Giáo trình Vi sinh vật đại cương

Đối tượng của vi sinh vật học học đại cương là vi khuẩn, virus, nấm men, nấm mốc tảo và protozoa. Vi sinh vật phân bố rộng rãi trong tự nhiên và ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của con người và mọi sinh vật khác. Là môn học đại cương nên người học cần nắm vững đặc điểm hình thái, cấu tạo, tính chất lý hóa của mỗi đối tượng đồng thời nghiên cứu phương pháp để phát triển vi sinh vật có lợi phát triển và tìm cách để ức chế, hạn chế sự phát triển của vi sinh vật có hại trong cuộc sống. Lịch sử nghiên cứu về vi sinh vật được thể hiện qua 4 giai đoạn: trước khi phát minh ra kính hiển vi, kính hiển vi ra đời, Pasteur với các thực nghiệm,

giai đoạn sau Pasteur và sinh học hiện đại. Ngày nay con người đã có thể có nhiều nghiên cứu chuyên sâu về vi sinh vật nhờ sự phát triển của sinh học phân tử và các kỹ thuật di truyền hiện đại.

Giáo trình Vi sinh vật đại cương trang 1

Trang 1

Giáo trình Vi sinh vật đại cương trang 2

Trang 2

Giáo trình Vi sinh vật đại cương trang 3

Trang 3

Giáo trình Vi sinh vật đại cương trang 4

Trang 4

Giáo trình Vi sinh vật đại cương trang 5

Trang 5

Giáo trình Vi sinh vật đại cương trang 6

Trang 6

Giáo trình Vi sinh vật đại cương trang 7

Trang 7

Giáo trình Vi sinh vật đại cương trang 8

Trang 8

Giáo trình Vi sinh vật đại cương trang 9

Trang 9

Giáo trình Vi sinh vật đại cương trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 155 trang Trúc Khang 11/01/2024 5700
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Vi sinh vật đại cương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Vi sinh vật đại cương

