Giáo trình Triết học (Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không chuyên ngành Triết học)

I. KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC

1. Khái niệm triết học và đối tƣợng nghiên cứu của triết học

a) Khái niệm triết học.

Triết học ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thức VI trước công nguyên với các thành tựu rực rỡ trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại.

Triết học, theo gốc từ chữ Hán là sự truy tìm bản chất của đối tượng, là sự hiểu biết sâu sắc của con người, đi đến đạo lý của sự vật. Theo người Ấn Độ, triết học là darshana. Điều đó có nghĩa là sự chiêm ngưỡng dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải.

Theo chữ Hy Lạp, triết học là philosophia, có nghĩa là yêu thích sự thông thái. Nhà triết học được coi là nhà thông thái, có khả năng nhận thức được chân lý, làm sáng tỏ được bản chất của sự vật.

Như vậy, dù ở phương Đông hay phương Tây, khi triết học mới ra đời, đều coi triết học là đỉnh cao của trí tuệ, là sự nhận thức sâu sắc về thế giới, đi sâu nắm bắt được chân lý, được quy luật, được bản chất của sự vật. Trải qua quá trình phát triển, đã có nhiều quan điểm khác nhau về triết học. Trong các quan điểm khác nhau đó vẫn có những điểm chung. Đó là, tất cả các hệ thống triết học đều là hệ thống tri thức có tính khái quát, xem xét thế giới trong tính chỉnh thể của nó, tìm ra các quy luật chi phối trong chỉnh thể đó, trong tự nhiên, xã hội và bản thân con người. Khái quát lại, có thể hiểu. Triết học là một hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về bản thân con người và vị trí của con người trong thế giới đó.

b) Đối tượng của triết học

Giáo trình Triết học (Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không chuyên ngành Triết học) trang 1

Trang 1

Giáo trình Triết học (Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không chuyên ngành Triết học) trang 2

Trang 2

Giáo trình Triết học (Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không chuyên ngành Triết học) trang 3

Trang 3

Giáo trình Triết học (Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không chuyên ngành Triết học) trang 4

Trang 4

Giáo trình Triết học (Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không chuyên ngành Triết học) trang 5

Trang 5

Giáo trình Triết học (Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không chuyên ngành Triết học) trang 6

Trang 6

Giáo trình Triết học (Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không chuyên ngành Triết học) trang 7

Trang 7

Giáo trình Triết học (Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không chuyên ngành Triết học) trang 8

Trang 8

Giáo trình Triết học (Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không chuyên ngành Triết học) trang 9

Trang 9

Giáo trình Triết học (Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không chuyên ngành Triết học) trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 448 trang Trúc Khang 12/01/2024 6000
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Triết học (Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không chuyên ngành Triết học)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Triết học (Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không chuyên ngành Triết học)

