Giáo trình Quản trị doanh nghiệp vừa và nhỏ - Lý thuyết quản trị kinh doanh

Quyền chiếm hữu có tính chất tĩnh, nó là quyền về danh nghĩa mà không

phải là sự thực hiện cụ thể, về thực chất. Người sở hữu có thể có quyền chiếm

hữu nhưng không thực hiện nó. Một số người có quyền sở hữu từ lâu đã giao

quyền chiếm hữu, quyền sử dụng cho những người khác và chỉ lấy quyền thu

nhập về sở hữu.

Riêng quyền chiếm hữu chưa phải là sở hữu theo ý nghĩa xã hội – kinh tế

của từ này. Cũng có trường hợp quyền chiếm hữu biến thành một quyền hình

thức mà người sở hữu không sử dụng và cũng không biết sử dụng hay không

muốn sử dụng nó. Đó là trường hợp “sở hữu toàn dân” ở các nước xã hội chủ

nghĩa dưới cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp. Khi đó,

người chiếm hữu về tài sản là người dân, nhưng không sử dụng và định đoạt,

còn người sử dụng và định đoạt (là các cơ quan nhà nước) lại không có quyền

chiếm hữu.

- Quyền sử dụng là quyền khai thác lợi ích của tài sản trong phạm vi luật

định nhằm thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt hoặc sản xuất. Chủ sở hữu có thể trực

tiếp sử dụng quyền sử dụng tài sản nhưng cũng có thể chuyển quyền sử dụng tài

sản cho người khác dưới dạng cho thuê, mượn tài sản

- Quyền định đoạt là quyền quyết định tài sản về mặt pháp lý trên thực tế

thông qua việc sửa đổi tính pháp lý của quyền chiếm hữu và quyền sử dụng, như

đem bán, đánh đổi, cho thuê hoặc cho mượn Quyền định đoạt được thực hiện

thông qua các hợp đồng mua bán, cho thuê, cho mượn

Khi định đoạt tài sản, chủ sở hữu đã thực sự tham gia vào một quan hệ

pháp luật nhất định đối với người khác. Ví dụ như quan hệ hợp đồng mua bán,

cho thuê

Bằng việc thực hiện quyền định đoạt, chủ sở hữu có thể tạm thời chuyển

dịch quyền chiếm hữu tài sản cho người khác trong một thời gian nhất định hoặc

chuyển dịch cả quyền chiếm hữu và quyền sử dụng tài sản hoặc chuyển dịch cả

ba quyền: chiếm hữu, sử dụng, định đoạt.

Quyền sở hữu được phân chia thành hai loại khác nhau, đó là quyền sở

hữu riêng và quyền sở hữu chung.

Quyền sở hữu chung là quyền sở hữu của từ hai người trở lên. Quyền sở

hữu chung có đặc điểm: thứ nhất, quyền sở hữu chung bao giờ cũng là sở hữu

8của từ hai người trở lên; thứ hai, quyền sở hữu chung bao giờ cũng là quyền sở

hữu đối với một khách thể thống nhất.

Giáo trình Quản trị doanh nghiệp vừa và nhỏ - Lý thuyết quản trị kinh doanh trang 1

Trang 1

Giáo trình Quản trị doanh nghiệp vừa và nhỏ - Lý thuyết quản trị kinh doanh trang 2

Trang 2

Giáo trình Quản trị doanh nghiệp vừa và nhỏ - Lý thuyết quản trị kinh doanh trang 3

Trang 3

Giáo trình Quản trị doanh nghiệp vừa và nhỏ - Lý thuyết quản trị kinh doanh trang 4

Trang 4

Giáo trình Quản trị doanh nghiệp vừa và nhỏ - Lý thuyết quản trị kinh doanh trang 5

Trang 5

Giáo trình Quản trị doanh nghiệp vừa và nhỏ - Lý thuyết quản trị kinh doanh trang 6

Trang 6

Giáo trình Quản trị doanh nghiệp vừa và nhỏ - Lý thuyết quản trị kinh doanh trang 7

