Giáo trình Thanh nhạc, organ, biểu diễn nhạc cụ truyền thống - Hình thức âm nhạc
Âm nhạc - Nghệ thuật của âm thanh.
Là một trong những hình thái của ý thức xã hội, phụ thuộc vào hoạt động và
quy luật chung của tự nhiên.
Âm nhạc thông qua những âm thanh đặc trưng dựa trên hai yếu tố cơ bản là
giai điệu và tiết tấu, nó được tổ chức một cách chặt chẽ tạo thành những hệ thống có
tính lôgíc, để thể hiện một hình tượng rõ ràng, một nội dung nhất định, những tình
cảm sinh động, sâu sắc của con người.
+ Tiết tấu: Chỉ là đơn âm nhưng được thể hiện bằng nhiều cách khác nhau.
+ Tiết nhịp: Là thể hiện những phách mạnh, phách nhẹ.
+ Đặc trưng: Ví dụ như ở thế kỷ XX người ta sử dụng tất cả các âm thanh để
diễn tả tư tưởng tình cảm (như các tiếng động).
Một tác phẩm Âm nhạc có tính nghệ thuật cao bao giờ cũng chứa đựng nội
dung sâu sắc. Để thể hiện những nội dung ấy các nhà sáng tác đã lựa trọn những hình
thức phù hợp, điển hình và không trùng lặp.
2. Phương pháp phân tích tác phẩm.
Muốn phân tích một tác phẩm Âm nhạc dù nhỏ nhất như một bài hát tập thể,
một làn điệu dân ca, đân vũ cho tới những tác phẩm có quy mô lớn như một bản giao
hưởng nhiều chương, một vở nhạc kịch đòi hỏi ta phải có sự hiểu biết rộng toàn
diện.
Phân tích một tác phẩm Âm nhạc trước hết phải nghiên cứu toàn diện, tổng hợp
trong phạm vi rộng của nhiều vấn đề, không chỉ giới hạn về cấu trúc của tác phẩm ấy.
Phát hiện nội dung và ý nghĩa nghệ thuật của tác phẩm là công việc chính của
p
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Thanh nhạc, organ, biểu diễn nhạc cụ truyền thống - Hình thức âm nhạc
UBND TỈNH LÀO CAI TRƯỜNG CAO ĐẲNG LÀO CAI GIÁO TRÌNH NỘI BỘ MÔN HỌC/MÔ ĐUN: HÌNH THỨC ÂM NHẠC NGÀNH: THANH NHẠC, ORGAN, BIỂU DIỄN NHẠC CỤ TRUYỀN THỐNG Lưu hành nội bộ Năm 2019 1 TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN Tài liệu này thuộc loại sách giáo trình nên các nguồn thông tin có thể được phép dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho các mục đích về đào tạo và tham khảo. Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh doanh thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm. 2 LỜI GIỚI THIỆU Hình thức Âm nhạc là một bộ môn quan trọng không thể thiếu trong chương trình Đào tạo của các trường Âm nhạc. Bộ môn này giúp cho sinh viên có một khái niệm tổng quan về việc phân tích một tác phẩm Âm nhạc, từ đó giúp cho sinh viên nắm được những phương pháp cơ bản khi phân tích một tác phẩm Âm nhạc ở bất kỳ hình thức nào, kể cả những đặc điểm, các dạng cấu trúc trong Dân ca người Việt. Ngoài ra sinh viên còn có thể nắm được những đặc điểm, phong cách sáng tác ở các thời kỳ khác nhau, cũng như những nét điển hình đặc trưng của nền Âm nhạc các nước trên thế giới. Hình thức Âm nhạc là môn học bổ trợ rất tốt cho học sinh học các chuyên ngành như; Thanh nhạc, Nhạc cụ... vì khi các em học môn này thì các em sẽ biết được tác phẩm chuyên ngành mình đang học thuộc thể loại gì, viết ở hình thứ gì, từ đó việc vỡ bài của các em sẽ rễ ràng và ghi nhớ nhanh hơn. Đồng