Giáo trình Vi sinh vật đại cương
 VI SINH VẬT ĐẠI CƯƠNG
BSTY. Nguyễn Xuân Hòa - PGS. TS. Phạm Hồng Sơn. 
 Trường Đại HọcNông Lâm Huế - Khoa Chăn Nuôi – Thú Y 
CHƯƠNG I
MỞ ĐẦU (3 tiết)
-Giảng viên: BSTY. Nguyễn Xuân Hòa - PGS. TS. Phạm Hồng Sơn. Trường Đại Học 
Nông Lâm Huế- Khoa Chăn Nuôi –Thú Y-Bộ môn Ký sinh – Truyền nhiễm
-Tóm tắt: Chương mở đầu với thời lượng 2 tiết trình bày trong 9 trang với các hình ảnh 
minh họa nhằm thể hiện các vấn đề chính sau:
Đối tượng của vi sinh vật học học đại cương là vi khuẩn, virus, nấm men, nấm mốc 
tảo và protozoa. Vi sinh vật phân bố rộng rãi trong tự nhiên và ảnh hưởng rất lớn đến đời sống 
của con người và mọi sinh vật khác. Là môn học đại cương nên người học cần nắm vững đặc 
điểm hình thái, cấu tạo, tính chất lý hóa của mỗi đối tượng đồng thời nghiên cứu phương pháp 
để phát triển vi sinh vật có lợi phát triển và tìm cách để ức chế, hạn chế sự phát triển của vi 
sinh vật có hại trong cuộc sống. Lịch sử nghiên cứu về vi sinh vật được thể hiện qua 4 giai 
đoạn: trước khi phát minh ra kính hiển vi, kính hiển vi ra đời, Pasteur với các thực nghiệm, 
giai đoạn sau Pasteur và sinh học hiện đại. Ngày nay con người đã có thể có nhiều nghiên cứu 
chuyên sâu về vi sinh vật nhờ sự phát triển của sinh học phân tử và các kỹ thuật di truyền hiện 
đại. 
- Mục tiêu của chương 1: Chương mở đầu giúp cho sinh viên có cách nhìn tổng quát 
về lịch sử các giai đoạn phát triển của ngành vi sinh vật học. 
I. ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM VỤ CỦA VI SINH VẬT HỌC
1.1. Đối tượng của vi sinh vật học đại cương
Xung quanh chúng ta, ngoài các sinh vật lớn mà chúng ta có thể nhìn thấy được, còn 
có vô vàn vi sinh vật nhỏ bé, muốn nhìn thấy chúng phải sử dụng kính hiển vi, người ta gọi 
chúng là vi sinh vật. Môn khoa học nghiên cứu về hoạt động sống của các vi sinh vật được 
gọi là Vi sinh vật học.
Vi sinh vật học phát triển rất nhanh và đã dẫn đến việc hình thành các lĩnh vực khác 
nhau: vi khuẩn học (Bacteriology), nấm học (Mycology), tảo học (Algology) virus học 
(Virolory),... Việc phân chia các lĩnh vực còn có thể dựa vào phương hướng ứng dụng. Do đó 
chúng ta thấy hiện nay còn có y sinh vi sinh vật học, vi sinh vật học thú y, vi sinh vật công 
nghiệp, vi sinh vật học nông nghiệp. [1]
Ngay trong vi sinh vật học nông nghiệp cũng có rất nhiều chuyên ngành: vi sinh vật 
lương thực, vi sinh vật thực phẩm,... Mỗi lĩnh vực có đối tượng cụ thể riêng, cần đi sâu. Tuy 
nhiên ở mức độ nhất định các chuyên ngành trên đều có những điểm cơ bản giống nhau.
Vi sinh vật học đại cương, nghiên cứu những quy luật chung nhất về vi sinh vật. 
Đối tượng nghiên cứu của vi sinh vật học là vi khuẩn, xạ khuẩn (Actinomycetes), 
virus, Bacteriophage (thể thực khuẩn), nấm, tảo, nguyên sinh động vật.
Vi khuẩn: là nhóm vi sinh vật có nhân nguyên thủy, cơ thể đơn bào, sinh sản chủ yếu 
bằng hình thức trực phân, cơ thể nhỏ bé, muốn quan sát được phải sử dụng kính hiển vi quang 
học.
Virus: là những sinh vật mà kích thước của chúng vô cùng nhỏ bé, ký sinh nội bào 
tuyệt đối, muốn quan sát chúng phải sử dụng kính hiển vi điện tử.
Nấm: trước đây được coi là thực vật bậc thấp nhưng không có diệp lục tố, thường đơn 
bào, có nhóm giả đa bào, cơ thể phân nhiều nhánh nhưng không có vách ngăn hoặc vách ngăn 
nhưng chính giữa có lỗ thông, thuộc tế bào nhân thật.
