Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh

1. Khái niệm tư tưởng và tư tưởng Hồ Chí Minh

a. Khái niệm tư tưởng

- Nghĩa phổ quát: tư tưởng là sự phản ánh hiện thực trong ý thức, là biểu hiện quan hệ của con người với thế giới xung quanh.

Trong thuật ngữ “tư tưởng Hồ Chí Minh”, khái niệm tư tưởng có ý nghĩa ở tầm khái quát triết học. Nghĩa là một hệ thống những quan điểm, quan niệm, luận điểm được xây dựng trên một nền tảng triết học nhất quán, đại biểu cho ý chí, nguyện vọng của một giai cấp, một dân tộc, hình thành trên cơ sở thực tiễn nhất định và chỉ đạo lại hoạt động thực tiễn, cải tạo hiện thực.

- Nhà tư tưởng: là người biết giải quyết tất cả những vấn đề chính trị - sách lược, các vấn đề về tổ chức, về những yếu tố vật chất của phong trào không phải một cách tự phát.

b. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh

- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991): Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và TT Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động.

“Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta, và trong thực tế, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và của cả dân tộc”.

 

Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh trang 1

Trang 1

Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh trang 2

Trang 2

Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh trang 3

Trang 3

Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh trang 4

Trang 4

Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh trang 5

Trang 5

Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh trang 6

Trang 6

Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh trang 7

Trang 7

Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh trang 8

Trang 8

Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh trang 9

Trang 9

Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

doc 73 trang Trúc Khang 12/01/2024 2061
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh

Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh
Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh của Bộ giáo dục & đào tạo
TÀI LIỆU TÓM LƯỢC SỬ DỤNG KẾT HỢP VỚI 
GIÁO TRÌNH TTHCM CỦA BỘ GD & ĐT - 2009
CHƯƠNG MỞ ĐẦU
ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ
Ý NGHĨA HỌC TẬP MÔN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
I. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
	1. Khái niệm tư tưởng và tư tưởng Hồ Chí Minh
a. Khái niệm tư tưởng
- Nghĩa phổ quát: tư tưởng là sự phản ánh hiện thực trong ý thức, là biểu hiện quan hệ của con người với thế giới xung quanh.
Trong thuật ngữ “tư tưởng Hồ Chí Minh”, khái niệm tư tưởng có ý nghĩa ở tầm khái quát triết học. Nghĩa là một hệ thống những quan điểm, quan niệm, luận điểm được xây dựng trên một nền tảng triết học nhất quán, đại biểu cho ý chí, nguyện vọng của một giai cấp, một dân tộc, hình thành trên cơ sở thực tiễn nhất định và chỉ đạo lại hoạt động thực tiễn, cải tạo hiện thực.
- Nhà tư tưởng: là người biết giải quyết tất cả những vấn đề chính trị - sách lược, các vấn đề về tổ chức, về những yếu tố vật chất của phong trào không phải một cách tự phát.
b. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991): Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và TT Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động.
“Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta, và trong thực tế, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và của cả dân tộc”.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4/2001): “TT Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là tư tưởng về” 
Trong định nghĩa này, Đảng đã bước đầu làm rõ:
+ Một là, bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Hai là, nguồn gốc tư tưởng, lý luận của TT Hồ Chí Minh.
+ Ba là, nội dung cơ bản nhất của TT Hồ Chí Minh.
+ Bốn là, giá trị, ý nghĩa, sức hấp dẫn, sức sống lâu bền của TT Hồ Chí Minh.
	Dựa trên định hướng này, các nhà khoa học đưa ra định nghĩa:
“TT Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng XHCN; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người”.
Hiện nay, tồn tại 2 phương thức tiếp cận TT Hồ Chí Minh:
Một là, TT Hồ Chí Minh như một hệ thống tri thức tổng hợp.
Hai là, TT Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm về cách mạng Việt Nam.
	Ở đây, vận dụng cách tiếp cận thứ hai để nghiên cứu TT Hồ Chí Minh.
	Là một hệ thống lý luận, TT Hồ Chí Minh có cấu trúc logic chặt chẽ, có hạt nhân cốt lõi, đó là tư tưởng về độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; độc lập dân tộc gắn liền với CNXH nhằm giải phóng dân tộc, giải phong giai cấp và giải phóng con người. 
	2. Đối tượng và nhiệm vụ của môn học
a. Đối tượng nghiên cứu
	Là hệ thống quan điểm, quan niệm, lý luận về cách mạng Việt Nam trong dòng chảy của thời đại mới mà cốt lõi là tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
	Như vậy, đối tượng của môn học không chỉ là bản thân hệ thống các quan điểm, lý luận được thể hiện trong toàn bộ di sản của Hồ Chí Minh, mà còn là quá trình vận dụng, hiện thực hóa các quan điểm, lý luận đó trong thực tiễn cách mạng.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu
	Làm rõ các nội dung sau:
- Cơ sở (khách quan và chủ quan) hình thành TT Hồ Chí Minh nhằm khẳng định sự ra đời của TT Hồ Chí Minh là một tất yếu khách quan , giải quyết các vấn đề lịch sử dân tộc đặt ra;
- Các giai đoạn hình thành và phát triển TT Hồ Chí Minh;
- Nội dung, bản chất cách mạng, khoa học, đặc điểm của các quan điểm trong hệ thống TT Hồ Chí Minh;
- Vai trò nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động của TT Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam;
- Quá trình nhận thức, vận dụng, phát triển TT Hồ Chí Minh qua các giai đoạn cách mạng của Đảng và Nhà nước ta;
- Các giá trị tư tưởng lý luận của Hồ Chí Minh đối với kho tàng tư tưởng, lý luận cách mạng thế giới của thời đại.
	3. Mối quan hệ của môn học này với môn học những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và môn đường lối cách mạng của Đảng CS Việt Nam
a. Với môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lenin
	Chủ nghĩa Mác – Lenin là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận, nguồn gốc tư tưởng, lý luận trực tiếp quyết định bản chất cách mạng, khoa học của TT Hồ Chí Minh.
	Cuộc đời, sự nghiệp của Hồ Chí Minh và sự nghiệp của Đảng ta, thông qua tổng kết thực tiễn, đã góp phần làm phong phú, bổ sung và phát triển các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lenin.
	Tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Mác – Lenin, là sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lenin vào điều kiện thực tế Việt Nam. Vì vậy, hai môn này có  ... Chí Minh. 
	Đây cũng là những khái niệm cũ nhưng được Hồ Chí Minh lọc boỏ những nội dung không phù hợp và đưa vào những nội dung mới. 
	Cần: lao động siêng năng, chăm chỉ, lao động có kế hoạch, có hiệu quả, có năng suất cao với tinh thần tự lực cánh sinh.