thời khi thể hiện tác phẩm cũng sẽ đúng phong cách và thể loại hơn, giúp cho người nghe có cảm nhận xâu sắc về tác phẩm. Tập bài giảng được chia thành hai phần. Phần thứ nhất - Nguyên tắc phân tích tác phẩm Âm nhạc: Cung cấp cho học sinh những kiến thức về “tính chất đặc biệt của nghệ thuật Âm nhạc” như; Giai điệu, hòa âm, tiết tấu, tiết nhịp, nhịp độ, cường độ, chủ đề... và phương pháp phân tích một tác phẩm Âm nhạc. Phần thứ hai - Hình thức Âm nhạc: Trang bị cho học sinh kiến thức về định nghĩa hình thức, cấu trúc và ứng dụng của các hình thức; Đoạn nhạc, đoạn nhạc trong dân ca người Việt, hai đoạn đơn, ba đoạn đơn, ba đoạn phức, Biến tấu, Rondo, Sonata... từ đó các em có thể vẽ được sơ đồ cấu trúc tác phẩm, các vòng hòa âm kết. Đồng thời nói lên được nội dung, ý nghĩa, cũng như tư tưởng tình cảm của các nhà soạn nhạc gửi gắm ở trong những tác phẩm đó. Trong qúa trình biên soạn, tác giả có thể còn có những khiếm khuyết, hoặc chưa cập nhật kịp thời những kiến thức mới, rất mong quý thầy cô, các chuyên gia và người sử dụng góp ý để công trình được hoàn thiện hơn. Lào Cai, năm 2019 Người biên soạn Kiều Đức Thăng 3 MỤC LỤC CHƯƠNG I. NGUYÊN TẮC PHÂN TÍCH TÁC PHẨM ÂM NHẠC ......................... 9 Bài 1. Tính chất đặc biệt của nghệ thuật Âm nhạc, phương pháp phân tích tác phẩm Âm nhạc ....................................................................................................................... 9 1. Âm nhạc - Nghệ thuật của âm thanh. ................................................................... 9 2. Phương pháp phân tích tác phẩm. ......................................................................... 9 Bài 2. Phương tiện diễn tả cơ bản của Âm nhạc ........................................................ 10 1. Giai điệu. ............................................................................................................. 10 2. Hòa âm. ............................................................................................................... 10 3. Tiết tấu và tiết luật. ............................................................................................. 10 a. Tiết tấu. ........................................................................................................... 10 b. Tiết luật. .......................................................................................................... 10 4. Âm sắc, âm vực. ................................................................................................. 11 a. Âm sắc. ........................................................................................................... 11 b. Âm vực. .......................................................................................................... 11 5. Nhịp độ, cường độ. ............................................................................................. 11 a. Nhịp độ. .......................................................................................................... 