Giáo trình Triết học (Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không chuyên ngành Triết học)
 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
___________ 
GIÁO TRÌNH 
TRIẾT HOC̣ 
(Dùng cho học viên Cao học và Nghiên cứu sinh 
không chuyên ngành Triết học) 
Hà Nội - 2005 
 1 
Chƣơng 1 
KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC VÀ LỊCH SỬ TRIẾT HỌC 
I. KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC 
1. Khái niệm triết học và đối tƣợng nghiên cứu của triết học 
a) Khái niệm triết học. 
Triết học ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thức VI trước 
công nguyên với các thành tựu rực rỡ trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ 
và Hy Lạp cổ đại. 
Triết học, theo gốc từ chữ Hán là sự truy tìm bản chất của đối tượng, 
là sự hiểu biết sâu sắc của con người, đi đến đạo lý của sự vật. 
Theo người Ấn Độ, triết học là darshana. Điều đó có nghĩa là sự 
chiêm ngưỡng dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người 
đến với lẽ phải. 
Theo chữ Hy Lạp, triết học là philosophia, có nghĩa là yêu thích sự 
thông thái. Nhà triết học được coi là nhà thông thái, có khả năng nhận thức 
được chân lý, làm sáng tỏ được bản chất của sự vật. 
Như vậy, dù ở phương Đông hay phương Tây, khi triết học mới ra 
đời, đều coi triết học là đỉnh cao của trí tuệ, là sự nhận thức sâu sắc về thế 
giới, đi sâu nắm bắt được chân lý, được quy luật, được bản chất của sự vật. 
Trải qua quá trình phát triển, đã có nhiều quan điểm khác nhau về 
triết học. Trong các quan điểm khác nhau đó vẫn có những điểm chung. Đó 
là, tất cả các hệ thống triết học đều là hệ thống tri thức có tính khái quát, 
xem xét thế giới trong tính chỉnh thể của nó, tìm ra các quy luật chi phối 
trong chỉnh thể đó, trong tự nhiên, xã hội và bản thân con người. Khái quát 
lại, có thể hiểu. Triết học là một hệ thống tri thức lý luận chung nhất của 
con người về thế giới, về bản thân con người và vị trí của con người trong 
thế giới đó. 
b) Đối tượng của triết học 
Triết học ra đời từ thời cổ đại. Từ đó đến nay, triết học đã trải qua 
nhiều giai đoạn phát triển. Trong quá trình phát triển đó, đối tượng của triết 
học cũng thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử. 
 2 
Thời cổ đại, khi mới bắt đầu có sự phân chia giữa lao động trí óc với 
lao động chân tay, tri thức của loài người còn rất ít, chưa có sự phân chia 
giữa triết học với các khoa học khác, mà tất cả tri thức khoa học đều gọi là 
triết học. Ở Trung hoa, triết học gắn liền với những vấn đề chính trị- xã hội; 
ở Ấn Độ, triết học gắn liền vơi tôn giáo; ở Hy Lạp. triết học gắn liền với 
khoa học tự nhiên và gọi là triết học tự nhiên. Cũng vì vậy, khi đó đối 
tượng nghiên cứu của triết học là mọi lĩnh vực tri thức. Đây cũng là nguyên 
nhân sâu xa về sau dẫn đến quan niệm cho rằng: "Triết học là khoa học của 
các khoa học". Thời kỳ này, triết học đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ, 
đặt nền móng cho sự phát triển về sau không chỉ đối với triết học mà còn 
đối với khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. 
Thời Trung cổ ở Tây Âu, do sự thống trị của Giáo hội thiên chúa 
giáo trên mọi mặt của đời sống xã hội, triết học trở thành đầy tớ của thần 
học. Nhiệm vụ của triết học khi đó là lý giải và chứng minh tính đúng đắn 
của các nội dung trong kinh thánh. Triết học đó gọi là triết học kinh viện. 
Với khuôn khổ chật hẹp của đêm trường Trung cổ, triết học phát triển rất 
chậm chạp. 
Vào thế kỷ XV- XVI, khi trong lòng xã hội phong kiến các nước Tây 
Âu xuất hiện phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, khoa học tự nhiên 
phát triển. Khi đó, triết học duy vật phát triển gắn liền với yêu cầu phát 
triển của phương thức sản xuất tư bản và sự phát triển của khoa học tự 
nhiên. Đặc biệt, đến thế kỷ XVII- XVIII, khi cách mạng tư sản nổ ra ở các 
nước Tây Âu, khi khoa học tự nhiên diễn ra quá trình phân ngành sâu sắc 
và đạt được nhiều thành tựu, nhất là cơ học Niutơn, triết học duy vật phát 
triển mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. 
Đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII- XVIII là chủ nghĩa duy vật 
Anh, Pháp, Hà Lan với các đại biểu như Ph. Bêcơn, T. Hốpxơ (Anh), 
Điđrô, Henvetiuýt (Pháp), Xpinôda (Hà Lan)... Vào thời kỳ này, mặc dầu 
khoa học tự nhiên đã hình thành các bộ môn khoa học độc lập, nhưng triết 
học vẫn gắn liền với khoa học tự nhiên, chưa xác định rõ đối tượng nghiên 
cứu của riêng mình. 
Vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, khi mà Anh, Pháp đã là nước 
tư bản, thì nước Đức còn là một nước phong kiến, giai cấp tư sản đang hình 
thành. Trước ảnh hưởng của Anh, Pháp và yêu cầu phát triển của giai cấp 
tư sản Đức, triết học Đức đã phát triển mạnh mẽ nhưng trên lập trường duy 
tâm mà đỉnh cao là triết học Hêghen. Hêghen xem triết học của mình là 
 3 
một hệ thống phổ biến của tri thức khoa học, mà trong đó các ngành khoa 
học cụ thể chỉ là những móc khâu của triết học. Triết học Hêghen là hệ 
thống triết học cuối cùng xem triết học là "khoa học của các khoa học". 
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, trước yêu cầu cuộc đấu tranh của 
giai cấp vô sản và sự phát triển của khoa học tự nhiên lúc bấy giờ, triết học 
Mác đã ra đời. Triết học Mác đã đoạn tuyệt với quan niệm "triết học l ... c động của môi trường - địa lý. 
Nơi khai sinh lập nghiệp của tổ tiên người Việt là vùng đất mới được 
bồi đắp, nằm giữa một bên là núi và một bên là biển nên hệ thống sông 
(1)
 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr1202. 
(2)
 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.7, tr.148; t.9, tr.293, 303. 
 441 
ngòi thoát nước chằng chịt. Nhiều nghìn năm sống trên vùng đất này, dấu 
vết sông nước đã in đậm nét trong cách tư duy và văn hoá người Việt. 
Phù sa của sông ngòi, nắng lắm, mưa nhiều của vùng nhiệt đới vừa là 
điều kiện lý tưởng cho trồng trọt và chăn nuôi trên những mảnh đất đã bị 
sông ngòi giới hạn, vừa là những thử thách đối với con người qua dông, 
bão, lũ, lụt. Những điều kiện ấy từng bước hình thành cuộc sống tiểu nông 
lúa nước với tư duy tiểu nông lúa nước, văn hoá tiểu nông lứa nước cùng 
những phẩm chất, năng lực cần có để chống thiên tai, gìn giữ thành quả lao 
động của người Việt. 
Về địa lý, Việt Nam nằm ở Đông Nam Châu Á - khu vực vừa có vị 
trí chiến lược, vừa là nơi giao thoa của nhiều nền văn hoá nên nhiều thế lực 
muốn chiếm để sử dụng như một căn cứ quân sự và người Việt Nam chịu 
ảnh hưởng của nhiều luồng tư tưởng khác nhau. 
- Đời sống kinh tế 
Môi trường - địa lý đã quyết định nền kinh tế tiểu nông của người 
Việt. Thích ứng với nền sản xuất này là những đơn vị sản xuất gia đình và 
những cộng đồng làng xã để hợp lực chống thiên tai, giúp nhau trong sản 
xuất cũng như trong cơn hoạn nạn. 
Gắn liền với cộng đồng làng xã là nền dân chủ làng xã biểu thị tập 
trung qua lệ làng, hương ước. Mỗi cộng đồng có lệ làng, hương ước riêng 
để bảo vệ lợi ích và sự ổn định trật tự của mình. 
Nền kinh tế tiểu nông và kết cấu kinh tế, tổ chức hành chính làng xã 
đã hình thành ở người Việt Nam nhiều phẩm chất đạo đức, năng lực, quan 
điểm, quan niệm và tầm nhìn tương ứng. 
- Lịch sử giữ nước 
Việt Nam là một trong những quốc gia bị nhiều thế lực lớn, mạnh 
hơn về tiềm lực kinh tế và quân sự xâm chiếm, đô hộ. Chỉ tính riêng Trung 
Quốc, từ khi nhà Trần ra đời cho đến nhà Thanh, không một triều đại nào 
lại không thực hiện chiến tranh thôn tính Việt Nam. Trong lịch sử, người 
Việt Nam bị nhiều thế lực ngoại bang đô hộ mà có thời gian sự đô hộ kéo 
dài liên tục hơn mười thế kỷ. 
Lịch sử dân tộc Việt Nam đã hình thành nên những phẩm chất và 
năng lực của những con người thường xuyên phải chiến đấu trong thế trận 
không cân sức để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và sự sống của mình. 
 442 
- Môi trường văn hoá 
Từ hoàn cảnh địa lý và lịch sử giữ nước, người Việt chịu ảnh hưởng 
nhiều nền văn hoá của các dân tộc khác nhau trên thế giới trong đó nổi lên 
là Trung Quốc, Ấn Độ, Pháp. Có những hệ tư tưởng của các dân tộc này đã 