Trang 7

Giáo trình Quản trị doanh nghiệp vừa và nhỏ - Lý thuyết quản trị kinh doanh trang 8

Trang 8

Giáo trình Quản trị doanh nghiệp vừa và nhỏ - Lý thuyết quản trị kinh doanh trang 9

Trang 9

Giáo trình Quản trị doanh nghiệp vừa và nhỏ - Lý thuyết quản trị kinh doanh trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 90 trang baonam 8120
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Quản trị doanh nghiệp vừa và nhỏ - Lý thuyết quản trị kinh doanh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Quản trị doanh nghiệp vừa và nhỏ - Lý thuyết quản trị kinh doanh

Giáo trình Quản trị doanh nghiệp vừa và nhỏ - Lý thuyết quản trị kinh doanh
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH LÀO CAI
TRƯỜNG CAO ĐẲNG LÀO CAI
GIÁO TRÌNH 
LÝ THUYẾT QUẢN TRỊ KINH DOANH
Trình độ: Cao đẳng
Nghề: Quản trị doanh nghiệp vừa và nhỏ
Mã môn học: MH 31
Năm 2017
Chương 1
1
TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ KINH TẾ
1.1. TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ
1.1.1. Khái niệm kinh tế 
Kinh tế bao hàm nhiều nội dung nên cũng có rất nhiều cách hiểu khác
nhau về kinh tế:
- Kinh tế là tài sản quý hiếm. 
- Kinh tế là phúc lợi.
- Kinh tế là tiết kiệm và hiệu quả.
- Kinh tế đồng nghĩa với điều kiện sống, việc làm, thất nghiệp, mức độ tự
do của con người.
- Kinh tế là hoạt động sinh sống.
Từ những cách hiểu nêu trên, có thể đưa ra kết luận như sau:
Kinh tế là tổng thể (hoặc một bộ phận) các yếu tố sản xuất, các điều kiện
vật chất của đời sống con người và các mối quan hệ vật chất giữa con người với
con người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội ở một giai đoạn lịch
sử nhất định mà mấu chốt là vấn đề sở hữu và vấn đề lợi ích.
Sơ đồ 1: Cấu trúc kinh tế
1.1.1.1. Các yếu tố sản xuất
Đó là những đầu vào trực tiếp hoặc gián tiếp mà sản xuất xã hội cần được
đáp ứng ở mỗi giai đoạn của sự phát triển xã hội, nó có thể được gộp thành bảy
nhóm lớn:
- Các nguồn tài nguyên, nhiên liệu; 
- Sức lao động của con người; 
- Công nghệ, trang thiết bị; 
- Các khoản vốn bằng tiền;
- Thông tin phục vụ sản xuất; 
- Thiết chế quản lý vĩ mô xã hội;
2
Kinh tế
Các yếu tố sản xuất Các điều kiện vật chất của 
đời sống con người
Các quan hệ vật chất giữa con 
người với con người trong sản 
xuất và tái sản xuất xã hội
- Kết cấu hạ tầng xã hội.
1.1.1.2. Các điều kiện vật chất của đời sống con người
Là tổng thể các yếu tố mà con người cần được đáp ứng để tồn tại, phát
triển, phục vụ sản xuất xã hội và tái sinh sản giống nòi, bao gồm:
- Công ăn việc làm và điều kiện làm việc
- Tiền của;
- Đất đai, nhà ở;
- Kỹ năng lao động;
- An ninh, an toàn xã;
- Phương tiện đi lại, giao;
- Phương tiện nuôi dưỡng gia đình.
Các yếu tố sản xuất và các điều kiện vật chất của đời sống con người phụ
thuộc rất nhiều vào vấn đề sở hữu của con người trong xã hội; vì thế sở hữu là
một trong những nội dung cốt lõi của kinh tế.
1.1.1.3. Quan hệ vật chất giữa con người với con người trong quá trình sản