11 b. Cường độ. ....................................................................................................... 11 6. Cách cấu tạo. ....................................................................................................... 11 Bài 3. Chủ đề Âm nhạc, những nguyên tắc phát triển trong hình thức Âm nhạc ...... 12 1. Chủ đề âm nhạc................................................................................................... 12 a. Chủ đề âm nhạc: ................................ ... u như sau; Cách gọi A B A C A B A Coda Hình thức Rondo Cách gọi Chủ đề Chủ đề Chủ đề Chủ đề Hình thức Sonate chính hai chính hai Mối quan hệ điệu tính giữa AB trong giai đoạn đầu và AB trong giai đoạn cuối, giống như mối quan hệ điệu tính giữa chủ đề một và chủ đề hai ở hình thức Sonate. Sự họa lại chủ đề chính lần cuối trong nhiều trường hợp có thể bỏ, hoặc đôi khi phát triển thành Coda. 2. Các dạng cấu trúc Rondo sonate. Trong thực hành phân tích, tùy vào tác phẩm mà yếu tố đường nét của Rondo hay Sonate được biểu hiện mạnh hơn trong cấu trúc. Nếu đường nét của Rondo thể hiện mạnh hơn thì chủ yếu về mối quan hệ thể loại, tiếp đến là những dấu hiệu như những nét chạy trong nối tiếp và sự tương phản giữa các phần chủ đề và đoạn chen “C”. Những trường hợp dấu hiệu của hình thức Sonate được biểu hiện mạnh hơn. Đoạn chen “C” phần phát triển thay thế chất liệu chủ đề tương phản, phát triển mạnh mẽ. Giai đoạn nối tiếp giữa chủ đề chính, đôi khi là phần trình bày hình thành bằng giai đoạn kết. Như chương kết Giao hưởng No2 của L. V. Beethoven. 3. Cấu trúc đặc biệt. Trong thực hành phân tích, hình thức Rondo – sonate còn có những cấu trúc khá đặc biệt, như mở rộng thêm doạn chen. Sơ đồ A – B – A – C – A – D – A - B1 - A Coda Có những tác phẩm lại bỏ bớt phần họa lại chủ đề lần thứ ba như; A nối tiếp B A C B1 A B Cadenza Coda Chủ đề hai được trình bày ba lần, giữ vai trò quan trọng cho sự phát triển chương kết. Cung có những trường hợp chủ đề của hình thức này không chỉ họa lại có tính chu kỳ mà còn thay đổi như những biến khúc. Phần Coda trong hình thức Rondo – sonate thường có chức năng tổng hợp, có thể sử dụng chất liệu của đoạn chen “C” và một số chi tiết trong sự phát triển. 35 Hình thức Rondo – sonate ít gặp trong Âm nhạc lãng mạn. 36 Bài 15. Hình thức hai đoạn cổ 1. Đĩnh nghĩa, sơ đồ cấu trúc chung. Hình thức hai đoạn cuối thế kỷ XVII và nửa đầu thế kỷ XVIII là hình thức hai đoạn cổ. Phần lớn chúng có sự khác biệt rất lớn so với hình thức hai đoạn thời kỳ sau đó, bởi vì nó không có sự miêu tả riêng. Sự khác biệt cơ bản của hình thức hai đoạn cổ với hình thức hai đoạn thời kỳ sau đó được thể hiện trước hết là ở tỷ lệ giữa hai phần của nó. Phần thứ hai có sự nối tiếp liên tục, độ dài có thể gấp hai hay ba lần so với độ dài của phần thứ nhất. Các phần thường được nhắc lại (đôi khi không nhắc lại). a Phần thứ nhất của hình thức hai đoạn cổ Phần thứ nhất của hình thức hai đoạn đơn cổ thường thuần nhất. Ở một số trường hợp, nó là một đoạn gồm hai câu có giai điệu