Vi sinh vật tuy có kích thước nhỏ bé và có cấu trúc cơ thể tương đối đơn giản nhưng 
chúng có tốc độ sinh sôi nẩy nở rất nhanh chóng và hoạt động trao đổi chất vô cùng mạnh mẽ. 
1
Vi sinh vật có thể phân giải hầu hết tất cả các loại chất có trên thế giới, kể cả những chất rất 
khó phân giải, hoặc những chất gây hại đến nhóm sinh vật khác. Bên cạnh khả năng phân giải, 
vi sinh vật còn có khả năng tổng hợp nhiều hợp chất hữu cơ phức tạp, trong điều kiện nhiệt 
độ, áp suất bình thường.
1.2. Sự phân bố của vi sinh vật
Vi sinh vật phân bố rộng rãi trong tự nhiên: trong đất, nước, không khí, trên cơ thể các 
sinh vật khác, trên lương thực, thực phẩm và các loại hàng hóa. Chẳng những thế, sự phân bố 
của chúng còn theo một hệ sinh thái vô cùng phong phú, đa dạng, từ lạnh đến nống, từ chua 
đến kiềm, từ háo khí đến kị khí,... Do sự phân bố rộng rãi và do hoạt động mạnh mẽ nên vi 
sinh vật có tác dụng rất lớn trong việc tham gia các vòng tuần hoàn vật chất trên trái đất cũng 
như tham gia vào các quá trình sản xuất nông nghiệp.
Vi sinh vật học đại cương, nghiên cứu những quy luật chung nhất về vi sinh vật.
1.3. Vai trò của vi sinh vật 
Trong thiên nhiên, vi sinh vật giữ những mắt xích trọng yếu trong sự chu chuyển liên 
tục và bất diệt của vật chất, nếu không có vi sinh vật hay vì một lý do nào đó mà hoạt động 
của vi sinh vật bị ngừng trệ dù chỉ trong thời gian ngắn, có thể nó sẽ làm ngưng mọi hoạt 
động sống trên trái đất. Thật vậy người ta đã tính toán nếu không có vi sinh vật hoạt động để 
cung cấp CO2 cho khí quyển thì đến một lúc nào đó lượng CO2 sẽ bị cạn kiệt, lúc bây giờ cây 
xanh không thể quang hợp được, sự sống của các loài sinh vật khác không tiến hàn ...  hiệu lực luôn. 
-Cơ chế hình thành tính kháng thuốc của vi sinh vật
Trước hết phải thấy rằng quá trình hình thành tính kháng thuốc của vi sinh vật phụ 
thuộc vào nhiều yếu tố:
- Nồng độ và bản chất kháng sinh
-Thời gian tác động
- Cơ chế tác dụng của kháng sinh
-Đặc tính của vi sinh vật và nhiều nhân tố khác
Mặc dù có sự tác động khác nhau giữa các loại kháng sinh lên vi sinh vật, nhưng cơ 
chế hình thành tính kháng thuốc thì chủ yếu do hai cơ chế sau:
*Kháng thuốc do biến đổi về bộ máy di truyền của vi sinh vật 
149
Cấu trúc ADN bị thay đổi do tác động của kháng sinh làm thay đổi thứ tự của các 
bazơ kiềm, làm xuất hiện các chức năng khác thường của tế bào tạo nên sự kháng thuốc, đó 
là.
-Làm cho kháng sinh bị giữ lại ở bề mặt tế bào, không xâm nhập vào bên trong. Tế 
bào ở trạng thái kém mẫn cảm với kháng sinh.
-Làm tế bào tăng cường tổng hợp các men cảm ứng có khả năng phân hủy chất kháng 
sinh trước khi chất này gây tác hại.
-Làm cho quá trình trao đổi chất của tế bào không mẫn cảm với chất kháng sinh, quá 
trình này có liên quan đến sự biến đổi về acid nucleic và protein và có sự giảm thấp quá trình 
sinh hóa học của tế bào. Kết quả là chất kháng sinh không gây nên sự tổn thương sâu sắc đến 
trao đổi chất tế bào.
- Có thể bằng cách khác nữa, vi sinh vật đã tạo cho nó khả năng kháng thuốc, trong 
nhiều trường hợp đặc tính kháng thuốc được cũng cố vững chắc và truyền lại cho thế hệ sau 
hoặc tế bào khác bằng con đường biến nạp và tải nạp.
*Cơ chế kháng thuốc gây nên bởi nhân tố kháng thuốc
Tính kháng nhiều thuốc của cùng một chủng vi khuẩn, mặc dù nó chưa hề tiếp xúc 
