Giáo trình Triết học (Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không chuyên ngành Triết học)
I. KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC
1. Khái niệm triết học và đối tƣợng nghiên cứu của triết học
a) Khái niệm triết học.
Triết học ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thức VI trước công nguyên với các thành tựu rực rỡ trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại.
Triết học, theo gốc từ chữ Hán là sự truy tìm bản chất của đối tượng, là sự hiểu biết sâu sắc của con người, đi đến đạo lý của sự vật. Theo người Ấn Độ, triết học là darshana. Điều đó có nghĩa là sự chiêm ngưỡng dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải.
Theo chữ Hy Lạp, triết học là philosophia, có nghĩa là yêu thích sự thông thái. Nhà triết học được coi là nhà thông thái, có khả năng nhận thức được chân lý, làm sáng tỏ được bản chất của sự vật.
Như vậy, dù ở phương Đông hay phương Tây, khi triết học mới ra đời, đều coi triết học là đỉnh cao của trí tuệ, là sự nhận thức sâu sắc về thế giới, đi sâu nắm bắt được chân lý, được quy luật, được bản chất của sự vật. Trải qua quá trình phát triển, đã có nhiều quan điểm khác nhau về triết học. Trong các quan điểm khác nhau đó vẫn có những điểm chung. Đó là, tất cả các hệ thống triết học đều là hệ thống tri thức có tính khái quát, xem xét thế giới trong tính chỉnh thể của nó, tìm ra các quy luật chi phối trong chỉnh thể đó, trong tự nhiên, xã hội và bản thân con người. Khái quát lại, có thể hiểu. Triết học là một hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về bản thân con người và vị trí của con người trong thế giới đó.
b) Đối tượng của triết học
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Triết học (Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không chuyên ngành Triết học)
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ___________ GIÁO TRÌNH TRIẾT HOC̣ (Dùng cho học viên Cao học và Nghiên cứu sinh không chuyên ngành Triết học) Hà Nội - 2005 1 Chƣơng 1 KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC VÀ LỊCH SỬ TRIẾT HỌC I. KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC 1. Khái niệm triết học và đối tƣợng nghiên cứu của triết học a) Khái niệm triết học. Triết học ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thức VI trước công nguyên với các thành tựu rực rỡ trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại. Triết học, theo gốc từ chữ Hán là sự truy tìm bản chất của đối tượng, là sự hiểu biết sâu sắc của con người, đi đến đạo lý của sự vật. Theo người Ấn Độ, triết học là darshana. Điều đó có nghĩa là sự chiêm ngưỡng dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải. Theo chữ Hy Lạp, triết học là philosophia, có nghĩa là yêu thích sự thông thái. Nhà triết học được coi là nhà thông thái, có khả năng nhận thức được chân lý, làm sáng tỏ được bản chất của sự vật. Như vậy, dù ở phương Đông hay phương Tây, khi triết học mới ra đời, đều coi triết học là đỉnh cao của trí tuệ, là sự nhận thức sâu sắc về thế giới, đi sâu nắm bắt được chân lý, được quy luật, được bản chất của sự vật. Trải qua quá trình phát triển, đã có nhiều quan điểm khác nhau về triết học. Trong các quan điểm khác nhau đó vẫn có những điểm chung. Đó là, tất cả các hệ thống triết học đều là hệ thống tri thức có tính khái quát, xem xét thế giới trong tính chỉnh thể của nó, tìm ra các quy luật chi phối trong chỉnh thể đó, trong tự nhiên, xã hội và bản thân con người. Khái quát lại, có thể hiểu. Triết học là một hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về bản thân con người và vị trí của con người trong thế giới đó. b) Đối tượng của triết học Triết học ra đời từ thời cổ đại. Từ đó đến nay, triết học đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển. Trong quá trình phát triển đó, đối tượng của triết học cũng thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử. 2 Thời cổ đại, khi mới bắt đầu có sự phân chia giữa lao động trí óc với lao động chân tay, tri thức của loài người còn rất ít, chưa có sự