chủ đề giống nhau. Những giai điệu chủ đề đó thường chịu ảnh hưởng từ âm nhạc của các vũ điệu, mà ở đó ta dễ dàng cảm nhận được sự ảnh hưởng này nhất là ở khía cạnh tiết tấu (ví dụ điệu Gavotte trong các Suite của Bach). Trong các vũ điệu này ta cũng có thể gặp các đoạn nhạc với cấu trúc ba câu. Ở các tác phẩm ấy, giai điệu chủ đề chịu ảnh hưởng từ âm nhạc phức điệu, những giai điệu chủ đề đơn giản với tính định kỳ của cấu trúc ít phổ biến. Giai điệu chủ đề Nhìn chung, giai điệu chủ đề phần thứ nhất của hình thức hai đoạn cổ thường được mở rộng, chúng có thể không phân chia ra các câu nhạc, kết cũng không rõ ràng. Đoạn nhạc thường được bắt đầu bằng những nhân tố chủ đề ngắn, sử dụng các thủ pháp mô-tiến tạo nên sự luân chuyển liên tục, giống như sự luân chuyển chủ đề trong âm nhạc phức điệu. Hoà âm Hòa âm của phần thứ nhất luôn luôn được viết ở giọng điệu chính và kết thúc đầy đủ ở giọng điệu phụ. Nếu giọng điệu chính là trưởng, thì chúng sẽ được kết thúc ở giọng điệu của bậc V trưởng. Nếu giọng điệu chính là thứ, thì chúng sẽ được kết ở giọng trưởng song song hoặc ở giọng điệu của bậc V thứ (đôi khi kết ở giọng điệu cùng tên). Ngoài ra phần thứ nhất còn có thể được kết nửa ở giọng điệu chính của tác phẩm. Cấu trúc Như đã nêu ở trên, phần thứ nhất có cấu trúc một đoạn nhạc với ảnh hưởng của nhạc múa, độ dài của chúng thường là 8 hay 16 nhịp, thậm chí là 12 nhịp với các câu nhạc có độ dài bằng nhau. Nếu là đoạn nhạc phát triển thì cấu trúc của nó sẽ phức tạp hơn, độ dài cũng lớn hơn. Đôi khi phần thứ nhất này có sự phát triển rất lớn (ví dụ như đoạn đầu 37 “Allemande” trong Suite A-dur của Bach là 32 nhịp). Với sự phát triển, mở rộng thì độ dài của nó gần với độ dài của phần hai. 2. Phần thứ hai của hình thức hai đoạn cổ Giai điệu chủ đề Trong mối tương quan về giai điệu chủ đề, thì phần thứ hai của hình thứ hai đoạn cổ không có gì mới. Giai điệu chủ đề của phần này hoàn toàn dựa trên cơ sở của giai điệu chủ đề của phần thứ nhất. Các nhân tố giai điệu chủ đề ấy được biến đổi bằng cách chuyển sang một âm khu mới, một cao độ mới hoặc chuyển vào một bè khác v.v. Thứ tự dẫn dắt, biến đổi các nhân tố âm nhạc của phần thứ nhất trong một mức độ nào đó cũng gợi nhớ lại âm nhạc của phần trước, nhưng đây hoàn toàn không phải là tái hiện. Tái hiện là điển hình đối với hình thức hai đoạn của các nhạc sỹ thời kỳ sau, còn trong thời kỳ này tái hiện hoàn toàn không có. Hoà âm Hoà âm của phần thứ hai có một số đặc điểm sau đây: Thứ nhất: giọng điệu của phần thứ hai thường được bắt đầu cùng giọng điệu hoặc hợp âm kết thúc phần thứ nhất. Tất nhiên, khi kết thúc phần thứ hai sẽ trở về giọng điệu chính để kết thúc hình thức. Sự kết hợp về hoà âm của hình thức hai đoạn cổ có thể được biểu thị như sau: Phần thứ nhất Phần thứ hai Tác phẩm giọng trưởng: I - V V - I Tác phẩm giọng thứ: I - III III - I hoặc là: I - V V - I Thứ hai: sau bước khởi đầu như trên, hoà âm sẽ được chuyển về hướng hạ át bằng các bước chuyển điệu về giọng điệu của các bậc IV, bậc II hoặc bậc