2014). Ngoài ra, nhiều nơi còn chia sẻ cả các khóa học, dịch vụ, 
xe hơi, thậm chí là xe gắn máy. Sự kết nối giữa những người tiêu dùng với nhau là yếu tố 
chính cho mô hình kinh doanh chia sẻ, do đó, mô hình này có thể phát triển ở mức độ cao hơn 
trong những năm sắp tới. 
Vài năm gần đây, sự xuất hiện và phát triển lớn mạnh của 2 hãng cung ứng dịch vụ 
vận chuyển hành khách nổi tiếng trên thế giới là Grab và Uber tại Việt Nam đã “tiếp lửa” cho 
sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế chia sẻ ở nước ta. Sự xuất hiện của 2 hãng dịch vụ này 
đã khiến cho các hãng vận tải hành khách lớn như Mai Linh, Vinasun, Taxi Group phải lập 
tức thay đổi cách vận hành. Tháng 8/2015, Mai Linh giới thiệu ứng dụng di động cho phép 
gọi xe taxi không cần thông qua tổng đài. Cuối năm đó, Vinasun cũng nâng cao khả năng 
cạnh tranh bằng cách tung ra ứng dụng gọi xe Vinasun. Cùng lúc, hãng này còn công bố dịch 
vụ đưa đón bằng đội xe Fortuner, Innova đời mới không có nhãn hiệu hay biển taxi, với hình 
thức thanh toán như thông thường. Trong dịp tết Nguyên Đán 2016, Taxi Group cũng tung ra 
gói dịch vụ đi ghép xe cho những hành khách đi đường dài nhằm tiết kiệm chi phí cho người 
dùng. Tuy nhiên, nhiều khách hàng phàn nàn về chất lượng dịch vụ chia sẻ tại Việt Nam chưa 
đảm bảo. Đây là biển hiện thường thấy đối với bất cứ cộng đồng nào khi tiếp xúc với mô hình 
kinh doanh mới. 
Ngoài các tên tuổi từ nước ngoài như Uber, Grab, Airbnb, tại Việt Nam cũng xuất hiện 
rất nhiều các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo (start-up) trong nước theo đuổi mô hình này 
như Ahamove.com, Jupviec.vn, Commenau.com, Dobody.vn, Fastsell.vn, Timtro.vn, 
Dichung.vn, Freelancerviet.vn, EBIV, Loanvi.com, 
3.2. Đánh giá thực trạng phát triển nền kinh tế chia sẻ tại Việt Nam 
- Ƣu điểm: 
Theo Nguyễn Duy Khang (2016), Việt Nam là nơi có lực lượng tiêu dùng trẻ hùng hậu 
với sự nhạy cảm về công nghệ, về cái mới. Việt Nam luôn là mảnh đất màu mỡ cho các mô 
hình kinh tế tồn tại và phát triển. Trong làng xã, người Việt Nam sống đoàn kết, chia sẻ với 
nhau nhiều của cải, chung tay thực hiện nhiều công việc do đó họ sẽ đón nhận mô hình kinh tế 
chia sẻ khá dễ dàng. Hơn nữa, Việt Nam là đất nước có môi trường kinh doanh thuận lợi, đảm 
bảo hài hòa lợi ích giữa các mô hình kinh doanh, kiểm soát minh bạch về thông tin và một số 
vấn đề xã hội khác nảy sinh như lao động, việc làm và an sinh xã hội. 
- Nhƣợc điểm: 
Tại Việt Nam, mô hình này không có xu hướng chững lại, nhưng chỉ có hiệu quả khi 
đạt được số người tham gia đủ lớn để tạo ra giá trị bền vững. Bốn khó khăn chính khi phát 
triển mô hình này là (Nguyễn Duy Khang, 2016): 
+ Doanh nghiệp truyền thống như taxi, khách sạn cho rằng các doanh nghiệp theo mô 
hình kinh tế chia sẻ không đảm bảo dịch vụ của họ đạt tiêu chuẩn, không phải qua kiểm duyệt 
nên giá sản phẩm mới rẻ đi. Họ cho rằng đây là cạnh tranh không lành mạnh. 
+ Chính quyền đưa ra những quy định cấm đoán, cản trở đối với kinh tế chia sẻ, lập 
luận tương tự như doanh nghiệp. Vì kinh tế chia sẻ là một khái niệm mới và nhiều cơ quan 
quản lý không quen thuộc với mô hình kinh doanh này. Nhiều công ty kinh doanh chia sẻ 
đóng vai trò là những doanh nghiệp trung gian cung cấp nền tảng cho người tiêu dùng hơn là 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 
 592 
cung cấp dịch vụ trực tiếp, do đó phải kiểm soát chất lượng sản phẩm dịch vụ mà các doanh 
nghiệp, cá nhân chia sẻ. 
+ Thanh toán trực tuyến làm cho người bán/người cung cấp dịch vụ phải trả một 
khoản phí cho ngân hàng. 
+ Khó khăn khác như khó khăn trong cân bằng cung cầu; khó khăn tới từ niềm tin 
người dùng, người dùng chưa quen với việc tin tưởng người khác qua nền tảng công nghệ, 
dẫn đến các doanh nghiệp phải để mức bảo hiểm cao; khó khăn với tiếp cận công nghệ. Bên 
cạnh đó, có thể thấy nền kinh tế chia sẻ chưa tới được với đối tượng nghèo trong xã hội Việt 
Nam - đối tượng không có thứ gì có thể chia sẻ. 