từng là quốc giáo Việt Nam như Nho giáo, Phật giáo. 
Đầu thế kỷ XX, qua hoạt động của Nguyễn ái Quốc, người Việt Nam 
tiếp cận với Chủ nghĩa Mác-Lênin và từ khi Đảng cộng sản Việt Nam được 
thành lập thì Chủ nghĩa Mác-Lênin đã trở thành hệ tư tưởng định hướng 
cho cách mạng Việt Nam. 
Môi trường văn hoá đa dạng đã đem đến sự đa dạng trong đời sống 
tinh thần của người Việt Nam nói riêng, toàn bộ đời sống của người Việt 
Nam nói chung trên nền kinh tế - văn hoá tiểu nông lúa nước. 
b) Mặt tích cực và hạn chế của người Việt Nam trong lịch sử 
Phẩm chất và năng lực của người Việt Nam hình thành trong môi 
trường tự nhiên mà người Việt Nam sinh sống, trong những điều kiện kinh 
tế - chính trị - văn hoá - xã hội và những yêu cầu của nó đặt ra trong từng 
giai đoạn lịch sử. Hiện nay cách mạng Việt Nam có những yêu cầu mới. Từ 
những yêu cầu này nhìn lại, người Việt Nam có nhiều mặt tích cực nhưng 
cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế. 
Những mặt tích cực của người Việt Nam trong lịch sử được Đảng 
Cộng sản Việt Nam coi là bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, 
những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua 
hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là: Lòng yêu nước 
nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc; Tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng 
gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; Lòng nhân ái, khoan dung, 
trọng nghĩa tình, đạo lý; Đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; Tinh tế 
trong ứng xử, giản dị trong lối sống(1). 
Những mặt hạn chế của người Việt Nam trong lịch sử bộc lộ qua: 
+ Truyền thống dân chủ làng xã. 
Truyền thống dân chủ làng xã là sản phẩm tất yếu của cộng đồng 
làng xã mà cuộc sống tiểu nông tự cung, tự cấp đã tạo ra. Cùng việc hình 
thành tinh thần đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau trong cuộc sống, cộng 
đồng làng xã đã sản sinh dân chủ làng xã. Đây là hình thức dân chủ sơ khai 
(1)
 Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, 
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.56. 
 443 
thể hiện hình thức tự quản, các thành viên trong cộng đồng giám sát nhau 
chủ yếu qua dư luận của cộng đồng. Điều này thường dẫn đến cục bộ dòng 
họ, làng xã; tư tưởng bình quân chủ nghĩa; hay can thiệp vào cuộc sống 
riêng tư, can thiệp vào quá trình phát triển của cá thể; thiếu tinh thần tự 
giác khi dư luận cộng đồng không còn được coi trọng nên dễ hành động tự 
do, tuỳ tiện; coi thường luật pháp bởi "phép vua thua lệ làng" v.v. 
+ Tập quán sản xuất tiểu nông. 
Tập quán sản xuất tiểu nông là sản phẩm của môi trường và địa lý. 
Tập quán này dẫn đến khả năng hạch toán kinh tế kém cỏi, nặng về lợi ích 
trước mắt nên dễ bỏ qua lợi ích lâu dài; thiếu chuẩn xác về thời gian, kỹ 
thuật; tâm lý cầu an, cầu may; thích bình quân, không chấp nhận sự phân 
hoá trong cuộc sống; v.v. 
+ Đề cao kinh nghiệm 
Đề cao đến mức gần như tuyệt đối hoá vai trò của kinh nghiệm là sản 
phẩm của nền sản xuất nông nghiệp lúa nước, đặc biệt là nền sản xuất nhỏ, 
manh mún. Nền sản xuất này có quy trình ổn định và chủ yếu chịu sự chi 
phối có tính ổn định của tự nhiên nên kinh nghiệm được đánh giá rất cao. 
Điều này dẫn đến việc xem thường lý luận; xem thường tuổi trẻ; quyền lực 
thuộc về những người lâu năm, nhiều tuổi, "sống lâu lên lão làng"; v.v. 
+ Tính hai mặt của một số truyền thống 
Một số truyền thống của người Việt Nam cũng bộc lộ tính hai mặt 
của nó như sống giản dị, ghét cầu kì, xa hoa là phẩm chất tốt song dễ dẫn 
đến sự hạ thấp nhu cầu, trong khi nhu cầu là một trong những động lực phát 
triển của xã hội; truyền thống cần cù; giỏi chịu đựng gian khổ cũng là phẩm 
chất tốt nhưng cũng dễ dẫn đến sự cam chịu, thoả mãn, bằng lòng với cái 
hiện có; v.v. 
2. Con ngƣời Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 
a) Cách mạng Việt Nam giai đoạn hiện nay và những vấn đề đặt ra 
đối với con người Việt Nam 
Cách mạng Việt Nam đang diễn ra trong những biến đổi sâu sắc, 
phức tạp của thế giới; trên những thành tựu lớn lao mà dân tộc Việt Nam đã 