VI. Việc chuyển điệu về các giọng điệu mới này thường được tiến hành ngay sau khi nhắc lại giọng điệu hoặc hợp âm của phần thứ nhất ở đầu phần thứ hai, nhưng nó cũng có thể diễn ra muộn hơn hoặc thậm chí không có. Như vậy, đặc tính chung về hoà âm đã được làm rõ theo thứ tự các bậc T – D – S – T và công thức này đã hoàn toàn được xác định từ đầu thế kỷ XVIII. Nhìn chung, phần thứ hai có sự linh hoạt hơn nhiều so với phần thứ nhất thông qua những biến đổi của hòa âm. Giọng điệu chính của hình thức được khôi phục lại ở cuối phần hai, đôi khi việc khôi phục này lại tiến hành rất muộn. Cấu trúc Phần hai của hình thức hai đoạn cổ tạo nên sự chú ý trước hết ở độ dài của mình. Như đã trình bày ở trên, rất ít khi phần thứ hai có độ dài bằng với độ dài của 38 phần thứ nhất, mà nó thường dài gấp hai hoặc gấp ba độ dài của phần thứ nhất. Tỷ lệ này gắn liền với quá trình biến đổi, chuyển điệu của hoà âm ở phần thứ hai. Phần thứ hai lại được chia ra thành những thành phần âm nhạc, với sự kết thúc riêng của nó và mỗi một thành phần ấy có độ dài tương đương với phần thứ nhất của hình thức. Và như vậy, có thể thấy rằng câu nhạc thứ hai của phần hai, trong một mức độ nào đó, có giá trị như một đoạn nhạc và phần thứ hai của hình thức như là đoạn nhạc phức. 3. Ứng dụng hình thức hai đoạn cổ Hình thức hai đoạn cổ được áp dụng rộng rãi trong các tác phẩm có quy mô không lớn vào cuối thế kỷ XVII và nửa đầu thế kỷ XVIII. Trong các phần của Suite như các Vũ điệu , các Prélude cũng như rất nhiều Invention của Bach đã được viết ở hình thức này. Bài 16. Hình thức Sonate cổ. 1. Đặc điểm chung Qua việc tìm hiểu và xem xét hình thức hai đoạn cổ ở phần trên, ta có thể nhận thấy hình thức sonate cổ có mối liên quan với hình thức hai đoạn cổ: chúng đều có chung một đặc điểm là việc chuyển từ giọng điệu phụ khi kết thúc đoạn thứ nhất về giọng điệu chính ở cuối đoạn thứ hai nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc kết thúc toàn bộ hình thức. Việc tiến hành hòa âm như thế có thể thấy rất rõ trong “Allemande” trong tổ khúc nước Pháp (giọng G-dur) của Bach. Ở đó, 6 nhịp bổ sung ở cuối đoạn thứ nhất được chuyển đến cuối đoạn thứ hai và được viết ở giọng điệu chính. Sơ đồ cấu trúc này cũng tương tự như cấu trúc trong Sonate № 11 của D. Scarlatti: Phần thứ nhất Phần thứ hai 4 5 5 4 5 5 a b a b1 Giọng điệu: c c – g g V c V c c Như vậy, ở phần thứ nhất, 5 nhịp giữa như là phần nối chủ đề chính (c-moll) sang chủ đề phụ (g-moll); ở phần thứ hai, 5 nhịp giữa cũng chức năng như phần nối chủ đề chính sang chủ đề phụ - cùng giọng điệu. 39 Để cho từng thành phần trong hình thức có được quy mô và ý nghĩa lớn hơn (ý nghĩa của chủ đề chính, chủ đề phụ), các thành phần này có xu hướng được mở rộng, kéo dài. Đặc điểm này ta có thể gặp trong rất nhiều trong các sonate của Scarlatti. Sơ đồ phổ biến: Phần trình bày Chủ đề I Nối Chủ đề II Kết luận a b Giọng điệu chính Chuyển điệu Giọng điệu phụ Bổ sung giọng điệu phụ Phần phát triển - Phần tái hiện Chủ đề I (Nối) Chủ đề II Kết luận