3.3. Một số gợi ý cho Việt Nam 
Xuất phát từ những lợi ích và khó khăn trên, tác giả gợi ý hướng phát triển cho Việt 
Nam như sau: 
Thứ nhất, Các nhà quản lý Việt Nam nên sớm đưa ra các quy định, tạo điều kiện cho 
kinh tế chia sẻ hoạt động trong tương lai. Xác định quản lý hoạt động kinh tế chia sẻ dựa trên 
nguyên lý cung cấp dịch vụ. 
Thứ hai, Chính phủ cần nghiên cứu ban hành Luật điều chỉnh và quản lý đối với kinh 
tế chia sẻ tại Việt Nam. Làm rõ vai trò và trách nhiệm việc tìm kiếm và trừng phạt các vi 
phạm. Các cơ quan chức năng cần xử lý các lo ngại về tăng giá, đóng thuế và minh bạch. 
Thứ ba, đối với các chủ thể muốn khởi nghiệp với mô hình kinh tế chia sẻ, cần có 
những bước chuẩn bị về nguồn cung, đào tạo nhân lực và xây dựng niềm tin để tạo dựng 
thương hiệu. Các doanh nghiệp tham gia vào kinh tế chia sẻ cần nhận biết rõ các rủi ro để 
đảm bảo quyền của họ khi tham gia nền kinh tế này. 
Thứ tư, cần đảm bảo tính bảo mật tài khoản thanh toán trực tuyến, cả về số lượng và 
chất lượng. Khi chưa có sự phát triển mạnh mẽ của internet tại Việt Nam thì không thể có một 
nền tảng tốt cho sự phát triển và thành công của kinh doanh chia sẻ. 
IV. KẾT LUẬN 
Nếu nền kinh tế truyền thống tạo nên một mô hình tập trung về mặt địa lí thì nền kinh 
tế chia sẻ lại được duy trì bởi mô hình tập trung về mặt nhu cầu. Con người là trung tâm của 
nền kinh tế chia sẻ. Những người tham gia nền kinh tế chia sẻ là các cá nhân, cộng đồng dân 
cư, các công ty, tổ chức, hiệp hội, tất cả đều được đặt trong một hệ thống chia sẻ hiệu quả cao 
và các đóng góp đều được hưởng lợi từ đó. Có thể thấy, nguyên tắc hoạt động cơ bản của nền 
kinh tế chia sẻ là hạn chế mua và sở hữu tài sản, tích cực đi thuê hoặc cho thuê, dùng và trả 
tiền theo nhu cầu. Đối với Việt Nam, khó khăn lớn nhất cho sự phát triển của kinh tế chia sẻ 
không phải từ hạ tầng và mức độ phổ cập của công nghệ mà đến từ sự e ngại của người dân và 
chất lượng dịch vụ. Do đó nếu muốn nền kinh tế chia sẻ phát triển mạnh mẽ tại thị trường 
Việt Nam thì các doanh nghiệp khởi nghiệp (start-up) không thể sao chép y hệt mô hình của 
nước ngoài, mà cần có những sáng tạo riêng nhằm phù hợp với tâm lý và thị trường của người 
Việt. 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 
593 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
 [1] Mai Hương Giang, 2015, Một số mô hình của nền kinh tế chia sẻ và vấn đề đặt ra 
đối với nhà quản lý, Tạp chí Tài chính và Ngân hàng quốc tế số 5 (Q1), 43-49 
[2] Nguyễn Duy Khang, 2016, Giới thiệu nền kinh tế chia sẻ và khả năng phát triển ở 
Việt Nam 
[3] Nielsen, 2014, Người tiêu dùng Đông Nam sẵn sàng với mô hình kinh doanh 
chia sẻ, October 06 
[4] www.cachmangcongnghiep.vecita.gov.vn./ 
[5]www.vecita.gov.vn/tinbai/1428/Kinh-te-chia-se-va-Cach-mang-Cong-nghiep-4-0 
TIẾNG ANH 
[1] Belk, R. (2014b), You are what you can access: Sharing and collaborative 
consumption online, Journal of Business Research, 67(8), 1595–1600. 
[2] Botsman, R. (2013), The Sharing Economy Lacks A Shared Definition, Fast 
Company, November 21, 2013. 
[3] www.nielsen.com/vn/vi/insights/2014/Kinh-doanh-chia-se.html 
[4] www.pwc.com 
OVERALL OF SHARING ECONOMY AND ORIENTATION FOR VIETNAM 
ABSTRACT 
A sharing economic model is a model in between ownership and gift giving model, 
which deals with peer-to-peer collaboration with community-based online services. In fact, 
the sharing economic model has existed for a long time, beginning in the United States, 
initially with a "peer-to-peer" nature, but not as explicit. In 1995, when the Internet spread, 
this business model really developed. In my article, I present briefly the theories of sharing 
economics as shared understandings of economics, characteristics, basic principles, 
classification, development cycles and fee model of sharing economy. Then I explore and 
analyze the development of sharing economy in Vietnam. The effectiveness of this model is 
to accelerate the application of advanced science and technology towards national 
construction in the direction of industrialization and modernization, integrating with the 
development trend of the world's 4.0 industrialization. . 
Keywords: Sharing economy, Colloborative comsumption, Freelancer economy, 
Access economy, Peer to peer, Open-source community 

File đính kèm:

  • pdfgioi_thieu_ve_nen_kinh_te_chia_se_va_dinh_huong_cho_viet_nam.pdf