trực tiếp với các loại thuốc đó đã được xác định bởi. Kitamoto (1956) đối với Shigella. Nhân 
tố kháng thuốc, plasmid-R được phát hiện ra 1960 với đặc điểm: 
- Cấu tạo ADN xoắn kép, khép vòng nên quan sát có hình tròn.
- Tồn tại tách biệt NST, gắn vào thành trong màng tế bào.
- Một vi khuẩn có từ một đến nhiều plasmid, có khoảng 30 loại plasmid kháng kháng 
sinh.
Nhân tố R là một phức hợp gồm hai thành phần:
1- Gen chủ trì việc đối kháng kháng sinh, gồm một bộ gen có thể đối kháng với nhiều 
loại kháng sinh, mỗi gen chịu trách nhiệm đề kháng với một loại kháng sinh, nhưng cũng có 
một gen có thể kháng hai loại.
2- Gen chỉ đạo và quy phạm hóa sự tái sinh các nhân tố R
 Trong tế bào vi khuẩn kháng thuốc, hai thành phần trên có thể kết hợp với nhau hoặc 
tách rời nhau, mỗi phần đều ở dạng xoắn kép và có khả năng nhân đôi độc lập.
Khi có sự tiếp xúc với một kháng sinh nào đó, gen tương ứng trong bộ gen R của nhân 
tố R sẽ đọc mã cho sự tổng hợp lại một gen chống lại kháng sinh này như men β-lactamase 
chống ampicilin, men axetintraspherase chống lại Chloramphenicol,....
Hiện tượng kháng nhiều thuốc được truyền qua lại bằng con đường tiếp hợp, không 
kèm theo sự truyền NST của tế bào, đó là con đường truyền ngoài nhân, nhờ những nhân tố di 
truyền tế bào chất. Khi một vi khuẩn không hoặc chưa có nhân tố di truyền R-plasmid thì nó 
là vi khuẩn trần, rất có thể bị kháng sinh tiêu diệt, khi vi khuẩn trần được được các vi khuẩn 
plasmid truyền cho vũ khí bí mật này thì nó có khả năng chống đối lại kháng sinh.
-Biện pháp đối với tính kháng thuốc
Trước hết phải đề cập đến một vấn đề là việc sử dụng rộng rãi thuốc kháng sinh có 
quan hệ gì đến tính kháng thuốc của vi khuẩn.
Việc dùng thuốc kháng sinh rộng rãi để chữa bệnh, tất nhiên sẽ dẫn đến một hiện trạng 
là sẽ tạo ra những tế bào thích ứng, sự thích ứng nhanh hay chậm phụ thuộc vào nồng độ và 
phương pháp sử dụng. Các tế bào này cũng có tính thích ứng một cách bền vững và có thể di 
truyền. Qua nghiên cứu cho thấy các vi khuẩn mang plasmid tồn tại khắp nơi, kể cả những nơi 
không bao giờ sử dụng đến chất kháng sinh, như tách vi khuẩn từ phân của động vật hoang 
dại, hoặc các vi khuẩn có trong các mẫu hóa thạch đều tách được các plasmid kháng kháng 
150
sinh, nhưng hiển nhiên việc dùng kháng sinh rộng rãi sẽ làm cho nhân tố kháng thuốc được 
lan truyền rộng nhờ chọn lọc.
Để đối phó với tính kháng thuốc của vi sinh vật người ta có những biện pháp:
-Hạn chế tối đa sử dụng kháng sinh trong điều trị và phòng ngừa (bổ sung vào trong 
thức ăn cho gia súc).
-Tìm kiếm các loại kháng sinh mới và nghiên cứu sử dụng phối hợp nhiều loại kháng 
sinh trong điều trị, khi sự kết hợp mất hiệu lực mới nghĩ đến chuyện tăng liều lượng nhưng 
không phải tăng mãi được mà phải tìm ra loại kháng sinh mới. Tránh dùng liều thấp và kéo 
dài.
-Làm thay đổi các bản chất của các plasmid hoặc ngăn ngừa sự tái sinh và sự truyền 
plasmid giữa các tế bào. Hiện nay bằng kỹ thuật hiện đại người ta có thể tách các mảnh 
plasmid và ghép các mảnh này lại thành một plasmid hoàn chỉnh. Điều này cho phép lai tạo 
giữa các plasmid của các tế bào khác nhau, hoặc ghép các mảnh ADN lấy từ virus, tế bào 
động vật, tế bào ung thư,...để ghép thành những plasmid có chức năng định hướng theo ý 
muốn, việc làm này có triển vọng trong điều trị bệnh ung thư và chống lại hiện tượng kháng 
thuốc.