a1 b1 Giọng điệu phụ Bước chuyển về giọng điệu chính Giọng điệu chính Bổ sung giọng điệu chính (Từng phần riêng thường được lặp lại) Sơ đồ trên cho thấy hình thức hai đoạn cổ và hình thức sonate cổ có những điểm giống nhau: cả hai hình thức đều có hai phần. Trong phần thứ nhất, hoà âm đi từ ổn định đến không ổn định, phần thứ hai thì ngược lại, từ không ổn định về ổn định (hòa âm của giọng điệu chính). Nhờ vậy, chúng có được cấu trúc đối xứng với sự lặp lại của riêng từng phần. Phần thứ nhất Phần thứ hai T - D D - T Như vậy, sự khác biệt giữa hình thức hai đoạn cổ với hình thức sonate cổ phụ thuộc vào những nhân tố âm nhạc ở cuối các phần cũng như vào số lượng các thành phần tham gia vào hình thức. Nếu việc nhắc lại chỉ là sự chuyển đổi khi kết thúc đoạn nhạc hoặc là sự bổ sung không lớn, thì có thể nói rằng đây là hình thức hai đoạn có một số dấu hiệu của hình thức Sonate. Nếu việc nhắc lại ấy diễn ra với quy mô lớn hơn, tính chất âm nhạc của mỗi thành phần trong phần thứ nhất được thể hiện rõ trong phần thứ hai của hình thức khi ta có thể xác định đây là hình thức Sonate cổ. Sự tương phản về giai điệu chủ đề không là điều bắt buộc của sonate thời kỳ này. 2. Phần thứ nhất – Trình bày Phần trình bày của hình thức sonate cổ, trong cốt lõi có chứa đựng những nhân tố của hình thức sonate hoàn thiện sau này, tuy nhiên không phải lúc nào cũng có sự tương phản rõ ràng và phân chia rành mạch thành phần này với thành phần khác. 40 a. Chủ đề I (chủ đề chính) Chủ đề I rất linh hoạt, thường được xây dựng với quy mô không lớn khoảng từ 8 đến 16 ô nhịp, được viết ở một giọng điệu, kết đầy đủ ở giọng điệu chính hoặc kết nửa trên bậc V (có trường hợp bè chính kết thúc chuyển điệu về bậc V). Âm nhạc chủ đề I thường có ảnh hưởng “xâm nhập” vào cả những thành phần sau nó. Nhìn chung chủ đề I đơn giản, nó thường chứa đựng những yếu tố biến đổi và mô phỏng theo những nhóm sắc thái ngắn. b. Phần nối Giai điệu chủ đề của nối rất gần với chủ đề I, ít khi âm nhạc phần nối không bắt nguồn từ chủ đề I. Nối có nhiệm vụ chuyển đổi, dẫn hoà âm từ giọng điệu chính đến giọng điệu phụ. Có những trường hợp nối được phát triển và mở rộng. Sơ đồ phần trình bày: Chủ đề I Nối Chủ đề II Kết luận 14 40 30 6 g As - Es - B c B - F - C - d d d Từ sơ đồ này, có thể dễ dàng nhận thấy thủ pháp mô tiến đã được tác giả sử dụng để xây dựng phần nối. Ngoài ra, nối còn được áp dụng sự tương phản bằng cách sử dụng giọng điệu cùng tên, ví dụ D. Scarlatti, Sonate № 13: Chủ đề I Nối Chủ đề II Kết luận G g - d d - D c. Chủ đề II (chủ đề phụ) Theo nguyên tắc, chủ đề II tương phản với chủ đề I rất ít và thậm chí còn có thể được hình thành trên những nhân tố của chủ đề I. Chủ đề II thường ổn định về hoà âm, được viết ở một giọng điệu. Có thể bên trong sự luân chuyển của mình, chủ đề II tạo nên sự tương phản bằng cách sử dụng giọng điệu cùng tên giống như trong bè nối. Chẳng hạn như trong Sonate № 2 của Scarlatti. Chủ đề I Nối Chủ đề II G G - D D - d - D Đôi khi có thể gặp sự tương phản chủ đề ở giọng điệu phụ như là những dự báo cơ sở của hình thức sonate sau đó. Vd. 41 Sự xây dựng chủ đề phụ nhìn chung đơn giản và thuần nhất, gần như là sự nhắc lại một cách tuần hoàn những nhân tố âm nhạc ngắn. d. Phần kết Theo nguyên tắc, phần kết thường ngắn, đó là một loạt những bổ sung cho giọng điệu của chủ đề II. Phần kết luận thường kết hợp với sự kết thúc của chủ đề II, mặc dù thực chất nó là một phần riêng. 