phân chia giữa triết học với các khoa học khác, mà tất cả tri thức khoa học đều gọi là triết học. Ở Trung hoa, triết học gắn liền với những vấn đề chính trị- xã hội; ở Ấn Độ, triết học gắn liền vơi tôn giáo; ở Hy Lạp. triết học gắn liền với khoa học tự nhiên và gọi là triết học tự nhiên. Cũng vì vậy, khi đó đối tượng nghiên cứu của triết học là mọi lĩnh vực tri thức. Đây cũng là nguyên nhân sâu xa về sau dẫn đến quan niệm cho rằng: "Triết học là khoa học của các khoa học". Thời kỳ này, triết học đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ, đặt nền móng cho sự phát triển về sau không chỉ đối với triết học mà còn đối với khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Thời Trung cổ ở Tây Âu, do sự thống trị của Giáo hội thiên chúa giáo trên mọi mặt của đời sống xã hội, triết học trở thành đầy tớ của thần học. Nhiệm vụ của triết học khi đó là lý giải và chứng minh tính đúng đắn của các nội dung trong kinh thánh. Triết học đó gọi là triết học kinh viện. Với khuôn khổ chật hẹp của đêm trường Trung cổ, triết học phát triển rất chậm chạp. Vào thế kỷ XV- XVI, khi trong lòng xã hội phong kiến các nước Tây Âu xuất hiện phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, khoa học tự nhiên phát triển. Khi đó, triết học duy vật phát triển gắn liền với yêu cầu phát triển của phương thức sản xuất tư bản và sự phát triển của khoa học tự nhiên. Đặc biệt, đến thế kỷ XVII- XVIII, khi cách mạng tư sản nổ ra ở các nước Tây Âu, khi khoa học tự nhiên diễn ra quá trình phân ngành sâu sắc và đạt được nhiều thành tựu, nhất là cơ học Niutơn, triết học duy vật phát triển mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII- XVIII là chủ nghĩa duy vật Anh, Pháp, Hà Lan với các đại biểu như Ph. Bêcơn, T. Hốpxơ (Anh), Điđrô, Henvetiuýt (Pháp), Xpinôda (Hà Lan)... Vào thời kỳ này, mặc dầu khoa học tự nhiên đã hình thành các bộ môn khoa học độc lập, nhưng triết học vẫn gắn liền với khoa học tự nhiên, chưa xác định rõ đối tượng nghiên cứu của riêng mình. Vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, khi mà Anh, Pháp đã là nước tư bản, thì nước Đức còn là một nước phong kiến, giai cấp tư sản đang hình thành. Trước ảnh hưởng của Anh, Pháp và yêu cầu phát triển của giai cấp tư sản Đức, triết học Đức đã phát triển mạnh mẽ nhưng trên lập trường duy tâm mà đỉnh cao là triết học Hêghen. Hêghen xem triết học của mình là 3 một hệ thống phổ biến của tri thức khoa học, mà trong đó các ngành khoa học cụ thể chỉ là những móc khâu của triết học. Triết học Hêghen là hệ thống triết học cuối cùng xem triết học là "khoa học của các khoa học". Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, trước yêu cầu cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và sự phát triển của khoa học tự nhiên lúc bấy giờ, triết học Mác đã ra đời. Triết học Mác đã đoạn tuyệt với quan niệm "triết học l ... c động của môi trường - địa lý. Nơi khai sinh lập nghiệp của tổ tiên người Việt là vùng đất mới được bồi đắp, nằm giữa một bên là núi và một bên là biển nên hệ thống sông (1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr1202. (2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.7, tr.148; t.9, tr.293, 303. 441 ngòi thoát nước chằng chịt. Nhiều nghìn năm sống trên vùng đất này, dấu vết sông nước đã in đậm nét trong cách tư duy và văn hoá người Việt. Phù sa của sông ngòi, nắng lắm, mưa nhiều của vùng nhiệt đới vừa là điều kiện lý tưởng cho trồng trọt và chăn nuôi trên những mảnh đất đã bị sông ngòi giới hạn, vừa là những thử thách đối với con người qua dông, bão, lũ, lụt. Những điều kiện ấy từng bước hình thành cuộc sống tiểu nông lúa nước với tư duy tiểu nông lúa nước, văn hoá tiểu nông lứa nước cùng những phẩm chất, năng lực cần có để chống thiên tai, gìn giữ thành quả lao động của người Việt. Về địa lý, Việt Nam nằm ở Đông Nam Châu Á - khu vực vừa có vị trí chiến lược, vừa là nơi giao thoa của nhiều nền văn hoá nên nhiều thế lực muốn chiếm để sử dụng như một căn cứ quân sự và người Việt Nam chịu ảnh hưởng của nhiều luồng tư tưởng