xuất xã hội
Các mối quan hệ vật chất giữa con người với nhau được diễn ra trên sáu
lĩnh vực:
- Trong sản xuất; 
- Trong lưu thông;
- Trong phân phối, trao đổi;
- Trong tiêu dùng và tích lũy;
- Trong đối ngoại;
- Trong môi trường sống. 
1.1.2. Vai trò của kinh tế
1.1.2.1. Kinh tế là nền tảng, là điều kiện của sự tồn tại và phát triển xã hội
Con người muốn sống thì việc đầu tiên là phải ăn, uống để duy trì sự sống
của mình, tiếp đó phải thỏa mãn các nhu cầu tiêu dùng khác (mặc, ở, bảo vệ an
toàn, văn hóa, v.v.). Chính nhờ hoạt động sản xuất của con người mà tất cả các
nhu cầu nói trên của con người đều được đáp ứng. 
Để sản xuất, con người cần phải có đầy đủ các yếu tố cần thiết phục vụ
những hoạt động này, đó chính là kinh tế. Kinh tế tồn tại với vai trò là các đầu
vào của quá trình sản xuất xã hội và sau quá trình sản xuất, kinh tế lại là đầu ra
của hoạt động sản xuất.
3
Sơ đồ 2: Kinh tế là nền tảng của sự tồn tại và phát triển xã hội
1.1.2.2. Kinh tế là mục tiêu của sự phát triển
Kinh tế tạo tiền đề cho các mục tiêu phát triển của con người, của xã hội,
trong đó có một vấn đề đặc biệt mà kinh tế đưa lại đó là quyền lực của hệ thống.
Nhờ kinh tế, người ta có thể phát triển nhanh chóng sức mạnh của bạo lực chiến
tranh ở một quốc gia hoặc sức mạnh của một tổ chức mang tính xã hội đen.
Cũng chính nhờ kinh tế mà con người có điều kiện để nhanh chóng phát triển tư
duy, trí tuệ, đặc biệt tạo ra sức mạnh to lớn về thông tin.
Sơ đồ 3: Kinh tế là mục tiêu của sự phát triển (trang sau)
4
Con người
Kinh tế
Cần phát triển
Sản xuấtKinh tế
Sức mạnh 
bạo lực
Kinh tế Cơ sở hạ tầng
Sức mạnh 
trí tuệ
Thông tin
1.1.2.3. Quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị
Xét trên phạm vi một quốc gia và giữa các quốc gia, quan hệ giữa kinh tế
và chính trị thể hiện tập trung nhất ở mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng xã hội. Bên nào khống chế kinh tế thì bên đó có thể chi phối vấn đề
về chính trị. Nhưng ngược lại, chính trị cũng có tác động trở lại với kinh tế, có
thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của kinh tế.
1.1.2.4. Kinh tế có mối quan hệ biện chứng với văn hóa trong sự phát triển
Văn hóa là một phức thể - tổng thể các đặc trưng - diện mạo về tinh thần,
vật chất, tri thức và tình cảm khắc họa nên bản sắc của một gia đình, làng
xóm, vùng miền, quốc gia, xã hội bao gồm văn chương, nghệ thuật, lối sống,
những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những truyền thống,
tín ngưỡng Nhờ có văn hóa, kinh tế mới có cơ sở để phát triển và ngược lại,
kinh tế phát triển sẽ giúp cho văn hóa phát triển hoặc phản phát triển.
Sơ đồ 4: Quan hệ giữa kinh tế và văn hóa trong phát triển
1.1.2.5. Kinh tế là động lực của sự phát triển
Kinh tế là động lực của sự phá ... thành sản xuất phổ
dụng và sản xuất tiêu chuẩn hoá. Để có thể đứng vững trên thị trường, doanh
nghiệp phải tiến đến mức sản xuất tiêu chuẩn hoá, các sản phẩm phải được tiêu