đạt được và trước những cơ hội và những thách thức mà người Việt Nam 
phải nắm bắt và phải vượt qua. 
Trên thế giới, cách mạng khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ 
đưa nhân loại vào nền văn minh trí tuệ với hai đặc trưng cơ bản là xã hội 
 444 
hoá thông tin và kinh tế tri thức đã tạo cơ sở vật chất cho quá trình toàn cầu 
hoá dẫn đến xu hướng liên kết, hợp tác ngay cả giữa các quốc gia có chế độ 
chính trị khác nhau trong cuộc cạnh tranh để tồn tại và phát triển. 
Cục diện chính trị thế giới thay đổi bởi sự thoái trào của chủ nghĩa xã 
hội; sự phân hoá của các quốc gia độc lập và khả năng tự điều chỉnh của 
chủ nghĩa tư bản. 
Chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, chạy đua vũ trang, xung đột 
dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, diễn ra ở 
nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp. 
Khu vực Đông Nam Á - Thái Bình Dương đang phát triển nhưng vẫn 
tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định. 
Tuy vậy, hoà bình, hợp tác và phát triển đang trở thành xu thế lớn 
của thời đại hiện nay. 
Ở trong nước, trải qua quá trình đổi mới, cơ sở vật chất - kỹ thuật 
của nền kinh tế được tăng cường. Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn 
định. Môi trường hoà bình, sự hợp tác, liên kết quốc tế và những xu thế tích 
cực trên thế giới tạo điều kiện để người Việt Nam tiếp tục phát huy nội lực 
và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, 
hiện đại hoá. 
Đồng thời bốn nguy cơ (tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước 
trong khu vực và trên thế giới; chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham 
nhũng và tệ quan liêu; "diễn biến hoà bình" do các thế lực thù địch gây ra) 
đối với người Việt Nam đến nay vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan xen, 
tác động lẫn nhau. Tình trạng tham nhũng và sự suy thoái về tư tưởng 
chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên 
đang cản trở việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, 
gây bất bình và làm giảm lòng tin trong nhân dân. Việt Nam vẫn còn là 
nước kinh tế kém phát triển, mức sống nhân dân còn thấp, trong khi đó 
cuộc cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt(1). 
Từ tình hình thực tế của đất nước và thế giới, từ mục tiêu chung là 
"độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội 
công bằng, dân chủ, văn minh"(2), nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong 
(1)
 Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IXĩ, Nxb. Chính trị quốc 
gia, Hà Nội, 2001, tr.66-67. 
(2)
 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IXĩ, Nxb. Chính trị quốc gia, 
Hà Nội, 2001, tr.85-86. 
 445 
giai đoạn hiện nay là: "Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, 
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt 
Nam xã hội chủ nghĩa"(1). 
Thực tiễn đang đòi hỏi người Việt Nam phải đạt được những yêu cầu 
mới để thực hiện nhiệm vụ của giai đoạn trong mục tiêu chung trước những 
diễn biến đa dạng, phức tạp của thế giới, trước những cơ hội và thử thách 
của chính mình. 
b) Xây dựng con người Việt Nam đáp ứng của giai đoạn cách 
mạng hiện nay. 
Đồng thời với việc kiên trì đấu tranh chống thoái hoá, biến chất, xây 
dựng con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là hình thành và phát 
triển ở con người những đức tính cơ bản: 
" - Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân 
tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo 
nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì 
hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. 
- Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung. 
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, 
nhân nghĩa tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý 
thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. 
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng 
tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội. 
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, 