khác nhau. - Đời sống kinh tế Môi trường - địa lý đã quyết định nền kinh tế tiểu nông của người Việt. Thích ứng với nền sản xuất này là những đơn vị sản xuất gia đình và những cộng đồng làng xã để hợp lực chống thiên tai, giúp nhau trong sản xuất cũng như trong cơn hoạn nạn. Gắn liền với cộng đồng làng xã là nền dân chủ làng xã biểu thị tập trung qua lệ làng, hương ước. Mỗi cộng đồng có lệ làng, hương ước riêng để bảo vệ lợi ích và sự ổn định trật tự của mình. Nền kinh tế tiểu nông và kết cấu kinh tế, tổ chức hành chính làng xã đã hình thành ở người Việt Nam nhiều phẩm chất đạo đức, năng lực, quan điểm, quan niệm và tầm nhìn tương ứng. - Lịch sử giữ nước Việt Nam là một trong những quốc gia bị nhiều thế lực lớn, mạnh hơn về tiềm lực kinh tế và quân sự xâm chiếm, đô hộ. Chỉ tính riêng Trung Quốc, từ khi nhà Trần ra đời cho đến nhà Thanh, không một triều đại nào lại không thực hiện chiến tranh thôn tính Việt Nam. Trong lịch sử, người Việt Nam bị nhiều thế lực ngoại bang đô hộ mà có thời gian sự đô hộ kéo dài liên tục hơn mười thế kỷ. Lịch sử dân tộc Việt Nam đã hình thành nên những phẩm chất và năng lực của những con người thường xuyên phải chiến đấu trong thế trận không cân sức để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và sự sống của mình. 442 - Môi trường văn hoá Từ hoàn cảnh địa lý và lịch sử giữ nước, người Việt chịu ảnh hưởng nhiều nền văn hoá của các dân tộc khác nhau trên thế giới trong đó nổi lên là Trung Quốc, Ấn Độ, Pháp. Có những hệ tư tưởng của các dân tộc này đã từng là quốc giáo Việt Nam như Nho giáo, Phật giáo. Đầu thế kỷ XX, qua hoạt động của Nguyễn ái Quốc, người Việt Nam tiếp cận với Chủ nghĩa Mác-Lênin và từ khi Đảng cộng sản Việt Nam được thành lập thì Chủ nghĩa Mác-Lênin đã trở thành hệ tư tưởng định hướng cho cách mạng Việt Nam. Môi trường văn hoá đa dạng đã đem đến sự đa dạng trong đời sống tinh thần của người Việt Nam nói riêng, toàn bộ đời sống của người Việt Nam nói chung trên nền kinh tế - văn hoá tiểu nông lúa nước. b) Mặt tích cực và hạn chế của người Việt Nam trong lịch sử Phẩm chất và năng lực của người Việt Nam hình thành trong môi trường tự nhiên mà người Việt Nam sinh sống, trong những điều kiện kinh tế - chính trị - văn hoá - xã hội và những yêu cầu của nó đặt ra trong từng giai đoạn lịch sử. Hiện nay cách mạng Việt Nam có những yêu cầu mới. Từ những yêu cầu này nhìn lại, người Việt Nam có nhiều mặt tích cực nhưng cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế. Những mặt tích cực của người Việt Nam trong lịch sử được Đảng Cộng sản Việt Nam coi là bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là: Lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc; Tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; Lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; Đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; Tinh tế trong ứng xử, giản dị trong lối sống(1). Những mặt hạn chế của người Việt Nam trong lịch sử bộc lộ qua: + Truyền thống dân chủ làng xã. Truyền thống dân chủ làng xã là sản phẩm tất yếu của cộng đồng làng xã mà cuộc sống tiểu nông tự cung, tự cấp đã tạo ra. Cùng việc hình thành tinh thần đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau trong cuộc sống, cộng đồng làng xã đã sản sinh dân chủ làng xã. Đây là hình thức dân chủ sơ khai (1) Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.56. 443 thể hiện hình thức tự quản, các thành viên trong cộng đồng giám sát nhau chủ yếu qua dư luận của cộng đồng. Điều này thường dẫn đến cục bộ dòng họ, làng xã; tư tưởng bình quân chủ nghĩa; hay can thiệp vào cuộc sống riêng tư, can thiệp vào quá trình phát triển của cá thể; thiếu tinh thần tự giác khi dư luận cộng đồng không còn được coi trọng nên dễ hành động tự do, tuỳ tiện; coi thường luật pháp bởi "phép vua thua lệ làng" v.v. + Tập quán sản xuất tiểu nông. Tập quán sản xuất tiểu nông là sản phẩm của môi trường và địa lý. Tập quán này dẫn đến khả năng hạch toán kinh tế kém cỏi, nặng về lợi ích trước mắt nên dễ bỏ qua lợi ích lâu