	Kiệm: tiết kiệm; “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”, không phô trương hình thức,
	Liêm: luôn tôn trọng của công và của dân, “trong sạch, không tham lam” tiền của, địa vị, danh tiếng.
	Chính: thẳng thắn, đứng đắn. Người đưa ra một số yêu cầu: đối với mình – không tự cao, tự đại, tự phụ, phải khiêm tốn học hỏi, phát huy cái hay, sửa chữa cái dở của mình. Đối với người – không nịnh người trên, không khinh người dưới, thật thà, không dối trá. Đối với việc – phải để việc công lên trên, lên trước, việc thiện nhỏ mấy cũng làm, việc ác nhỏ mấy cũng tránh.
	Các đức tính trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, ai cũng phải thực hiện, song, cán bộ, đảng viên phải thực hành trước để làm mẫu cho dân.
	Đối với một quốc gia, cần, kiệm, liêm, chính là thước đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh về tinh thần, thể hiện sự văn minh, tiến bộ. Đó còn là nền tảng của đời sống mới, của phong trào thi đua yêu nước. 
	Chí công vô tư là công bằng, công tâm, không thiên tư, thiên vị; làm việc gì cũng không nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì đảng, vì dân tộc, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Là nêu cao chủ nghĩa tập thể, trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân.
	Theo Hồ Chí Minh chủ nghĩa cá nhân là vết tích của xã hội cũ, đó là lối sống ích kỷ, chỉ biết có riêng mình, chỉ thấy công lao của mình mà quên mất cộng lao của người khác. Chủ nghĩa cá nhân còn là đồng minh của đế quốc; là một thứ vi trùng rất độc, sinh ra hàng trăm thứ bệnh nguy hiểm, như: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phítheo Hồ Chí Minh, CNXH không thể thắng lợi nếu không loại trừ chủ nghĩa cá nhân.
	- Thương yêu con người, sống có tình nghĩa
	Yêu thương con người được Hồ Chí Minh xác định là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Người nói, người cách mạng là người giàu tình cảm, có tình cảm cách mạng mới đi làm cách mạng. Vì yêu thương nhân dân, yêu thương con người mà chấp nhận mọi gian khổ hy sinh để đem lại độc lập, tự do, cơm no áo ấm và hạnh phúc cho con người.
	Người cho rằng, nếu không có tình yêu thương thì không thể nói đến cách mạng, càng không thể nói đến CNXH và CNCS.
	Tình yêu thương con người phải được xây dựng trên lập trường giai cấp công nhân, thể hiện trong mối quan hệ hàng ngày với bạn bè, đồng chí, anh emNó đòi hỏi mội người phải chặt chẽ và nghiêm khắc với bản than; rộng rãi, dộ lượng và giàu lòng vị tha với người khác. Phải có thái độ tôn trọng những quyền của con người, nâng con người lên, kể cả những người nhất thời lầm lạc, chứ không phải là thái độ dĩ hòa vi quý, không hạ thấp, càng không phải vùi dập con người. Người dạy: ”Hiểu chủ nghĩa Mác – Lenin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình, có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được”.
	- Có tinh thần quốc tế vô sản
	Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất của đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Bắt nguồn từ bản chất giai cấp công nhân, nhằm vào mối quan hệ rộng lớn, vượt qua khỏi quốc gia dân tộc.
	Nội dung chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng lớn và sâu sắc. Đó là sự tôn trọng và hiểu biết, thương yêu và đoàn kết với giai cấp vô sản toàn thế giới, với tất cả dân tộc và nhân dân các nước, với những người tiến bộ trên toàn cầu, chống lại mọi sự chia rẽ, hằn thù, bất bình đẳng và phân biệt chủng tộc Hồ Chí Minh chủ trương giúp bạn là tự giúp mình.
c. Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới
	- Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức
	Nói đi đôi với làm, Hồ Chí Minh coi đây là nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong xây dựng một nền đạo đức mới. 
	Nêu gương về đạo đức là một nét đẹp của truyền thống văn hóa phương đông. Nói đi đôi với làm phải gắn liền với nêu gương về đạo đức.
	Hồ Chí Minh dạy, hơn bất cứ lĩnh vực nào khác, trong việc xây dựng một nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng phải chú trọng “đạo làm gương”.
	Một nền đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng trên một cái nền rộng lớn, vững chắc, khi những chuẩn mực đạo đức trở thành hành vi đạo đức hằng ngày của toàn xã hội.
- Xây đi đôi với chống
	Để xây dựng một nền đạo đức mới, cần phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống. việc xây và chống trong lĩnh vực đạo đức rõ ràng không đơn giản. Xây phải đi đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây.
	Xây dựng đạo đức mới, đạo đức cách mạng trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo dục những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới. việc giáo dục đạo đức cũng phải được tiến hành phù hợp với từng giai đoạn cách mạng; lứa tuổi, nghề nghiệp, giai cấp, tầng lớp và trong từng môi trường khác nhau,
	Xây phải đi đôi với chống, với việc loại bỏ cái sai, cái xấu, cái vô đạo đức trong cuộc sống hằng ngày. Người cho rằng, trên con đường cách mạng, đạo đức mới chỉ có thể hình thành trên cơ sở kiên trì mục tiêu chống chủ nghĩa đế quốc, chống những thói quen và tậo tục lạc hậu, loại trừ chủ nghĩa cá nhân. Để làm được điều này, cần phải sớm phát hiện sớm, phải tuyên truyền, vận động, hình thành phong trào quần chúng rộng rãi đấu tranh cho sự lành mạnh, trong sạch về đạo đức.
	- Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
	Một nền đạo đức mới chỉ có thể xây dựng trên cơ sở sự tự giác tu dưỡng đạo đức của mọi người. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, phải làm thế nào đó để mỗi người tự nhận thấy sâu sắc việc trau dồi đạo đức cách mạng là một việc “sung sướng vẻ vang nhất trên đời”. 
	Đạo đức cách mạng là đạo đức dấn thân, đạo đức trong hành động vì độc lập tự do của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Chỉ có trong hành động, đạo đức cách mạng mới bộc lộ rõ những giá trị của mình. Hồ Chí Minh đưa ra một lời khuyên rất dễ hiểu: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sang, vàng càng luyện càng trong”.
	2. Sinh viên học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
a. Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
	- Xác định đúng vị trí, vai trò của đạo đức đối với cá nhân
	- Kiên trì tu dưỡng theo các phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh. Trong bài nói tại Đại hội sinh viên Việt Nam lần thứ hai (ngày 7-5-1958), Người tóm tắt những phẩm chất đó như sau:
	+ Yêu tổ quốc
	+ Yêu nhân dân
	+ Yêu chủ nghĩa xã hội
	+ Yêu lao động
	+ Yêu khoa học và kỷ luật
	Theo Người, để có được những phẩm chất đó, sinh viên cần phải rèn luyện những đức tính sau: trung thành, tận tụy, thật thà và chính trực. trong học tập, rèn luyện, phải kết hợp lý luận với thực hành, học tập với lao động; phải chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, chống tư tưởng hám danh, hám lợi.
	“Đối với người, ai làm gì có lợi ích cho nhân dân, cho Tổ quốc ta đều là bạn. Bất kỳ ai làm điều gì có hại cho nhân dân và Tổ quốc ta tức là kẻ thù. 
	Đối với mình, những tư tưởng và hành động có lợi ích cho Tổ quốc, cho đồng bào là bạn. Những tư tưởng và hành động có hại cho Tổ quốc và đồng bào là kẻ thùĐiều gì phải, phải cố làm cho kỳ được, dù là việc nhỏ. Điều gì trái, thì hết sức tránh, dù là một điều trái nhỏ”.
b. Nội dung học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
	- Thực trạng đạo đức lối sống trong sinh viên hiện nay
	- Học tập và làm theo tấm gương đạo đức hồ chí minh
	+ Một là, học trung với nước, hiếu với dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
	+ Hai là, học cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sang, nếp sống giản dị và đức tính khiêm tốn phi thường.
	+ Ba là, học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân và hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân; luôn nhân ái, vị tha, khoan dung và nhân hậu với con người.
	+ Bốn là, học tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua mọi thử thách, gian nguy để đạt được mục đích cuộc sống.
III. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG 
CON NGƯỜI MỚI
	1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người
a. Con người được nhìn nhận như một chỉnh thể
	- Hồ Chí Minh xem xét con người như một chỉnh thể thống nhất về tâm lực, thể lực và các hoạt động của nó. Con người luôn có xu hướng vươn tới “chân – thiện – mỹ”.
	Hồ Chí Minh xem xét con người trong tính đa dạng của nó: đa dạng trong quan hệ xã hội; đa dạng trong tính cách, khát vọng, phẩm chất, khả năng; đa dạng trong hoàn cảnh xuất than, điều kiện sống,
	- Hồ Chí Minh xem xét con người trong sự thống nhất của hai mặt đối lập: thiện và ác, hay và dở, tốt và xấu, hiền và dữ,bao gồm cả tính người và tính bản năng. Theo Người, con người “dù là xấu, tốt, văn minh hay dã man đều có tình”.
b. Con người cụ thể, lịch sử
	Hồ Chí Minh cũng dùng khái niệm “con người” theo nghĩa rộng trong một số trường hợp, nhưng đặt trong một bối cảnh cụ thể và một tư duy chung. Còn phần lớn, Người xem xét khái niệm này trong trong các mối quan hệ xã hội, quan hệ giai cấp, giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp,, trong khối thống nhất của cộng đồng dân tộc và trong quan hệ quốc tế. Đó là con người hiện thực, cụ thể và khách quan.
c. Bản chất con người mang tính xã hội
	- Để sinh tồn, con người phải lao động sản xuất. Trong quá trình lao động sản xuất, các mối quan hệ giữa người với người được xác lập.
	- Con người là sản phẩn của xã hội. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, con người là tổng hợp các quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng, chủ yếu bao gồm các quan hệ: anh, em; họ hàng; bầu bạn; đồng bào; loài người.
	2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người và chiến lược “trồng người”.
a. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người 
	- Con người là vốn quý nhất, là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng
Theo Người, “trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Vì vậy, “vô luận việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả”. Nhân dân là người sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần.