chuẩn hoá thông qua các giải pháp đưa công nghệ tiên tiến, hiện đại, dẫn đầu và
các giải pháp tổ chức bán hợp lý vào sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đạt mức
thông lệ của thị trường (bao bì, tem nhãn, màu sắc, hình dáng, công nghệ, độ
bền, chất lượng, giá cả v.v.).
d. Cung ứng (vật liệu, nguồn nhiên liệu) kịp thời nhanh chóng cho sản
xuất và cho việc tiêu thụ sản phẩm, v.v..
Việc cung ứng phải đảm bảo đáp ứng nhu cầu cho sản xuất, kinh doanh
đúng về số lượng và chất lượng, đúng về kỳ hạn, với chi phí nhỏ nhất. Để làm
tốt việc cung ứng này, các bộ phận cung ứng phải bảo đảm làm tốt hai chức
năng cụ thể: mua (các đầu vào cần thiết) và quản lý dự trữ (các đầu vào đã mua
đó). Cách tiến hành cụ thể là phải bám sát nhu càu sản xuất và kinh doanh, có
tính đến các biến động của thị trường mua bán các loại đầu vào đó và vận dụng
tổng hợp hai công cụ quan trọng: lý thuyết tồn kho dự trữ và phương pháp
PERT (hoặc kiểu cung ứng đúng kỳ hạn JUST). 
4.4.2.2. Chức năng quản trị nhân lực
Quản trị nhân lực là việc bố trí sử dụng hợp lý người lao động cùng với
những máy móc thiết bị, phương pháp công nghệ sản xuất và nguồn nguyên,
nhiên liệu, vật liệu một cách có hiệu quả nhất trong doanh nghiệp. Quản trị nhân
lực bao gồm hai việc: 
- Quản lý con người: đó là công việc quản lý hàng ngày đối với tập thể
những người lao động, là công việc xây dựng những “kíp” được điều động, điều
phối, “phản ứng”, tạo cho doanh nghiệp có khả năng phát hiện những sai sót về
mặt kinh tế, kỹ thuật 
- Tối ưu hoá nhân lực: đó là công việc sắp đặt những người có trách
nhiệm, những kỹ thuật và những công cụ để nắm được những thông số khác
nhau trong chính sách nhân sự: việc làm, đào tạo, tiền lương, quan hệ xã hội,
v.v..
83
a. Quản lý con người
Quản lý, suy đến cùng là quản lý con người, tạo đủ động lực cho từng
người và kết hợp cùng chiều động lực của tất cả mọi người. 
Để tạo đủ động lực cho con người, phải hình thành được những yếu tố cơ
bản chi phối đến động cơ làm việc của họ.
Trước tiên, phải hợp lý hoá chỗ làm việc tạo ra năng suất lao động chung
của cả doanh nghiệp (như các nguyên lý tổ chức chuyên môn hoá một cách khoa
học của F.W. Taylor, H.L Gantt; các nguyên lý chia thao tác thành các modun
lao động cơ bản của F. Gilbreth và C. Gilbreth, v.v.).
Thứ hai, đề cao tinh thần trách nhiệm và ý thức tự quản của mỗi cá nhân,
mỗi nhóm công tác, phải giáo dục cho mọi người biết sản phẩm của doanh
nghiệp gắn bó tất cả mọi người, nếu nó không đứng vững được trên thị trường
thì mọi người trong doanh nghiệp đều khốn đốn.
Thứ ba, mọi người đều phải gắn bó với kết quả cuối cùng của phần công
việc mà mình nhận, người lao động hiểu rõ sẽ được nhận thù lao và phần khen
thưởng xứng đáng với lao động và sự nỗ lực mà họ đã bỏ ra.
Thứ tư, phải có sự phân công rõ ràng, rành mạch để mỗi người đều biết
phải làm việc dưới quyền của ai, ai sẽ là người kiểm tra và thừa nhận thành quả
lao động của mình.
Thứ năm, phải tạo cho mõi người một phạm vi, một vùng trời nhỏ để