dài; thiếu chuẩn xác về thời gian, kỹ thuật; tâm lý cầu an, cầu may; thích bình quân, không chấp nhận sự phân hoá trong cuộc sống; v.v. + Đề cao kinh nghiệm Đề cao đến mức gần như tuyệt đối hoá vai trò của kinh nghiệm là sản phẩm của nền sản xuất nông nghiệp lúa nước, đặc biệt là nền sản xuất nhỏ, manh mún. Nền sản xuất này có quy trình ổn định và chủ yếu chịu sự chi phối có tính ổn định của tự nhiên nên kinh nghiệm được đánh giá rất cao. Điều này dẫn đến việc xem thường lý luận; xem thường tuổi trẻ; quyền lực thuộc về những người lâu năm, nhiều tuổi, "sống lâu lên lão làng"; v.v. + Tính hai mặt của một số truyền thống Một số truyền thống của người Việt Nam cũng bộc lộ tính hai mặt của nó như sống giản dị, ghét cầu kì, xa hoa là phẩm chất tốt song dễ dẫn đến sự hạ thấp nhu cầu, trong khi nhu cầu là một trong những động lực phát triển của xã hội; truyền thống cần cù; giỏi chịu đựng gian khổ cũng là phẩm chất tốt nhưng cũng dễ dẫn đến sự cam chịu, thoả mãn, bằng lòng với cái hiện có; v.v. 2. Con ngƣời Việt Nam trong giai đoạn hiện nay a) Cách mạng Việt Nam giai đoạn hiện nay và những vấn đề đặt ra đối với con người Việt Nam Cách mạng Việt Nam đang diễn ra trong những biến đổi sâu sắc, phức tạp của thế giới; trên những thành tựu lớn lao mà dân tộc Việt Nam đã đạt được và trước những cơ hội và những thách thức mà người Việt Nam phải nắm bắt và phải vượt qua. Trên thế giới, cách mạng khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ đưa nhân loại vào nền văn minh trí tuệ với hai đặc trưng cơ bản là xã hội 444 hoá thông tin và kinh tế tri thức đã tạo cơ sở vật chất cho quá trình toàn cầu hoá dẫn đến xu hướng liên kết, hợp tác ngay cả giữa các quốc gia có chế độ chính trị khác nhau trong cuộc cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Cục diện chính trị thế giới thay đổi bởi sự thoái trào của chủ nghĩa xã hội; sự phân hoá của các quốc gia độc lập và khả năng tự điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản. Chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, chạy đua vũ trang, xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, diễn ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp. Khu vực Đông Nam Á - Thái Bình Dương đang phát triển nhưng vẫn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định. Tuy vậy, hoà bình, hợp tác và phát triển đang trở thành xu thế lớn của thời đại hiện nay. Ở trong nước, trải qua quá trình đổi mới, cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền kinh tế được tăng cường. Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định. Môi trường hoà bình, sự hợp tác, liên kết quốc tế và những xu thế tích cực trên thế giới tạo điều kiện để người Việt Nam tiếp tục phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đồng thời bốn nguy cơ (tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới; chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng và tệ quan liêu; "diễn biến hoà bình" do các thế lực thù địch gây ra) đối với người Việt Nam đến nay vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan xen, tác động lẫn nhau. Tình trạng tham nhũng và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đang cản trở việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, gây bất bình và làm giảm lòng tin trong nhân dân. Việt Nam vẫn còn là nước kinh tế kém phát triển, mức sống nhân dân còn thấp, trong khi đó cuộc cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt(1). Từ tình hình thực tế của đất nước và thế giới, từ mục tiêu chung là "độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"(2), nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong (1) Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IXĩ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.66-67. (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IXĩ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.85-86. 