4.2. Tế bào diệt tự nhiên và các yếu tố hòa tan
Tế bào diệt tự nhiên hay tế bào NK (Natural killer cell) khi tế bào bị nhiễm virus lại lần 
thứ hai. Bạch cầu có khả năng nhận biết các thay đổi trên bề mặt một tế bào bị nhiễm virus. 
Tế bào NK sẽ gắn vào các tế bào đích và có thể diệt chúng. Tế bào NK được hoạt hóa bởi 
interferon, interferon được sản xuất bởi các tế bào nhiễm virus và cũng có khi bởi tế bào 
lympho. Ngoài tác động trên tế bào NK ra, interferon còn có khả năng tạo ra tình trạng đề 
kháng virus cho những tế bào chưa bị nhiễm virus ở các mô. Interferon được sản xuất ra có 
thể chống lại nhiều loại virus khác nhau.
Trong huyết thanh của cơ thể bị nhiễm trùng, nồng độ của nhiều loại protein đã gia 
tăng nhanh chóng. Các protein này được gọi chung là ''protein pha cấp tính '' (acute phase 
protein). Nồng độ các protein pha cấp có tăng từ 2-100 lần so với mức bình thường và chúng 
tiếp tục giữ ở mức độ cao trong suốt quá trình nhiễm trùng. 
Bổ thể là một chuỗi khoảng 20 protein huyết thanh tác dụng nối tiếp nhau theo một 
phản ứng chuỗi, đồng thời chúng cũng tác dụng với những thành phần khác của hệ thống 
miễn dịch bẩm sinh và thu được. Sau khi được hoạt hóa một số thành phần bổ thể có tác dụng 
opsonin hóa vi khuẩn và giúp cho quá trình thực bào, trong khi đó một số thành phần khác 
đóng vai trò thu hút các tế bào thực bào đến hiện trường nhiễm trùng. Một nhóm thành phần 
bổ thể khác tạo ra sự ly giải trực tiếp đối với màng tế bào vi khuẩn.
4.3. Kháng thể 
Kháng thể là những phân tử được sản xuất bởi tế bào lympho B, một loại tế bào của hệ 
thống miễn dịch thu được. Kháng thể hoạt động với tư cách là cầu nối giữa vi sinh vật gây 
bệnh với tế bào thực bào.
Từ đó chúng ta có định nghĩa kháng thể: Kháng thể là các globulin trong máu của 
động vật, có khả năng liên kết đặc hiệu với kháng nguyên đã kích thích sinh ra nó. Kháng 
thể chủ yếu được tìm thấy trong huyết thanh của động vật, do vậy huyết thanh chứa kháng thể 
đặc hiệu kháng nguyên được gọi là kháng huyết thanh.
Kháng thể cũng có thể được tìm thấy trong các dịch thể khác của cơ thể, như sữa. 
Những kháng thể có sẵn trong sữa hay huyết tương của người, động vật từ trước khi có sự tiếp 
xúc với kháng nguyên gọi là kháng thể tự nhiên hay kháng thể không đặc hiệu. 
Kháng thể đặc hiệu là kháng thể được sinh ra do kích thích của kháng nguyên (vi sinh 
vật) và kết hợp đặc hiệu với kháng nguyên ấy. 
151
Khi kháng nguyên và kháng thể tương ứng kết hợp với nhau sẽ xẩy ra phản ứng ngưng 
kết.
4.4. Tiêu độc và khử trùng
Công tác tiêu độc, khử trùng đặc biệt quan trọng trong nhiều lĩnh vực như công nghệ 
sinh học, chế biến, dự trữ thức ăn, phòng và trị bệnh và trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác 
nữa.
4.4.1. Tiêu độc và phương pháp tiêu độc
Tiêu độc là tên chung để chỉ các biện pháp sử dụng hóa chất để hủy hoại vi sinh vật, 
tuy nhiên có thể sử dụng các biện pháp vật lý và sinh học.
Khi có mặt của các chất tiêu độc, vi sinh vật sẽ ngừng sinh trưởng và chết. Quá trình 
tiêu độc không phải phát sinh ngay một lúc mà diễn ra tuần tự theo một qui luật nhất định. 
Trong một số đơn vị thời gian số lượng vi sinh vật chết lúc bắt đầu nhiều, tiếp theo tùy theo 
sự tăng dần về thời gian mà sự giảm dần được thể hiện qua đường cong tử vong.
Như vậy số lượng vi khuẩn trong môi trường càng lớn thì thời gian tiêu độc càng dài, 