trong đó họ lựa chọn lấy nhịp lao động của họ, người xấu phải bị loại bỏ khỏi
guồng máy. 
b. Tối ưu hoá nguồn nhân lực 
Đó là việc hình thành các quy chế, quy tắc làm việc, khen thưởng, kỷ luật;
là việc tạo ra các ê kíp mạnh; là việc cải thiện các điều kiện lao động, giảm thiểu
các rủi ro và tai nạn cho con người, tạo môi trường văn hoá trong doanh nghiệp
để gắn bó mọi người một cách tốt nhất bới các công cụ khá nhất (trong khả năng
cho phép), đồng thời thu hút được mọi nguồn thông tin, kiến thức, kinh nghiệm
của mọi nơi khác, phải có đội ngũ các chuyên viên quản trị nhân lực giỏi, phải
đẩy mạnh việc đào tạo và nâng cao tay nghề cho người lao động, phải làm cho
mọi người đều thường trực một ý nghĩ là “nếu không cố gắng thì sẽ bị đào thải”.
Đây là những kiến thức không thể thiếu mà ta cần tìm đọc ở các giáo trình
chuyên ngành dân số lao động và quản trị nhân lực. 
4.4.2.3. Chức năng quản lý tài chính
Tổ chức sản xuất tốt, quản trị nhân lực đúng chưa phải đã đủ, mà các
doanh nghiệp còn phải đối phó với các biến động vô cùng to lớn của thị trường
84
để đứng vững và phát triển. Muốn làm được điều này, doanh nghiệp phải làm tốt
chức năng quản lý tài chính. Quản ký tài chính sẽ giúp cho chủ doanh nghiệp
biết mình đang có bao nhiêu tiền, đã tiêu các khoản tiền đó như thế nào, có thể
huy động được các nguồn vốn từ đâu, v.v.. Nói một cách khác, quản ký tài chính
trong doanh nghiệp là việc quản lý các mối quan hệ tài chính phát sinh trong quá
trình hoạt động, bao gồm các mối quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp (thu – chi,
lỗ - lãi, v.v.) và các mối quan hệ tài chính của doanh nghiệp với thị trường tài
chính bên ngoài (ổn định, tăng trưởng, phát triển, suy thoái hay phá sản, lãi suất,
giá cả thị trường trong nước và ngoài nước, cạnh tranh, biến đổi công nghệ,
v.v.). 
Để thực hiện tốt chức năng trên, chủ doanh nghiệp phải biết phân tích
chuẩn xác các hoạt động tài chính thông qua việc nắm bắt các hoạt động kế toán
tài chính doanh nghiệp và thị trường chứng khoán có liên quan. 
4.4.2.4. Chức năng thương mại
Chức năng thương mại là chức năng hoà nhập vào thị trường của doanh
nghiệp để tồn tại và phát triển, mà mục tiêu chủ yếu là doanh nghiệp phải tìm được
một phân đoạn thị trường tương ứng với tiềm năng, vị trí của mình trong quá trình
cạnh tranh của doanh nghiệp. 
 Nội dung các bước thực hiện chức năng thương mại 
a. Nhận diện thị trường
Thị trường về một sản phẩm nào đó thông thường có hai cách hiểu: 
- Cách hiểu thứ nhất, theo nghĩa rộng, thị trường là nơi chuyển giao quyền
sở hữu sản phẩm và tiền tệ nhằm thoả mãn nhu cầu và mong muốn của hai bên:
cầu (demand) và cung (supply), từ mối tương quan đó sẽ hình thành nên số
lượng và giá cả tương ứng của sản phẩm theo thông lệ hiện hành. 
Theo cách hiểu này, thị trường là nơi kiểm định nhu cầu của cả hai phía
cung và cầu. 
- Cách hiểu thứ hai, theo nghĩa hẹp, thị trường là một nhóm khách hàng
có nhu cầu và sức mua, chưa được đáp ứng và mong muốn được thoả mãn. 