445 giai đoạn hiện nay là: "Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa"(1). Thực tiễn đang đòi hỏi người Việt Nam phải đạt được những yêu cầu mới để thực hiện nhiệm vụ của giai đoạn trong mục tiêu chung trước những diễn biến đa dạng, phức tạp của thế giới, trước những cơ hội và thử thách của chính mình. b) Xây dựng con người Việt Nam đáp ứng của giai đoạn cách mạng hiện nay. Đồng thời với việc kiên trì đấu tranh chống thoái hoá, biến chất, xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là hình thành và phát triển ở con người những đức tính cơ bản: " - Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. - Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung. - Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. - Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội. - Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực"(2). Để đạt được điều này người Việt Nam đã và đang tập trung đầu tư vào những lĩnh vực chủ yếu nhất của xã hội như: - Trên lĩnh vực kinh tế: Thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa(3). Đây là vận dụng một trong những quy luật nền tảng xây dựng con người mới là: Xây dựng con người phải thông qua cơ chế lao động. Việc (1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứIXĩ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.60. (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr58-59. (3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.86. 446 phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ tạo công ăn việc làm cho mọi người mà còn thông qua cơ chế thị trường với những đòn bẩy kinh tế để kích thích năng lực lao động làm việc cho mình và cho xã hội. - Trên lĩnh vực chính trị: Khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trên nền tảng của chủ nghĩa nhằm nâng cao tính tích cực chính trị của nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân tham gia nhiều hơn vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội(1). - Trên lĩnh vực xã hội: Giải phóng con người khỏi sự thao túng của các quan hệ xã hội cũ đã lỗi thời, kế thừa truyền thống tốt đẹp, xây dựng hệ thống những chuẩn mực quan hệ mới(2). - Trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo - khoa học, công nghệ Giáo dục và đào tạo - khoa học, công nghệ được coi là "quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài"(3), "là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước"(4). - Trên lĩnh vực văn hoá: "Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc được coi vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Mọi hoạt động của văn hoá nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội"(5). Có thể nói xây dựng con người đang được người Việt Nam thực hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Những lĩnh vực khác nhau có những trọng tâm khác nhau nhưng đều hỗ trợ nhau để hình thành cuộc sống mới với những con người mới. (1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 83, 113. (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.115-116. (3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.114. (4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.112. (5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.114. 447 MỤC LỤC Trang Chương I. Khái luận về triết học và Lịch sử triết học 1 Chương II. Khái lược Lịch sử triết học Phương Đông 15 Chương III. Khái lược Lịch sử triết học Phương Tây 69 Chương IV. Khái lược Lịch sử triết học Mác - Lênin 151 Chương V. Chủ nghĩa Duy vật biện chứng - cơ sở lý luận của thế giới quan khoa học 224 Chương VI. Phép biện chứng duy vật - Phương pháp luận nhận thức khoa học và thực tiễn 247 Chương VII. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của triết học Mác - Lênin 305 Chương VIII. Lý luận hình thái kinh tế - xã hội với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 327 Chương IX. Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 355 Chương X. Lý luận về Nhà nước và Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 387 Chương XI. Quan điểm của Triết học Mác - Lênin về con người và vấn đề xây dựng con người Việt Nam hiện nay 415
File đính kèm:
- giao_trinh_triet_hoc_dung_cho_hoc_vien_cao_hoc_va_nghien_cuu.pdf