trình độ thẩm mỹ và thể lực"(2). 
Để đạt được điều này người Việt Nam đã và đang tập trung đầu tư 
vào những lĩnh vực chủ yếu nhất của xã hội như: 
- Trên lĩnh vực kinh tế: Thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách 
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa(3). 
Đây là vận dụng một trong những quy luật nền tảng xây dựng con 
người mới là: Xây dựng con người phải thông qua cơ chế lao động. Việc 
(1)
 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứIXĩ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà 
Nội, 2001, tr.60. 
(2)
 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII. Nxb. 
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr58-59. 
(3)
 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, 
Hà Nội, 2001, tr.86. 
 446 
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa 
không chỉ tạo công ăn việc làm cho mọi người mà còn thông qua cơ chế thị 
trường với những đòn bẩy kinh tế để kích thích năng lực lao động làm việc 
cho mình và cho xã hội. 
- Trên lĩnh vực chính trị: Khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã 
hội trên nền tảng của chủ nghĩa nhằm nâng cao tính tích cực chính trị của 
nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân tham gia nhiều hơn vào quản lý nhà 
nước, quản lý xã hội(1). 
- Trên lĩnh vực xã hội: Giải phóng con người khỏi sự thao túng của 
các quan hệ xã hội cũ đã lỗi thời, kế thừa truyền thống tốt đẹp, xây dựng hệ 
thống những chuẩn mực quan hệ mới(2). 
- Trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo - khoa học, công nghệ 
Giáo dục và đào tạo - khoa học, công nghệ được coi là "quốc sách 
hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài"(3), 
"là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất 
nước"(4). 
- Trên lĩnh vực văn hoá: "Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà 
bản sắc dân tộc được coi vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển 
kinh tế - xã hội. Mọi hoạt động của văn hoá nhằm xây dựng con người Việt 
Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, 
năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn 
trọng nghĩa tình, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội"(5). 
Có thể nói xây dựng con người đang được người Việt Nam thực hiện 
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Những lĩnh vực khác nhau có 
những trọng tâm khác nhau nhưng đều hỗ trợ nhau để hình thành cuộc sống 
mới với những con người mới. 
(1)
 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, 
Hà Nội, 2001, tr. 83, 113. 
(2)
 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, 
Hà Nội, 2001, tr.115-116. 
(3)
 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, 
Hà Nội, 2001, tr.114. 
(4)
 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, 
Hà Nội, 2001, tr.112. 
(5)
 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, 
Hà Nội, 2001, tr.114. 
 447 
MỤC LỤC 
 Trang 
Chương I. Khái luận về triết học và Lịch sử triết học 1 
Chương II. Khái lược Lịch sử triết học Phương Đông 15 
Chương III. Khái lược Lịch sử triết học Phương Tây 69 
Chương IV. Khái lược Lịch sử triết học Mác - Lênin 151 
Chương V. Chủ nghĩa Duy vật biện chứng - cơ sở lý luận 
của thế giới quan khoa học 
224 
Chương VI. Phép biện chứng duy vật - Phương pháp luận 
nhận thức khoa học và thực tiễn 
247 
Chương VII. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn 
của triết học Mác - Lênin 
305 
Chương 
VIII. 
Lý luận hình thái kinh tế - xã hội với con đường 
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 
327 
Chương IX. Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện 
nay và vận dụng vào xây dựng chủ nghĩa xã hội 
ở Việt Nam 
355 
Chương X. Lý luận về Nhà nước và Nhà nước Pháp quyền 
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 
387 
Chương XI. Quan điểm của Triết học Mác - Lênin về con 
người và vấn đề xây dựng con người Việt Nam 
hiện nay 
415 

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_triet_hoc_dung_cho_hoc_vien_cao_hoc_va_nghien_cuu.pdf