Theo cách hiểu này, thị trường là đối tượng quan tâm chủ yếu của các
doanh nghiệp (bên cung - người bán) mà các doanh nghiệp nhằm tới để giải
quyết mục tiêu kinh doanh của mình. 
Để nhận dạng thị trường, doanh nghiệp phải biết được sản phẩm mà mình
làm ra sẽ có ai tham gia cung ứng và nhóm khách hàng nào sẽ tiêu thụ nó; tiềm
năng, thủ đoạn của những người bán; khả năng, thị hiếu đòi hỏi của người mua. 
85
Để làm tốt việc nhận dạng thị trường, các doanh nghiệp cần có các chuyên
gia marketinh đi nghiên cứu, nắm bắt thị trường (để tìm ra cái mà thị trường cần
và doanh nghiệp có khả năng đáp ứng, phát hiện đầy đủ các đối thủ cạnh tranh
cùng tiềm năng và thủ đoạn của họ). 
Việc nhận dạng thị trường thường căn cứ vào 5 luồng thông tin nhận biết
về thị trường: 1) Số lượng người bán (các doanh nghiệp sản xuất loại sản phẩm
được đem ra xem xét); 2) Khả năng chi phối giá, 3) Chủng loại sản phẩm, 4)
Khó khăn thâm nhập thị trường; 5) Các giải pháp tuyên truyền quảng cáo và 6)
Khả năng công nghệ và vốn. 
Từ các thông tin kể trên, thị trường (về loại sản phẩm quan sát) được chia
thành các loại khác nhau và doanh nghiệp phải có các đối sách quản trị khác
nhau cho thích hợp với từng loại: 1) Cạnh tranh hoàn hảo; 2) Độc quyền; 3)
Canh tranh mang tính độc quyền và 4) Độc quyền nhóm. 
- Số lượng người bán: Đây là một yếu tố quan trọng để nhận dạng thị
trường. Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh độc quyền có rất
nhiều người bán. Mỗi người bán chỉ sản xuất một phần rất nhỏ lượng sản phẩm
trên thị trường. Trong thị trường độc quyền nhóm chỉ có vài người bán và kiểm
soát hầu hết lượng cung trên thị trường. 
- Khả năng chi phối giá: Một doanh nghiệp sản xuất trong điều kiện cạnh
tranh hoàn hảo, không có khả năng độc quyền sẽ khó có khả năng kiểm soát giá
đáng kể. Một doanh nghiệp sản xuất trong điều kiện cạnh tranh độc quyền và
độc quyền nhóm sẽ chỉ có một mức độ kiểm soát nào đó đối với giá cả của sản
phẩm. 
- Chủng loại sản phẩm: Các doanh nghiệp trong thị trường cạnh tranh 
hoàn hảo sản xuất ra những sản phẩm giống nhau; trong thị trường cạnh tranh 
độc quyền, các sản phẩm có sự khác nhau. 
Bảng 1: Các loại thị trường
Dấu hiệu
loại thị
trường
Số
lượng
người
bán
Khả
năng chi
phối giá
Chủng
loại sản
phẩm
Khó
khăn
thâm
nhập thị
trường
Tuyên
truyền
và
quảng
cáo
Công
nghệ và
vốn
Cạnh
tranh
hoàn hảo
Vô số,
rất nhiều
Không
có
Rất thấp Rất thấp Không
có
Như nhau
Độc Một Rất đáng Duy nhất Rất cao Quảng Đặc thù
86
quyền kể cáo lớn
Cạnh
tranh độc
quyền
Rất
nhiều
Ít Khác
nhau
Thấp Quảng
cáo phân
biệt
Công
nghệ khác
ít
Độc
quyền
nhóm
Một số Tương
đối
Tiêu
chuẩn
khác nhau
Cao Quảng
cáo về
phân
biệt sản
phẩm
Như nhau
- Khó khăn thâm nhập thị trường: Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo,
các trở ngại cho việc thâm nhập thị trường rất thấp. Ngược lại, trong thị trường
độc quyền nhóm, các doanh nghiệp khi thâm nhập thị trường là cực kỳ khó
khăn. 