điều này có ý nghĩa trong thực tiễn tiêu độc để đạt hiệu quả cao nhất.
 Các nhân tố ảnh hưởng đến tiêu độc 
Tác dụng của tiêu độc phụ thuộc vào nhiều yếu tố:
+Trước hết phụ thuộc vào loại hình các nhân tố tác động và cường độ tác động của 
chúng, đó là nhân tố vật lý hay hóa học, hóa chất loại gì,...
+Đặc tính của tế bào: loài giống trạng thái sinh lý tế bào, tuổi tế bào, có hình thành 
nha bào, giáp mô hay không, hàm lượng muối của từng loại tế bào.
+Tính chất của môi trường mà vi sinh vật tồn tại: trạng thái môi trường rắn, lỏng, 
thành phần môi trường, nồng độ ion, pH môi trường, sự tồn tại các chất hữu cơ và nhiệt độ 
môi trường.
+Thời gian tác động của từng nhân tố.
Những nhân tố này có quan hệ và tác động qua lại lẫn nhau.
Phương pháp tiêu độc
Những hóa chất vừa có thể là chất ức chế, chất phòng thối hay chất tiêu độc, khử trùng 
khi có sự thay đổi về nồng độ hoặc có những tác động khác. Tùy theo mục đích yêu cầu công 
việc mà sử dụng các hóa chất hợp lý đạt hiệu quả cao.
Để ngăn ngừa sự lên men thối trong các chế phẩm, sản phẩm chế biến để cho con 
người và gia súc ta phải sử dụng các hóa chất với nồng độ không gây độc trong chế biến bảo 
quản. Hóa chất này gồm hai nhóm: 
Nhóm chất hữu cơ: các acid hữu cơ: lactic, citric, acetic, beoic, salicilic, muối: 
benzoat, salixilat, tiophosphat metin, etilic, khói củi và gia vị.
Nhóm chất vô cơ: acid boric, muối borat, acid sunfuaric, kiềm, muối kiềm, NaCl, 
nitrat, halogen, peoxit, các khí.
4.4.2. Khử trùng và phương pháp khử trùng
Khử trùng là một phương pháp loại trừ hoàn toàn vi sinh vật có trong môi trường nào 
đó bằng cách tiêu diệt hay loại bỏ chúng.
* Ý nghĩa của khử trùng:
Tránh lây truyền, gây nhiễm vi sinh vật từ nơi này sang nơi khác, vật này sang vật 
khác, từ vật thể nào đó sang cơ thể động vật.
Đảm bảo độ chính xác của thí nghiệm, sự thuần khiết trong công tác vệ sinh như nuôi 
cấy, phân lập, giữ giống.
152
Đảm bảo sự bảo quản lâu dài của các môi trường dinh dưỡng, thuốc, thực phẩm và các 
dụng cụ tinh xảo khác.
Những nhân tố có quan hệ đến khử trùng có nhiều và cũng tương tự như đã trình bày 
trên phần tiêu độc.
+Khử trùng bằng hóa chất
Có nhiều chất có tác dụng khử trùng nhưng tùy theo mục đích, đối tượng mà dùng các 
chất hóa học cho có hiệu quả.
Acid phenic: 5% đun sôi để khử trùng đồ vật chế vaccin. Bơm vào buồng cấy 10-15 
phút khử trùng.
Crezin: dùng dung dịch 5% khử trùng chuồng trại, nhà vệ sinh.
HgCl: 0,1% ngâm dụng cụ, 0,05-0,2% khử trùng chuồng trại.
Focmon: 40% pha với thuốc tím để sát trùng buồng cấy.
Khử trùng bằng tia bức xạ
Tia tử ngoại: dùng đèn tử ngoại để phát ra tia có chiều dài bước sống 2300-2700A0, 
thường dùng là đèn hơi thủy ngân thạch anh có độ dài bước sóng 2537A0, khử trùng phòng 
cấy bằng cách duy trì thời gian chiếu 30 phút-1giờ.
Nhân tố ảnh hưởng đến chiếu tia tử ngoại khử trùng: thời gian chiếu, cường độ chiếu, 
tính chất của môi trường (môi trường chứa muối khoáng làm giảm, khả năng khử trùng, môi 
trường mỡ, chất béo tăng khả năng khử trùng).
Tia tử ngoại được dùng phổ biến rộng rãi trong công nghiệp thực phẩm hiện nay. Nó 
có khả năng diệt hoàn toàn vi khuẩn và nấm móc.
+ Tia phóng xạ
Hiện nay người ta sử dụng tia γ, X để khử trùng, các tia phóng xạ này do máy phóng 
xạ phát ra. Đặc điểm của khử trùng bằng phóng xạ:
- Khử trùng khá hoàn thiện, diệt trừ vi sinh vật và sâu bệnh khác
-Bảo đảm xử lý sản phẩm đồng đều, chỉ cần xử lý một lần, thời gian bảo quản kéo dài.
- Độ xuyên sâu của tia cao, đảm bảo khử trùng ở độ dày 20-30cm cho phép xử lý sản 
phẩm bao bì.
- Có ảnh hưởng đến màu sắc, mùi vị của sản phẩm.
+Khử trùng bằng nhiệt độ
Như chúng ta đa biết vi sinh vật có thể sinh trưởng trong giới hạn 0-900C. Ngoài giới 
hạn này hầu hết vi sinh vật không hoạt động, do nhiệt độ cao làm biến tính protein và phá hủy 
các men, dẫn đến phá hủy tế bào.
Khử trùng nhiệt độ khô
Đốt: sử dụng khi khử trùng que cấy, dao kéo và những vật liệu không cháy. Hoặc đốt 
xác chết, bông băng, có thể dùng đèn cồn hay đèn xì, xăng đốt.
Sấy khô: sử dụng lò hấp có nguồn nhiệt là điện.
 Khử trùng bằng nhiệt ướt
Khử trùng Pasteur: sử dụng nhiệt độ thấp dưới 1000C để khử trùng; 63-
650C/30phút,...dùng để khử trùng sữa, hoa quả, phương pháp này không diệt được các vi 
khuẩn chịu nhiệt và nha bào nhưng chất lượng không bị ảnh hưởng.
Đun sôi: dùng phương pháp đun sôi trực tiếp 30 phút-1 giờ.
Hấp ngắt quảng: hấp ở nhiệt độ hơi đun sôi 1000C tránh hỏng cho môi trường khi hấp 
ở nhiệt độ cao, như môi trường huyết thanh, lòng trắng trứng, sinh tố, đường,...
153
Khử trùng bằng hơi nước cao áp: nha bào thường bị diệt ở nhịêt độ ẩm là 1200C. 
Muốn vậy phải sử dụng các nồi hấp cao áp.
Khử trùng bằng lọc
Một số dung dịch không thể khử trùng bằng nhiệt độ do bị thay đổi đặc tính vật lý, hóa 
học, như môi trường huyết thanh có thể ngưng kết, men trong dung dịch có thể bị phá 
hủy,...Như vậy đối với những môi trường dịch thì dùng phương pháp lọc khử trùng là tốt nhất.
Hiện nay có nhiều loại ống lọc khác nhau, muốn lọc trước hết phải dùng ống có kích 
thước lớn để loại bỏ các hạt có kích thước lớn. Sau đó mới dùng ống lọc khử trùng. Khi lọc 
phải sử dụng máy áp lực chân không, thường dùng để khử trùng huyết thanh, hồng cầu, thuần 
khiết các giống virus, lọc ADN.
-Câu hỏi ôn tập:
1. Trình bày phương pháp khử trùng bằng tác nhân vật lý?
2. Trình bày phương pháp khử trùng bằng tác nhân hóa học?
3. Trình bày phương pháp khử trùng bằng pháp sinh học?
4. Cơ chế tác động điểm tác động của chất kháng sinh?
5. Phân loại kháng sinh căn cứ vào nguồn gốc.
-Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Lân Dũng, Nguyễn Đình Quyến, Phạm Văn Ty (2000). Nhà xuất bản giáo dục Hà 
Nội.
2. Vũ Thị Minh Đức (2001). Thực tập vi sinh vật học. Nhà xuất bản Đại Học Quốc Gia Hà 
Nội.
3. Hoàng Thủy Nguyên, Đặng Đức Trạch, Ninh Đức Dự, Nguyễn Hồng Điệt, Nguyễn Thị Kê, 
Nguyễn Thị Oanh (1974). Vi sinh y học tập I. Nhà xuất bản Y học Hà Nội.
4. Nguyễn Vĩnh Phước(1976). Vi sinh vật học Thú y tập III. Nhã xuất bản đại học và trung 
học chuyên nghiệp Hà Nội.
5. Phạm Hồng Sơn(2006), Giáo trình bệnh truyền nhiễm thú y. Nhã xuất bản nông nghiệp Hà 
Nội.
6. Nguyễn Khắc Tuấn(1999). Vi sinh vật học, nhà xuất bản nông nghiệp Hà Nội. 
Giải thích thuật ngữ:
Natural killer cell: tế bào diệt tự nhiên, tế bào lympho có khả năng nhận diện và tiêu diệt các 
tế bào lạ hoặc tế bào chủ nhiễm virus theo cách không đặc hiệu.
Antigen: là protein mà khi đi vào cơ thể động vật kích thích hệ miễn dịch sinh ra đáp ứng 
miễn dịch.
Antibiotic : Chất kháng sinh, có tác dụng tiêu diệt vi khuẩn.
154

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_vi_sinh_vat_dai_cuong.pdf