3. Phần thứ hai – Phát triển và tái hiện Sự khác biệt của hình thức sonate cổ với hình thức sonate đầy đủ (có ba phần cơ bản là trình bày, phát triển và tái hiện) với hình thức sonate không có phần phát triển là chủ đề chính của hình thức sonate cổ không được nhắc lại. Phần thứ hai của hình thức sonate cổ được bắt đầu bằng việc dẫn dắt có biến đổi những nhân tố của chủ đề chính và những nhân tố này được viết ở giọng điệu phụ, là giọng điệu kết thúc phần trình bày. Đôi khi, người ta còn đưa vào đó cả những nhân tố của phần nối. Giọng điệu phần phát triển trong hình thức sonate cổ khác nhau tuỳ từng trường hợp, nhưng thường được bắt đầu trùng với giọng điệu kết của phần trình bày (giống như trong hình thức hai đoạn). Thứ tự và số lượng các giọng điệu phụ trong phần này cũng không giống nhau, đôi khi nó được xây dựng hoàn toàn chỉ trên một giọng điệu của bậc V. Có trường hợp giọng điệu phần phát triển được chuyển về hướng hạ át giống như trong hình thức hai đoạn (Scarlatti, Sonate № 2) rồi sau đó mới chuyển điệu về giọng điệu chính. Trong phần tái hiện của hình thức sonate cổ, chỉ có chủ đề phụ và phần kết luận được nhắc lại. Những thành phần âm nhạc này về hòa âm đã có sự thay đổi, chúng được đưa vào giọng điệu chính. Như vậy, nhìn từ tổng thể phần thứ hai có sự hợp nhất các đặc điểm của phần phát triển (biến đổi các nhân tố chủ đề chính, một phần nào đó phần nối) và tái hiện (chủ đề phụ và phần kết luận). Vì vậy người ta gọi phần thứ hai của hình thức sonate cổ là phần phát triển - tái hiện. 42 4. Sự xuất hiện của phần tái hiện đầy đủ Trong việc chiếm ưu thế gần như tuyệt đối của hình thức hai đoạn và hình thức sonate cổ, các nhạc sỹ luôn tìm tòi, xác lập nên những cấu trúc riêng khác mà ở đó phần trình bày luôn thuần nhất, phần phát triển và phần tái hiện có vị trí riêng. Phần thứ hai là sự phát triển, biến đổi các nhân tố của chủ đề chính. Khi các nhân tố của chủ đề chính đã được tận dụng hết để biến đổi sẽ xuất hiện phần tái hiện. Ở phần tái hiện, chủ đề I, rồi lần lượt đến nối, chủ đề II sẽ được nhắc lại ở cùng giọng điệu của chủ đề I. Như vậy, hình thức sonate này đã có được cấu trúc với đầy đủ ba phần (Scarlatti, Sonate № 30). Cấu trúc này sau đó đã trở thành cấu trúc hoàn chỉnh của hình thức sonate. 5. Ứng dụng hình thức Sonate cổ Hình thức sonate cổ được viết rất nhiều trong các sáng tác của Scarlatti cũng như rất nhiều các nhạc sỹ cùng thời khác. Ngoài ra, hình thức sonate cổ còn được viết trong các hình thức khác, chẳng hạn là một phần của Suite. 43
File đính kèm:
- giao_trinh_thanh_nhac_organ_bieu_dien_nhac_cu_truyen_thong_h.pdf