- Hình thức tuyên truyền quảng cáo: Trong thị trường cạnh tranh hoàn
hảo, cần tốn kém cho tuyên truyền, quảng cáo. Trong thị trường cạnh tranh độc
quyền, quảng cáo nhằm phân biệt sản phẩm của họ để lôi cuốn sự chú ý của
khách hàng. Trong thị trường độc quyền nhóm, phải vừa sử dụng nhiều quảng
cáo, vừa phải phân biệt rõ các sản phẩm của doanh nghiệp cho khách hàng rõ. 
- Khả năng công nghệ và vốn: Đó là cái mạnh hoặc yếu riêng có của các
doanh nghiệp. Ở thị trường cạnh tranh hoàn hảo và thị trường độc quyền nhóm,
các doanh nghiệp có trình độ công nghệ và lượng vốn như nhau. Ở thị trường
độc quyền chỉ có một doanh nghiệp với công nghệ đặc thù và tiềm năng lớn về
vốn. Ở thị trường cạnh tranh độc quyền, các doanh nghiệp song song tồn tại với
các công nghệ ít khác nhau. 
b. Đưa ra đối sách kinh doanh
Đó là các biện pháp tất yếu phải sử dụng sau khi đã nhận dạng thị trường.
 - Thị trường cạnh tranh hoàn hảo: Một thị trường được coi là cạnh tranh
hoàn hảo khi nó thoả mãn các điều kiện sau đây: 1) Có vô số người mua và
người bán.Sản lượng của mỗi doanh nghiệp là tương đối nhỏ so với lượng cung
trên thị trường. Chính vì vậy các doanh nghiệp không thể tác động tới giá của thị
trường được, mà phải chấp nhận giá sẵn có trên thị trường; 2) Sản phẩm đồng
nhất và người tiêu dùng có đủ thông tin về sản phẩm, các sản phẩm là giống
nhau và người mua không cần quan tâm đến việc họ sẽ mua của ai và 3) Việc
thâm nhập hoặc rút khỏi thị trường là tự do vì trọng lượng của mỗi doanh nghiệp
là không đáng kể. Giải pháp của doanh nghiệp là phải quan tâm tới các công
87
nghệ đặc thù để tìm cách biến đổi cục diện của thị trường (từ cạnh tranh hoàn
hảo về độc quyền nhám hoặc độc quyền). 
Mức sản lượng của doanh nghiệp có thể lựa chọn, theo lý thuyết kinh tế vi
mô thông thường là mức sản lượng mà tại đó doanh nghiệp có doanh thu biên
bằng chi phí biên (tức chi phí bằng giá bán). Và doanh nghiệp phải ngừng sản
xuất loại sản phẩm đang xem xét khi: 1) giá cao hơn chi phí biến đổi bình quân,
và 2)Doanh nghiệp không đủ khả năng bù đắp được các chi phí biến đổi đó. 
- Thị trường độc quyền: Thị trường độc quyền trái ngược với thị trường
cạnh tranh hoàn hảo. Nếu trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo có vô số người
bán thì trong điều kiện độc quyền chỉ có một người sản xuất một loại sản phẩm cụ
thể cung cấp cho thị trường.
- Đối với thị trường độc quyền, nhà độc quyền đối thoại một mình với
khách hàng. Trường hợp này doanh nghiệp sẽ cố gắng sản xuất ra sản lượng
mang lại lợi nhuận tối đa. Sản lượng này được xác đinh theo quy tắc tối đa hoá
lợi nhuận, đó là sản xuất tại mức sản lượng mà ở đó doanh thu biên bằng chi phí
biên. 
Trong trường hợp thị trường độc quyền, doanh nghiệp sẽ rất thuận lợi
trong việc định giá và thu lợi nhuận. Do đó đường doanh thu luôn nằm dưới
đường cầu (giá) nên sản lượng của doanh nghiệp nhỏ hơn nhiều so với sản
lượng trong cạnh tranh và giá bán lại cao hơn. Doanh nghiệp luôn thu được lợi