	Nhân dân là yếu tố quyết định thành công của cách mạng. “Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi”.
	- Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng; phải coi trong, chăm sóc, phát huy nhân tố con người.
	Vì sống gần dân, giữa lòng dân, với dân, hiểu rõ dân tình, dân tâm, dân ý, Hồ Chí Minh thấy rõ yêu cầu giải phóng dân tộc, giải phóng con người, giải phóng lao động xã hội. Người xác định rõ trách nhiệm của người cũng là của Đảng và Chính phủ là “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. 
	Người cảm nhận và thông cảm sâu sắc với với thân phận của những người cùng khổ và nô lệ lầm than. Người có niềm tin vững chắc vào trí tuệ, bản lĩnh của con người, ở khả năng tự giải phóng của bản thân con người. Người làm hết sức để xây dựng, rèn luyện con người và quyết tâm đấu tranh cho độc lập, tự do, hạnh phúc của con người. 
	Con người là mục tiêu của cách mạng, nên mọi chủ trương, đường lối, chính sách của đảng, chính phủ đều vì lợi ích chính đáng của con người. 
	Hồ Chí Minh có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo của quần chúng nhân dân. Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, Người nhận rõ: “Muốn xây dựng CNXH, trước hết phải có con người xhcn”, “có dân thì có tất cả”
	Hồ Chí Minh tin vào nhân dân còn xuất phát từ niềm tin vào tình người. Đã là người cộng sản thì phải tin nhân dân và niềm tin vào quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh cho người cộng sản. người nói: Dân tộc ta là một dân tộc anh hùng. Trong khi giữ vững niềm tin vào dân thì phải chống các bệnh: xa nhân dân, khinh nhân dân, sợ nhân dân; không tin cậy nhân dân; không hiểu biết nhân dân; không yêu thương nhân dân.
	Con người là động lực cách mạng được nhìn nhận trên phạm vi cả nước nhưng trước hết là ở giai cấp công nhân và nông dân. Điều này có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH. Nhà nước mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy công – nông – trí làm nển tảng.
	Không phải mọi con người đều trở thành động lực, mà phải là những con người được giác ngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được nuôi dưỡng trên nền truyền thống lịch sử và văn hóa của dân tộc Việt Nam. Chính trị, văn hóa, tinh thần là động lực cơ bản trong động lực con người.
	Giữa con người – mục tiêu và con người – động lực có mối quan hệ biện chứng với nhau. Phải kiên quyết khắc phục kịp thời các phản động lực trong con người và tổ chức. Đó là chủ nghĩa cá nhân.
b. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lược “trồng người”
	- “Trồng người” là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cách mạng.
	Trên cơ sở khẳng định con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, đào tạo và rèn luyện con người. Người nói đến “lợi ích trăm năm” và mục tiêu xây dựng CNXH là những quan điểm mang tầm vóc chiến lược, cơ bản lâu dài, nhưng cũng luôn rất cấp bách. Nó liên quan đến nhiệm vụ “Trước hết cần có những con người XHCN” và “trồng người”. Tất cả những điều này phản ánh tư tưởng lớn về tầm quan trọng có tính quyết định của nhân tố con người; tất cả vì con người, do con người.
	Như vậy, con người được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Nó vừa nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với nghĩa rộng, vừa nằm trong chiến lược giáo dục - đào tạo theo nghĩa hẹp
	- “Muốn xây dựng CNXH, trước hết cần có những con người XHCN”.
	+ Con người XHCN đương nhiên phải do CNXH tạo ra. Nhưng ở đây trên con đường tiến lên CNXH thì “trước hết cần có những con người XHCN”..
	+ Mỗi bước xây dựng những con người như vậy là một nấc thang xây dựng CNXH. Đây là mối quan hệ biện chứng giữa “xây dựng CNXH” và “con người XHCN”.
	+ Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người mới XHCN có hai mặt gắn bó chặt chẽ với nhau. Một là, kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người truyền thống. Hai là, hình thành những phẩm chất mới như: có tư tưởng XHCN; có đạo đức XHCN; có trí tuệ và bản lĩnh để làm chủ; có tác phong XHCN; có lòng nhân ái, vị tha, độ lượng,
	- Chiến lược “trồng người” là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
	Để thực hiện “trồng người” cần có nhiều biện pháp, nhưng giáo dục – đào tạo là biện pháp quan trọng bậc nhất.
	Nội dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện, phải đặt đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống XHCN lên hàng đầu. Hai mặt “đức” và “tài” thống nhất nhau, trong đó, “đức” là gốc, là nền tảng cho tài năng phát triển. Phải kết hợp giữa nhận thức và hành động, lời nói với việc làm,Có như vậy mới có thể “học để làm người”.
	“Trồng người” là công việc “trăm năm”, không thể nóng vội, cũng không phải tùy tiện. nhận thức và giải quyết vấn đề này có ý nghĩa thường trực, bền bỉ trong suốt cuộc đời mỗi con người, trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH. Hồ Chí Minh cho rằng: “Việc học không bao giờ cùng, còn sống còn phải học”./.

File đính kèm:

  • docgiao_trinh_tu_tuong_ho_chi_minh.doc