nhuận cao hơn bằng cả hai biện pháp: 1) tăng lượng cung, và 2) nâng giá bán. 
Ranh giới của các giải pháp chính là điểm cân bằng kinh tế giữa cung và
cầu của thị trường, theo quy luật cung – cầu – giá cả. 
- Thị trường cạnh tranh độc quyền: Là thị trường trong đó có nhiều người
bán cùng một sản phẩm có thể thay thế nhau nhưng mỗi người chỉ có khả năng
kiểm soát một cách độc lập đối với giá cả của mình. 
Khác với hai trường hợp thị trường đã xét ở trên, hình thức thị trường
cạnh tranh độc quyền là trường hợp trung gian bao gồm cả các yếu tố của cạnh
tranh và cả các yếu tố của độc quyền cạnh tranh. 
Độc quyền có đặc điểm là sự phân biệt sản phẩm. Khác với trong thị
trường cạnh tranh hoàn hảo khi mà tất cả các doanh nghiệp đều bán (sản xuất)
một loại sản phẩm, thì trong thị trường cạnh tranh độc quyền các doanh nghiệp
làm ra các sản phẩm có đặc thù khác nhau (nhưng có thể thay thế nhau). Người
tiêu dùng phân biệt được các sản phẩm của từng doanh nghiệp thông qua nhãn
hiệu, quảng cáo, bao bì và các dịch vụ khác. Trong thị trường cạnh tranh độc
quyền, số lượng người sản xuất tương đối lớn, chính vì vậy mà mỗi doanh
88
nghiệp sẽ có các ảnh hưởng tương đối đến những quyết định về sản xuất, giá cả
của riêng mình; các doanh nghiệp có thể thâm nhập thị trường tương đối dễ
dàng. 
Trong thị trường cạnh tranh độc quyền, mỗi doanh nghiệp sản xuất ra các
sản phẩm khác nhau, do đó đường cầu đối với từng doanh nghiệp là đường dốc
xuống phía dưới về bên phải. Nghĩa là nếu doanh nghiệp nào nâng giá lên đôi
chút, thì doanh nghiệp đó sẽ mất đi một số khách hàng chứ không phải là toàn
bộ và ngược lại nếu có giảm giá đi một chút thì sẽ thu hút được thêm một ít
khách hàng chứ không phải là toàn bộ khách hàng của các đối thủ. Trong thị
trường cạnh tranh độc quyền, giá bán và mức sản lượng cần bán của mỗi doanh
nghiệp là mức sản lượng mà tại đó chi phí biên bằng doanh thu biên. 
- Thị trường độc quyền nhóm: Là thị trường chỉ do một vài doanh nghiệp
sản xuất toàn bộ hoặc hầu hết mức cung của thị trường về loại sản phẩm nào đó.
Giữa các doanh nghiệp có sự phụ thuộc lẫn nhau. Mỗi doanh nghiệp khi xây
dựng chính sách của mình đều phải chú ý đến hành vi của đối thủ để có đối sách
thích hợp, phải sử dụng lý thuyết trò chơi vào giải quyết vấn đề. 
89
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
1. Chức năng quản lý kinh tế là gì? Vai trò của nó trong quản lý kinh tế? 
2. Quản lý kinh tế theo phương hướng tác động có những chức năng nào?
Chức năng nào là quan trọng nhất? Vì sao? Giữa các chế độ xã hội và các mô
hình quản lý kinh tế khác nhau, các chức năng trên có gì giống và khác nhau? Vì
sao? 
3. Theo giai đoạn tác động, quản lý kinh tế có những chức năng nào?
Chức năng nào là quan trọng nhất? Vì sao? Cho ví dụ chứng minh. 
4. Theo nội dung tác động, quản lý kinh tế có những chức năng cơ bản
nào? Chức năng nào là quan trọng nhất? Vì sao?
90

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_quan_tri_doanh_nghiep_vua_va_nho_ly_thuyet_quan_t.pdf